Thursday, August 8, 2013

KINH NGHIỆM TỔ CHỨC TÒA ÁN HIẾN PHÁP Ở ĐỨC




 Nguyễn Minh Tuấn 

Vấn đề bảo hiến ngày nay ở bất cứ quốc gia nào cũng là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có tác động trực tiếp đến cả hệ thống pháp luật. Mô hình tài phán hiến pháp ở Cộng hòa Liên bang Đức đến nay vẫn được đánh giá là một trong những mô hình bảo hiến thành công trên thế giới. Bài viết dưới đây chia sẻ những thông tin cơ bản về vị trí pháp lý, cơ cấu, thẩm quyền, và những đảm bảo cho sự độc lập của Thẩm phán Tòa án Hiến pháp CHLB Đức. Cuối bài viết, tác giả cũng đưa ra một số nhận xét, đánh giá những thành công của mô hình này, đồng thời có lời bàn ngắn liên hệ với điều kiện ở Việt Nam.
1. Vị trí pháp lý của Tòa án Hiến pháp Cộng hòa liên bang Đức
Theo Điều 1 khoản 2 Luật Tòa án Hiến pháp liên bang (Tiếng Đức: Gesetz über das Bundesverfassungsgericht - BVerfGG - dưới đây viết tắt là LTAHPLB)[1], Tòa án hiến pháp liên bang Đức có trụ sở tại Karlsruhe. Tòa án này được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1951 đến nay.
Tòa án hiến pháp cộng hòa liên bang Đức đồng thời có 2 chức năng:
Chức năng thứ nhất - chức năng cơ quan xét xử: Tòa án hiến pháp liên bang là một cơ quan có chức năng xét xử như các Tòa án khác (Theo các Điều 92, 93, 94, 97 Luật cơ bản [dưới đây viết tắt là LCB]). Điều 92 Câu 1 LCB qui định: “Quyền xét xử được trao cho thẩm phán”. Điều này có nghĩa rằng ở Đức, thẩm phán luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối và cũng nhận lấy trách nhiệm to lớn trước nhà nước và xã hội. Qui định này được bổ sung bởi Điều 97 Khoản 1 LCB: “Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật (Gesetze)”.[2]
Chức năng thứ hai - chức năng của một cơ quan hiến định độc lập: Theo Điều 1 Khoản 1 LTAHPLB, Tòa án hiến pháp liên bang là một thiết chế hiến định (Verfassungsorgan) giống như các thiết chế khác ở liên bang như Hạ nghị viện (Bundestag), Thượng nghị viện (Bundesrat), Tổng thống liên bang (Bundespräsident) và Chính phủ liên bang (Bundesregierung).[3] 
Hai chức năng này tạo nên vị trí độc lập của Tòa án hiến pháp liên bang trong hoạt động xét xử theo thẩm quyền tại các Điều 93, Điều 100, Điều 21 Khoản 2, Điều 41 khoản 2, Điều 61, Điều 93 khoản 1 số 4b. 

2. Cơ cấu của Tòa án Hiến pháp liên bang 
Theo Điều 2 Khoản 1 và Khoản 2 LTAHPLB thì Tòa án Hiến pháp liên bang được chia thành 2 Hội đồng xét xử (zwei Senaten), mỗi Hội đồng xét xử gồm có 8 thẩm phán.
Hội đồng xét xử thứ nhất có nhiệm vụ xét xử các vụ việc liên quan đến việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân được qui định trong Luật cơ bản (Grundrechte) từ phía nhà nước theo Điều 14 Khoản 1 LTAHPLB, gọi chung là các khiếu kiện Hiến pháp (Verfassungsbeschwerde).
Hội đồng xét xử thứ hai có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề còn lại thuộc thẩm quyền theo Điều 14 Khoản 2 LTAHPLB. 

3. Thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp liên bang 
Thẩm quyền của Tòa án này được qui định cụ thể ở nhiều Điều khác nhau trong Luật cơ bản như Điều 93, Điều 100, Điều 21 Khoản 2, Điều 41 khoản 2, Điều 61, Điều 93 khoản 1 số 4b.[4]
Trong những quy định này,  thẩm quyền quan trọng nhất của Tòa án Hiến pháp gồm:
  • Quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100 khoản 1 LCB);[5] 
  • Quyền giải thích Hiến pháp (Điều 93 khoản 1 số 2 LCB);[6]  
  • Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Liên bang (Điều 93 khoản 1 số 1 LCB);[7] 
  • Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93 Khoản 1 số 3 và số 4);[8] 
  • Quyền giải quyết khiếu kiện liên quan đến bầu cử (Wahlprüfungsverfahren) (Điều 41 Khoản 2 LCB)[9], giải quyết việc cấm một Đảng phái nào đó hoạt động (Parteiverbotsverfahren - Điều 21 Khoản 2 LCB)[10], Khiếu kiện Tổng thống (Điều 61 Khoản 2 LCB);[11] 
  • và đặc biệt là quyền giải quyết khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân khi bị cơ quan công quyền xâm phạm các quyền cơ bản qui định từ Điều 1 đến Điều 19 LCB (Verfassungsbeschwerde - Điều 93 khoản 1 số 4a).[12] 
Theo số liệu thống kê thực tế của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức về số lượng giải quyết các vụ việc của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức từ 7/9/1951 đến 31/12/2007 công bố tại website của Tòa án hiến pháp liên bang[13]  thì: số lượng vụ việc thụ lý là 169.502 vụ việc, trong số đó có tới 163.374 vụ việc (chiếm tới 96,37%) là các khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân (Verfassungsbeschwerde). Điều này cho thấy đa phần các vụ việc trên thực tế của Tòa án Hiến pháp liên bang là giải quyết khiếu kiện Hiến pháp (Verfassungsbeschwerde - Điều 93 khoản 1 số 4a LCB).[14] 

4. Những điều kiện bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán Tòa án Hiến pháp liên bang 
Thẩm phán là người có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Hình tượng vị thần công lý (Tiếng latinh: iustitia) được người xưa nhân cách hóa bằng hình ảnh người phụ nữ bịt mắt một tay cầm cân, một tay cầm kiếm để nói lên khát vọng của con người về công lý. Việc bịt mắt ở đây không có nghĩa là người thẩm phán hay người ra phán quyết mù lòa về mặt pháp lý, mà là việc mong muốn phán quyết phải thật sự khách quan, không thiên vị. Nhưng làm thế nào để thẩm phán thực sự khách quan, không thiên vị?
Ở Cộng hòa liên bang Đức, họ đã đặt ra những điều kiện sau:
Thứ nhất, tiêu chuẩn Thẩm phán: Theo Điều 94 Khoản 1 LCB, Điều 3, Điều 98 LTAHPLB, Thẩm phán Tòa án Hiến pháp liên bang phải đạt những tiêu chuẩn sau:
  • Từ 40 tuổi trở lên (Điều 3 Khoản 1 LTAHPLB);
  • đủ năng lực về pháp lý (Điều 3 Khoản 2 LTAHPLB và Điều 5 Khoản 1 Luật thẩm phán (Deutsches Richtergesetz).[15]Có đủ năng lực pháp lý ở đây theo Điều 5 Khoản 1 Luật thẩm phán là người phải hoàn thành kỳ thi quốc gia thứ hai về luật (2. Juristisches Staatsexamen) hoặc là Giáo sư luật (Professor der Rechte) tại trường Đại học ở Đức; 
  • Không được đồng thời là thành viên của Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ liên bang, cũng như bất cứ cơ quan nào của bang. Qui định này nhằm đảm bảo yêu cầu độc lập, khách quan cũng như tính trung lập (Unparteilichkeit) của thẩm phán (Điều 94 Khoản 1 Câu 3 L và Điều 3 Khoản 3 LTAHPLB).
Thứ hai, qui trình bầu thẩm phán: Thẩm phán TAHPLB được bầu theo Điều 94 Khoản 1 Câu 2 LCB và các Điều  từ Điều 5 LTAHPLB, theo nguyên tắc bầu đa số tiêu chuẩn (phải đạt được 2/3 số thành viên tán thành). Các thẩm phán được bầu theo nguyên tắc một nửa là từ Hội đồng bầu thẩm phán (Richterwahlausschuss) của Hạ viện (Theo Điều 6 LTCTAHPLB) và một nửa là bởi Thượng viện (Theo Điều 51, 52 LCB và Điều 7 LTCTAHPLB).[16] 
Thứ ba, nhiệm kỳ kéo dài: Nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang là 12 năm. Theo qui định tại Điều 4 LTAHPLB, Thẩm phán chỉ được bầu duy nhất 1 lần.
Thứ tư, điều kiện đồng nghiệp giúp việc về khoa học: Theo Điều 13 Khoản 1 Luật tổ chức Tòa án Hiến pháp liên bang (GeschO BVerfG), Tòa án hiến pháp liên bang hiện nay ở Karlsruhe có khoảng 60 đồng nghiệp, là các chuyên gia giỏi, giúp việc về khoa học (wiss. Mitarbeiter). Đây thực sự là trợ lực quan trọng giúp các thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang có thể hoàn thành nhiệm vụ bảo hiến cao cả của mình.[17]
Thứ năm, thu nhập tương xứng với trách nhiệm: Theo qui định của Luật về thu nhập của thành viên Tòa án Hiến pháp liên bang (Gesetz über das Amtsgehalt der Mitglieder des Bundesverfassungsgerichts)[18] thì lương của Chánh án Tòa án Hiến pháp liên bang tương đương với lương của Bộ trưởng khoảng 15.500 Euro/ 1 tháng (khoảng 465.000.000 đồng Việt Nam/ 1 tháng). Lương của Thẩm phán Tòa án Hiến pháp liên bang tương đương với lương của Chánh án Tòa án Tối cao (Nhóm BBesO R10) khoảng 12.503 Euro/ 1 tháng (khoảng 375.000.000 đồng Việt Nam/ 1 tháng).[19]
Thứ sáu, chủ động trong mọi hoạt động nội bộ của Tòa án (Geschäftsordnungs-autonomie): Theo Điều 1 Khoản 3  LTAHPLB, Tòa án Hiến pháp liên bang có quyền ban hành một điều lệ riêng, tự quyết về tổ chức của mình.
Thứ bảy, độc lập với hành chính: Theo Điều 94 Khoản 1 Câu 3 LCB và Điều 3 Khoản 3 LTCTAHPLB thì Tòa án Hiến pháp liên bang: 
  • Không có giám sát công vụ (keine Dienstaufsicht)[20], 
  • Không có sự chỉ đạo công tác xét xử từ bên ngoài (keine Dienstweg), 
  • Không phụ thuộc vào các cơ quan hành chính trong việc trả lương, có ngân sách riêng độc lập (eigener Haushalt) về việc trả lương thẩm phán.[21]
Thứ tám, độc lập quyết định khi xét xử của từng thành viên trong hội đồng (Entscheidungen im Senat): Theo Điều 15 Khoản 2 Câu 1 LTAHPLB, khi xét xử, Hội đồng xét xử phải có ít nhất 6 trên tổng số 8 thẩm phán tham gia và quyết định theo nguyên tắc quá bán (einfach Mehrheit). Trong trường hợp số phiếu bằng nhau thì giải quyết theo Điều 15 Khoản 4 Câu 3 LTAHPLB). Khi xét xử mỗi thẩm phán hoàn toàn độc lập. Chánh án Tòa án Hiến pháp liên bang là chức danh về hành chính, được thay đổi luân phiên và không có quyền được chỉ đạo các thẩm phán khác khi xét xử (Điều 10 Khoản 1 Luật tổ chức TAHPLB). Ý nghĩa đặc biệt nhất trong phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang chính là giá trị của phán quyết được qui định tại Điều 31 Khoản 1 LTAHPLB: "Phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang có hiệu lực ràng buộc đối với các thiết chế hiến định của liên bang, các tiểu bang cũng như tất cả các tòa án và cơ quan hành chính.[22]

5. Những thành công cơ bản
Thứ nhất, thành công trong việc xác định chính xác vị trí pháp lý của Tòa án hiến pháp liên bang với hai tư cách vừa là cơ quan xét xử, nhưng cũng vừa là một thiết chế hiến định độc lập với các thiết chế khác ở liên bang. Chính điều này phản ánh vị trí mà cơ quan thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp nhất thiết cần thiết phải có.[23]
Thứ hai, việc chia thành 2 Hội đồng xét xử là một qui định thành công. Sở dĩ nói qui định này thành công vì thực tế tiến độ xét xử các vụ việc liên quan đến Hiến pháp được đẩy nhanh, đồng thời tính chuyên môn hóa ng được nâng cao do mỗi Hội đồng xét xử phụ trách một nhóm các khiếu kiện hiến pháp độc lập.[24]
Thứ ba, thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện Hiến pháp của công dân nhằm bảo vệ các quyền cơ bản, chống lại sự xâm phạm từ phía nhà nước của Tòa án hiến pháp liên bang có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc thẩm quyền này được sử dụng nhiều thông qua số lượng vụ việc giải quyết khiếu kiện hiến pháp của công dân trên thực tế cho thấy mức độ quan trọng của nó trong tương quan với các thẩm quyền khác của Tòa án hiến pháp liên bang.
Thứ tư, khi đã trở thành Thẩm phán, trong công việc của mình, Thẩm phán có những ưu ái đặc biệt như nhiệm kỳ kéo dài (12 năm), được trả mức lương cao, có nhiều đồng nghiệp là các chuyên gia pháp lý hỗ trợ, giúp đỡ trong công việc. Những điều kiện này giúp Thẩm phán có đủ điều kiện vật chất, điều kiện làm việc, hoàn toàn yên tâm tập trung cho công việc một cách tốt nhất.
Thứ năm, ngoài những tiêu chuẩn như phải từ 40 tuổi trở lên (Điều 3 Khoản 1 LTAHPLB), có đủ năng lực về pháp lý (Điều 3 Khoản 2 LTAHPLB và Điều 5 Khoản 1 Luật thẩm phán (Deutsches Richtergesetz),  Luật cơ bản và Luật Tòa án hiến pháp liên bang còn có một qui định rất quan trọng là Thẩm phán không được đồng thời là thành viên của Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ liên bang, cũng như bất cứ cơ quan nào của bang. Qui định này ngoài việc phản ánh đúng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước, còn khiến thẩm phán hoàn toàn vô tư và khách quan trong việc xét xử. Thẩm phán Tòa án Hiến pháp khi phán quyết chỉ tuân theo luật, không chịu bất cứ tác động nào từ phía bên ngoài, không chịu bất cứ sự chỉ đạo nào về mặt chính trị hay hành chính. Đây là tiêu chí, là đòi hỏi quan trọng nhất đảm bảo tính độc lập của thẩm phán.


NMT


[1] Luật Tòa án Hiến pháp liên bang Đức lần đầu tiên được công bố vào ngày 12 tháng 3 năm 1951, trên Công báo số 1 từ trang 243, có hiệu lực thi hành từ ngày 17 tháng 4 năm 1951. Đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung và được công bố ngày 11 tháng 8 năm 1993, trên Công báo số 1 năm 1993  từ trang 1473. Gần nhất là Điều 11 được sửa đổi và công bố vào ngày 22 tháng 12 năm 2010 trên Công báo 2010, số 1, từ trang 2248, có hiệu lực 22 tháng 12 năm 2010. Mặc dù đạo luật này do Nghị viện ban hành, nhưng thực chất nó xây dựng một qui trình tố tụng hiến pháp bền vững, cùng với qui định tự hành trong hoạt động (Geschäftsordnungsautonomie – Điều 1 Khoản 3 BverfGG), luật này bảo vệ tốt hơn sự độc lập của Tòa án, đồng thời khiến Nghị viện cũng sẽ không dễ dàng sửa luật nhằm tìm cách can thiệp vào công tác xét xử của Tòa án Hiến pháp.
[2] Khái niệm luật (Gesetz) tại Điều 97 Khoản 1 LCB trong sự liên hệ với Điều 20 Khoản 3 LCB và Điều 100 Khoản 1 Câu 1 LCB được hiểu theo nghĩa rộng tức là không chỉ các đạo luật của liên bang (Gesetze), mà còn các văn bản dưới luật (Rechtsverordnungen, Satzungen) và luật tập quán (Gewohnheitsrecht). Xem thêm: Jarass/Pieroth, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Kommentar, 9. Aufl., 2007, Art. 97, Rn.1f.
[3] Ở Cộng hòa liên bang Đức theo qui định của Luật cơ bản có 5 thiết chế Hiến định của liên bang (Verfassungsorgane): Hạ viện (Bundestag), Thượng viện (Bundesrat), Chính phủ (Bundesregierung), Tổng thống (Bundespräsident) và Tòa án hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgericht). Về nguyên tắc, các thiết chế này là ngang hàng nhau, kiểm soát và cân bằng quyền lực, không cơ quan nào cao hơn cơ quan nào. Các Tòa án tối cao liên bang (Bundesgerichthofs) trong hệ thống các cơ quan tư pháp (Rechtsprechung) không có được vị trí này như Tòa án hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgericht).
[4] Tòa án Hiến pháp liên bang chỉ làm việc dựa trên cơ sở có khiếu kiện. Chức năng của Tòa án Hiến pháp khác với cơ quan hành chính không phải là thi hành Hiến pháp hay luật, mà là bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
[5] Xem thêm: Wernsmann, Konkrete Normenkontrolle (Art. 100 Abs. 1 GG), Jura 2005, S. 328.
[6] Xem thêm: Jarass/Pieroth, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Kommentar, 9. Aufl., 2007, Art. 93, Rn.19f.
[7] Xem thêm: Jarass/Pieroth, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Kommentar, 9. Aufl., 2007, Art. 93, Rn.5f.
[8] Xem thêm: Hillgruber/Goos, Verfassungsprozessrecht, 2.Aufl. 2006; Alleweldt, BVerfG und Fachgerichtsbarkeit 2006.
[9] Xem thêm: T.Koch, „Bestandsschutz“ für Parlamente? – Überlegungen zur Wahlfehlerfolgenlehre, DVBl 2000, 1093; Roth, Subjektiver Wahlrechtsschutz und seine Beschränkungen durch das Wahlprüfungsverfahren, FS Graßhof, 1998, S. 53.
[10] Xem thêm các phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang: BVerfGE 4, 27 (30f.); BVerfGE 11, 239, (241ff.).
[11] Xem thêm: Kunig, Der Bundespräsident, Jura 1994, S. 217f.; Kilian, Der Bundespräsident als Verfassungsorgan, JuS 1988, S. 33.
[12] Xem thêm: Zuck, Das Recht der Verfassungsbeschwerde, 3. Aufl., 2006; Hain, Die Individualverfassungsbeschwerde nach Bundesrecht, 2002.
[13] Số liệu thống kê thực tế của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức về giải quyết các vụ việc của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức từ ngày 7/9/1951 đến ngày 31/12/2007 công bố tại website chính thức của Tòa án hiến pháp liên bang Đức tại địa chỉ: http://www.bundesverfassungsgericht.de/organisation/gb2007/A-I-1.html truy cập gần nhất ngày 5/3/2011.
[14] Tuy nhiên cũng theo số liệu khảo sát này (xem Footnote số 13), trong số những vụ việc được thụ lý liên quan đến khiếu kiện Hiến pháp (Verfassungsbeschwerde) chỉ có 3.983 vụ (chiếm khoảng 2,5%) được giải quyết thành công.
[15] Luật thẩm phán của Đức lần đầu tiên được công bố ngày 8/9/1961, tại Công báo số 1 năm 1961 từ trang 1665, có hiệu lực thi hành ngày 1/7/1962. Đạo luật này được sửa đổi, bổ sung, được công bố lần thứ hai ngày 19/4/1972, đăng trên Công báo số 1 năm 1972, từ trang 713.
Theo qui định chung ở Đức, một người sau khi hoàn thành kì thi quốc gia thứ hai về luật sẽ được nhận một chứng nhận kết thúc quá trình đào tạo luật chính thức (die voll-juristische Ausbildung) có tên là chứng nhận Assessor, đây là điều kiện cần để một người có thể hành nghề luật như Luật sư, thẩm phán, công chức, công tố viên hoặc tiếp tục nghiên cứu ở trường Đại học hay một Viện nghiên cứu. Tuy nhiên, để có được chứng nhận này một người trung bình phải mất từ 9 đến 10 năm (theo thống kê của Bộ Tư Pháp Đức độ tuổi trung bình khi học Đại học Luật là 19-20 tuổi và kết thúc kỳ thi quốc gia thứ hai là khoảng 28-29 tuổi). Ngoài ra, muốn trở thành giáo sư đại học (Professor), ngoài việc có chứng nhận Assessor, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (Doktorarbeit), người có học vị tiến sĩ phải tiếp tục tích lũy nhiều điều kiện khác như: 1. Hoàn thành bậc sau tiến sĩ (Habilitation), bảo vệ thành công đề tài sau tiến sĩ (Habilitationsschrift); 2. Tích lũy đủ các công trình khoa học; 3. Tích lũy đủ kinh nghiệm giảng dạy và 4. Được một trường Đại học công nhận và bổ nhiệm. (Xem thêm: Nigel Foster, Satish Sule, German Legal System and Laws, 3. Edition, Oxford, 2008, p. 86).
[16] Xem thêm: H. Maurer, Staatsrecht I, 5. Aufl. 2007, § 19, Rn.1-28.
[17] Xem: Gröpl, Staatsrecht I, 2. Aufl. 2010, Rn. 1611ff.
[18] Luật về thu nhập của thành viên Tòa án Hiến pháp liên bang (Gesetz über das Amtsgehalt der Mitglieder des Bundesverfassungsgerichts) được ban hành ngày 28/02/1964, công bố tại Công báo năm 1964, quyển 1, từ trang 133, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1964.
[19] Theo danh mục bảng lương 4, nhóm R, Luật trả lương của liên bang: Anlage IV Tabelle „R“ zum Bundesbesoldungsgesetz, cập nhật đến 28 tháng 2/ 2011.
[20] Xem thêm: Kischel, Amt, Unbefangenheit und Wahl der Bundesverfassungsrichter, HbStR III, 2005, § 69; Pieper, Verfassungsrichterwalen, 1998.
[21] Xem: E. Schmidt - Jortzig, Aufgabe, Stellung und Funktion des Richters im demokratischen Rechtsstaat, NJW 1991, 2377f.; Groepl, Staatsrecht I, 2. Aufl. 2010, Rn. 1611ff.
[22] Xem thêm: H. Maurer, Staatsrecht I, 5. Aufl. 2007, § 19, Rn.1-28; E. Schmidt - Jortzig, Aufgabe, Stellung und Funktion des Richters im demokratischen Rechtsstaat, NJW 1991, 2377–2383; D. Grimm, Verfassungsgerichtbarkeit im demokratischen System, JZ 1976, S. 697-703.
[23] D. Leuze, Richterliche Unabhängigkeit, DÖD 2005, 78–83; D. Grimm, Verfassungsgerichtbarkeit im demokratischen System, JZ 1976, 697–703.
[24] Xem thêm: Trí Hảo, Philipp Kunig, Đặc trưng của mô hình tài phán Hiến pháp Đức, Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng quốc hội, Số 8 (4/2009), tr. 52–57.
-----------------------

 Lời bàn:

Ở Việt Nam, chủ đề bảo hiến đã được rất nhiều những nhà khoa học nghiên cứu và phân tích dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên tôi cho rằng, trước khi đặt ra vấn đề bảo hiến ở Việt Nam cần phải xem lại, đặt ngược lại vấn đề một cách nghiêm túc rằng Hiến pháp hiện hành có đángcó cần được bảo vệ hay không? Nếu có, thiết chế nào có khả năng độc lập, có khả năng đối trọng với các thiết chế khác đứng ra làm nhiệm vụ này?
Việt Nam vẫn có những vấn đề riêng của mình mà kinh nghiệm của Đức hay của các quốc gia tân tiến cũng không thể giúp gì được nhiều. Tôi vẫn bảo lưu quan điểm rằng nếu chỉ sửa những vấn đề nhỏ trước mắt, mà không đi thẳng giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất như: mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, đặc biệt là các quyền chính trị và tư pháp; hạn chế quyền lực nhà nước thông qua tích hợp hạt nhân hợp lý của cơ chế phân quyền, kiểm soát và cân bằng quyền lực; xây dựng cơ chế tài phán hiến pháp độc lập và trả lại cho người dân quyền phúc quyết hiến pháp thì lần sửa đổi hiến pháp tới đây vẫn sẽ đi vào ngõ cụt, vẫn đi theo "vết xe đổ" giống như những lần sửa đổi trước mà thôi.

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code