PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi (Đại học Luật Hà nội)
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội,
Hiến pháp năm 1992 hiện hành là Hiến
pháp của thời kỳ đổi mới. Trải qua gần hai mươi năm thực hiện, do hoàn
cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi nên một số nội dung của
Hiến pháp đã không còn phù hợp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với điều kiện
kinh tế - xã hội và tư duy pháp lý hiện đại, một số nội dung của Hiến
pháp cần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu mới.
Trước hết, Điều
2 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”. Chúng tôi cho rằng, trong điều luật này
nên bỏ cụm từ “mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Bởi lẽ:
Chúng ta đang phấn
đấu để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, và để có được một xã hội như vậy, cần phải huy động sức
mạnh và có sự đóng góp công sức của toàn thể nhân dân, trong đó có vai
trò vô cùng quan trọng của các doanh nhân. Đó cũng là lực lượng mà Nhà
nước cần phải bảo vệ, động viên, tranh thủ sức mạnh và sự đóng góp của
họ. Nếu cứ ghi nhận như Hiến pháp năm 1992 thì có thể gây ra một trạng
thái tâm lý “hình như Nhà nước có sự phân biệt đối xử” đối với lực lượng
này.
Ngoài ra, hiện nay, quan niệm về
giai cấp rất khó xác định vì các lực lượng xã hội đã có sự biến động
rất lớn theo thời gian. Có thể cùng một người vốn là nông dân, một thời
gian sau nhập ngũ, hết nghĩa vụ về học đại học rồi trở thành giảng viên
đại học, thành cán bộ, công chức hay nhân viên văn phòng thì xếp họ
thuộc về giai cấp nào? Hoặc một công nhân, học lên cao đẳng rồi làm giám
đốc doanh nghiệp, thì họ là trí thức hay công nhân?
Hơn nữa,
bên cạnh việc quan tâm đến lợi ích của lực lượng cầm quyền, các Nhà nước
đều cố gắng quan tâm đến lợi ích chung của toàn thể nhân dân, của toàn
xã hội. Do đó, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến tính giai cấp của
Nhà nước, vì như vậy có thể gây ra những trở lực không đáng có cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Với lập luận trên, chúng
tôi đề nghị Điều 2 của Hiến pháp nên được viết lại là: “Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho Nhà
nước thực hiện thông qua việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào cơ
quan đại diện, quyền thông qua Hiến pháp”.
Thứ hai, hiện
nay, một hoạt động đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới là
tổ chức trưng cầu ý dân để bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước. Ví dụ, ở Anh, Nhà nước đã tổ
chức trưng cầu ý dân về việc giữ lại hay bỏ ngôi Vua; các Nhà nước thuộc
Liên minh châu Âu tổ chức trưng cầu ý dân về các vấn đề: gia nhập Liên
minh châu Âu; sử dụng đồng tiền chung châu Âu hay có phê chuẩn Hiến pháp
châu Âu hay không?...
Để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, để phù hợp với xu thế thời đại, thiết nghĩ, Hiến
pháp nên có một điều riêng quy định việc trưng cầu ý dân và điều đó cần
nhanh chóng được cụ thể hoá trong một đạo luật của Quốc hội. Có
như vậy thì quyền “tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân” của công dân - đã được ghi trong Hiến pháp - mới có thể trở thành
hiện thực; nếu không, quyền này của công dân Việt Nam vẫn chỉ là một
quyền “hữu danh vô thực”. Thực tế, công dân nước ta - từ khi Hiến pháp
đầu tiên ra đời đến nay - chưa thực hiện được quyền này.
Thứ ba,
việc Hiến pháp dành riêng Điều 4 để ghi nhận quyền lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, ghi nhận “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật” là cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh của
nước ta. Tuy nhiên, để từng bước thực hiện được mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền, thiết nghĩ, đã đến lúc điều này cần được cụ thể hoá
trong một đạo luật riêng, tương tự như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc Luật Công đoàn. Trên thực
tế, mặc dù là tổ chức lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước, song Đảng cũng
chỉ là một tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, tồn tại và hoạt
động trong phạm vi lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Nhà nước, nên giống
như các tổ chức khác của hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng cũng
cần phải được thực hiện theo pháp luật. Trong điều kiện phấn đấu
để xây dựng Nhà nước pháp quyền, không một tổ chức nào có thể đứng trên
hoặc đứng ngoài pháp luật. Có luật này sẽ tránh được cảm giác dường như
trong xã hội vẫn có tổ chức “siêu quyền lực”, đứng trên hoặc đứng ngoài
pháp luật; đồng thời ngăn chặn được tình trạng có những kẻ thoái hoá,
biến chất, lợi dụng danh nghĩa tổ chức đó để vi phạm pháp luật, trục lợi
cho bản thân và gia đình.
Thứ tư, Điều 6 Hiến pháp hiện
hành quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Chúng tôi cho rằng, quy định trên vô hình trung đã thu hẹp hình thức sử
dụng quyền lực nhà nước của nhân dân, đặc biệt là không phù hợp với chủ
trương không thành lập Hội đồng nhân dân ở một số địa phương và với xu
thế phát triển của nền dân chủ. Thực
tế, tất cả các cơ quan nhà nước đều thực hiện quyền lực nhà nước, vì
thế, theo chúng tôi, quy định này nên được sửa lại là “Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
các tổ chức trong hệ thống chính trị, qua quyền thông qua Hiến pháp và
quyền biểu quyết trong các cuộc trưng cầu ý dân”. Như thế, tất cả các cơ
quan nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân là lẽ đương nhiên.
Thứ năm, Điều 50 của Hiến pháp 1992 có nêu: “Ở
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Theo chúng
tôi, điều này đã thu hẹp phạm vi quyền con người. Quyền con người phải
được hiểu là quyền tự nhiên, bẩm sinh của con người, gắn liền với con
người với tư cách là một con người, một thực thể của giới tự nhiên.
Quyền công dân chỉ là những quyền pháp lý, được pháp luật thừa nhận cho
công dân tuỳ theo khả năng của Nhà nước. Quyền con người thuộc phạm trù
phổ biến, tồn tại song song với sự tồn tại của con người, phổ biến trong
mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi thời đại. Quyền công dân luôn có sự
thay đổi theo thời gian, được thừa nhận tuỳ theo khả năng bảo đảm thực
hiện của Nhà nước và theo xu hướng ngày càng được mở rộng hơn, ngày càng
có tính khả thi hơn. Phạm vi
quyền con người rộng hơn quyền công dân. Vì thế, chúng tôi đề nghị nên
sửa đổi điều luật theo hướng khẳng định các quyền tự nhiên chính đáng
của con người được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ.
Thứ sáu, về
quyền và nghĩa vụ học tập của công dân được nêu tại Điều 59 của Hiến
pháp, chúng tôi cho rằng, trong xu thế phát triển của nền kinh tế tri
thức, của Chính phủ điện tử hiện nay, khi mà điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội nằm ngay trong đầu óc con người, trong trình độ nhận thức
của con người, tri thức của con người giữ vai trò là động lực trực tiếp
của sự phát triển, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thì tầm quan trọng của giáo dục phải được đề cao đúng mức. Trên thế
giới hiện nay có nhiều nước đã thực hiện phổ cập giáo dục bắt buộc cho
công dân đến hết cấp II, Nhà nước ta cũng đã chủ trương “thực hiện phổ
cập giáo dục trung học cơ sở” (Điều 36 Hiến pháp năm 1992). Do đó, Điều 59 của Hiến pháp nên được sửa đổi theo hướng quy định bậc trung học cơ sở là bắt buộc, không phải trả học phí. Có như vậy mới có thể dễ dàng thực hiện được chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc cho công dân.
Thứ bảy, về các cơ quan trong bộ máy nhà nước:
- Các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp nên được sửa đổi theo hướng xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan lập pháp của Nhà nước. Quốc
hội có quyền làm luật và sửa đổi luật, có quyền đề nghị sửa đổi Hiến
pháp, còn quyền thông qua Hiến pháp là quyền của nhân dân, được thực
hiện theo hình thức trưng cầu ý dân.
Hiến
pháp nên quy định việc thành lập một cơ quan bảo hiến để bảo đảm tính
tối cao của Hiến pháp, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của luật và giám
sát hoạt động của Quốc hội.
- Quyền
lực của Chủ tịch nước nên được tăng cường theo hướng Chủ tịch nước là
người nắm quyền hành pháp tối cao và là người có thực quyền hành pháp.
Theo đó, cách thức hình thành chức vụ Chủ tịch nước cũng nên được thay
đổi theo hướng phù hợp, nếu có thể thì nên để cử tri cả nước bầu trực
tiếp. Đồng thời với việc tăng cường quyền lực cho Chủ tịch nước, Hiến
pháp cũng nên giới hạn số nhiệm kỳ được nắm giữ quyền lực của Chủ tịch
nước và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực của Chủ tịch nước.
-
Vị trí của Chính phủ nên được xác định theo hướng Chính phủ là cơ quan
hành pháp của Nhà nước. Các thành viên của Chính phủ có thể do Chủ tịch
nước lựa chọn và đề nghị để Quốc hội phê chuẩn.
- Các cơ quan Toà án và Kiểm sát (hoặc Công tố) nên được tổ chức theo cấp xét xử. Chức vụ Thẩm phán và Kiểm sát viên (hoặc Công tố viên) nên do Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- Để bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thiết nghĩ, Hiến
pháp nên định rõ trong cùng một thời gian, không ai có thể vừa là thành
viên của cơ quan lập pháp, vừa là thành viên của cơ quan hành pháp hoặc
tư pháp. Hiến pháp cũng nên giới hạn số nhiệm kỳ của những người nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.
- Đối
với cơ quan chính quyền địa phương, chỉ nên thành lập Hội đồng nhân dân
ở cấp tỉnh, còn cấp huyện và cấp xã chỉ nên thành lập cơ quan quản lý
hành chính. Điều đó có thể giảm bớt sự cồng kềnh trong bộ máy nhà
nước và cũng có thể tăng cường được hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tuy
nhiên, cần phải xây dựng một cơ chế hữu hiệu để giám sát hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương để ngăn chặn, hạn chế sự chuyên
quyền, độc đoán và sự lạm quyền của các cơ quan này.
- Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nên chăng Hiến
pháp chỉ cho phép cơ quan chính quyền cấp tỉnh trở lên mới có quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, còn cơ quan quản lý cấp huyện và cấp
xã chỉ có quyền ban hành văn bản hành chính để tổ chức thực hiện quy
định của pháp luật, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại
địa phương và quản lý các lĩnh vực hoạt động của địa phương.
0 comments:
Post a Comment