I. Dẫn nhập -II. Ý nghĩa của cứu cánh luận -III. Bergson và thuyết tiến hóa sáng tạo -IV. Thuyết tiến hóa hiển lộ -V. Tóm lược
I. Dẫn nhập
Hệ quả của chủ nghĩa máy móc
Cuộc xung đột giữa chủ nghĩa máy móc (mechanism) và cứu cánh luận (teleology) diễn ra kịch liệt suốt thế kỷ 19. Những tuyên bố của chủ nghĩa máy móc nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ sự kiện khoa học đưa ra được những giải thích hữu hiệu về các biến cố. Vượt lên trên tất cả, quan hệ nhân quả với định luật sắt đá của nó dường như thống trị với thẩm quyền khắc nghiệt.
Con người từ bỏ vị trí hãnh tiến được làm đỉnh điểm của cuộc sáng thế, kẻ có sứ mệnh cai quản muôn loài hữu thể thuộc các cấp bậc thấp hơn nó. Từ nay, con người nhận ra mình chỉ là chiếc răng cưa trong bánh xe hoặc là quân cờ trong bàn tay của định mệnh mù lòa và vô trách nhiệm.
Chẳng thể đành lòng
Một số triết gia phản đối lối lý giải các sự kiện theo kiểu đó. Họ trưng dẫn một minh họa về sự sử dụng sai lạc khoa học khi triển khai một nguyên lý, thí dụ quan hệ nhân quả, một định luật vốn chỉ thao tác ở cấp bậc vật chất lại được dùng để thông giải cho toàn thể vũ trụ. Một số khác chống đối lối lý giải ấy bằng lời chứng của mạc khải thiêng liêng, niềm xác tín vào tự do và thực tế của đạo đức, luân lý.
Lâm ly thống thiết hơn cả là những kẻ chỉ có thể kháng cự chứng cớ khoa học bằng lời khẳng định rằng họ cần phải có một bảo đảm nào đó về cứu cánh của cuộc đời, một ý nghĩa nào đó cho toàn bộ lược đồ buồn thảm của khổ đau và chết chóc ở cõi thế gian.
Trên qui mô lớn, những lời phản đối chủ nghĩa máy móc dựa trên các khát vọng và thái độ đầy cảm tính. Không ai có thể xem một lập trường là đúng và chân thành ủng hộ nó khi lập trường ấy thiếu cơ sở và chỉ là niềm ao ước muốn biến nó thành đúng.
Lối thoát của Kant
Immanuel Kant nỗ lực tìm một lối thoát bằng cách phân biệt đức tin và lý trí và bằng cách biến con người thành phần tử của hai thế giới. Trong thế giới thứ nhất của hiện tượng (the world of phenomena), con người là đối tượng của quan hệ nhân quả tự nhiên như bất cứ đối tượng hữu hình nào khác. Và trong thế giới thứ hai của bản thể (the world of noumena), y là một hữu thể có lý trí, một cội nguồn chân chính của trật tự trong thiên nhiên, và do đó, được miễn trừ khỏi định luật quan hệ nhân quả.
Các triết gia về sau bác bỏ giải pháp theo đó bắt buộc phải trình bày con người như đang sống trong hai thế giới. Kể từ thời của Kant, các nỗ lực ấy hướng tới việc tìm cho ra một giải pháp cho vấn đề đó bằng một khái niệm đơn nhất (a single conception). Thật chẳng dễ dàng chút nào vì chúng ta đòi hỏi một lý thuyết một đằng thừa nhận thiên nhiên rất có trật tự qui củ nhưng đằng khác, vẫn ủng hộ niềm xác tín của chúng ta vào sự tự do của con người.
Lãng mạn và nan giải
Người ta có cảm giác rằng loài người không bao giờ thật sự tin vào một lý thuyết giống như chủ nghĩa máy móc. Trong phòng thí nghiệm, nhà khoa học thích học thuyết quan hệ nhân quả (doctrine of causality) vì nó khiến y có khả năng kiểm soát các nguồn vật liệu và lập thành những dự báo kết quả các cuộc thí nghiệm của mình. Nhưng khi cởi chiếc áo bờ-lu trắng của phòng thí nghiệm, nhà khoa học cũng muốn cởi luôn học thuyết đó và hành động giữa đời như thể y tin rằng mình là một hũu thể tự do, một con người có khả năng đưa ra những quyết định lơ lửng.
Mặt khác, chẳng ai muốn thấy các biến cố hoàn toàn mập mờ và vô định. Mọi người đều muốn có một thế giới đáng tin cậy hết sức có thể được. Không ai muốn sống trong một thế giới thỉnh thoảng không chẳng có cơm ăn áo mặc và là nơi môi trường dễ bị làm cho ô nhiễm, khí hậu hình như đang nóng dần lên vì đủ loại khói công nghiệp, sinh mạng bị khủng bố, không được cấp cứu kịp thời khi có thiên tai hạn hán và ngay cả nước uống, thức ăn lâu lâu lại nghe nói là không đạt tiêu chuẩn vệ sinh.
Gặp tình thế nan giải, con người cầu xin phép lạ. Nhưng một chuỗi liên tục các phép lạ sẽ làm cho ta sống trong trạng thái hồi hộp run rẩy và biến những cử chỉ từ bi của một Thượng đế nhân từ thành sự thất thường đáng sợ của một nhà cai trị bất nhất. Chúng ta vừa muốn được vào cõi thiên thai đầy hoa đào và người tiên, vừa như Từ Thức muốn trở lại với trần gian sống giữa người dương thế. Và đó là một tình thế lãng mạn tiến thoái lưỡng nan: chúng ta không thể sống mà không có sự đáng tin cậy, tuy các điều kiện đáng tin cậy thì dường như hàm ý rằng con người phải, chẳng kém gì sỏi đá, làm đối tượng thụ động của các sức mạnh tự nhiên,.
Ði tìm giải thích mới
Nhu cầu nhất quán tư tưởng đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa cái này cái nọ, và toàn bộ bằng chứng khoa học trong thế kỷ 19 đều tán trợ ý tưởng về sự đáng tin cậy và chủ nghĩa máy móc tiếp đó. Một khi khoa học chưa từ bỏ lập trường ấy thì con người không thể đạt thêm bước tiến nào trong cuộc tiến công chống lại kết luận đó.
Những triển khai về sau của khoa học trong hai thế kỷ vừa qua và vào lúc bắt đầu thế kỷ 21 này đã chiếu sáng các hiện tượng vốn không thể giải thích bằng ba nguyên lý của chủ nghĩa máy móc. Khoa học đã từ bỏ chủ nghĩa máy móc khắc nghiệt và đề xuất những lý thuyết hướng tới nhu cầu mới, đòi hỏi một hình thức giải thích nào đó mang tính cứu cánh luận.
Ðể có thể am hiểu trọn vẹn ý nghĩa của sự triển khai này, điều thiết yếu là cần phải xem xét ý nghĩa của cứu cánh luận và truy tầm dấu vết lịch sử củøa ý tưởng ấy trong triết học cùng các lý thuyết mới về tiến hóa. Và những đối tượng xem xét ấy làm thành định hướng cho con đường tra vấn mà chúng ta sẽ đi theo ở các đoạn dưới.
II. Ý nghĩa của cứu cánh luận
1. Vai trò và vị trí
Khởi đi từ Aristotle
Aristotle là triết gia đầu tiên đưa ra phát biểu quan trọng, có tính lịch sử về địa vị và tầm quan trọng của cứu cánh (purpose) trong thiên nhiên. Ðối với ông, chuyển động (motion) là một thuật ngữ có ý nghĩa rất rộng; nó bao gồm những gì chúng ta hiểu về triển khai, thí dụ sự phát triển từ thời thơ ấu tới thời trưởng thành của một con người.
Như chúng ta từng đề cập, Aristotle phát biểu rằng phải cần tới bốn nguyên nhân để giải thích sự phát triển của bất cứ cái gì. Hạt bắp là nguyên nhân chất liệu (material cause) của cây bắp; các hoạt động hóa học khác nhau liên quan tới thời tiết và đất là nguyên nhân tác động hay hiệu ứng (efficient cause); trở thành cây bắp là nguyên nhân dạng thức (formal cause); và sự sản xuất ra nhiều hạt bắp hơn là nguyên nhân cứu cánh hoặc tối hậu (final cause).
Hiểu theo Aristotle thì đồng là nguyên nhân chất liệu của pho tượng, người đúc tượng là nguyên nhân tác động, bức tượng Phật A-di-đà là khuôn mẫu hay dạng thức; và dùng để trang trí hay thờ phượng trong đền chùa là nguyên nhân cứu cánh hay tối hậu.
Ngoại tại và nội tại
Aristotle nhấn mạnh quan điểm có tính cứu cánh ấy bằng cách làm nổi bật địa vị quan trọng sống còn của nguyên nhân cứu cánh tối hậu (final cause). Một cách tổng quát, có thể nói Aristotle cho rằng nguyên nhân cứu cánh có tính nội tại bên trong vật và định hướng sự phát triển của vật. Từ quan điểm ấy, học thuyết của ông tiêu biểu cho lý thuyết của cứu cánh luận nội tại (immanent teleology).
Cũng có thể xem cứu cánh là có tính ngoại tại đối với một vật, dựa vào sự suy ra (loại suy, analogy) từ các động thái của chúng ta, và chúng phần nhiều đều có cứu cánh rõ ràng. Nếu dự tính sáng mai thức dậy sớm hơn thường lệ, tối nay bạn phải vặn lại đồng hồ báo thức cho nó kêu lên đúng thời điểm bạn mong muốn. Nếu bạn muốn đi hành hương Ấn Ðộ vào mùa hè sắp tới, bạn phải dành dụm tiền và tham khảo các văn phòng lữ hành.
Hệ quả trong nhận thức
Cứu cánh không thuộc về tự thân sự vật hoặc sự việc, thay vào đó, nó phô diễn sự chọn lọc mục tiêu của chúng ta và sự chọn lựa phương thế để đạt nó. Người ta dễ dàng mở rộng học thuyết tổng quát về cứu cánh ấy tới tầm mức vũ trụ bằng cách quan niệm Thượng đế như một Hữu thể có nhân cách (personal Being), đấng tạo dựng thế giới cho một cứu cánh, và bằng cách thông giải toàn bộ động thái dựa theo phép loại suy (analogy) từ chiếc đồng hồ báo thức.
Cả hai thuyết ấy đều nhất trí về tầm quan trọng của cứu cánh trong cách nhận thức các hiện tượng. Nhưng thuyết thứ nhất tìm thấy cứu cánh bên trong bản tính của vật (nội tại), còn thuyết thứ hai tìm thấy cứu cánh trong kế hoạch của Ðấng tối cao ngoại tại. Ðiểm dị biệt ấy cung cấp ý tưởng sơ bộ cho các loại vấn đề tương ứng.
Nghĩa là, nếu mục đích có tính nội tại bên trong vật, lúc ấy có khả năng thông giải chúng một cách tự nhiên. Còn ngược lại, nếu mục đích có tính ngoại tại, bên ngoài vật, thì dứt khoát lời giải thích về nó phải liên quan tới khái niệm một Ðấng siêu nhiên. Hầu hết các nhà tư tưởng tôn giáo chấp nhận chọn lựa thứ hai.
2. Cứu cánh luận ngoại tại
Thượng đế đang sáng thế
Nếu quan niệm Thượng đế như một Ðấng toàn trí, toàn năng và vô biên (vô tận) thì không gặp khó khăn khi hình dung ngài tạo dựng thế giới và chỉ đạo nó hướng tới các mục tiêu đã được thiết lập trước. Nhiều nhà tư tưởng tôn giáo cho rằng Thượng đế là khởi thủy đầu tiên và cũng là sau cùng (alpha et omega); ngài đã quyết định, trong toàn bộ vĩnh cửu, cứu cánh của lịch sử, như "một biến cố thiêng liêng ở chốn xa xôi mà cuộc sáng thế chuyển động hướng tới nó", và phải được nhận thức như đang kiểm soát sự nối tiếp của các biến cố lịch sử hướng tới cứu cánh ấy.
Khái niệm ấy về Thượïng đế làm thành sử quan Kitô giáo, và thậm chí có phần nào tiềm ẩn trong thế giới quan cũng như nhân sinh quan về "thiên lý" của nhiều người theo Nho giáo ở á đông. Chính sự bảo đảm Thượng đế đang thống trị mọi sự vì cứu cánh đáng ao ước, đã và đang cho loài người sự tự do trong cả những ngày sức mạnh của cái ác dường như đang chiến thắng. Trước sau gì cái ác cũng bị tiêu diệt: "Lưới trời lồng lộng nhưng không thoát"; "Chạy trời không khỏi nắng"!
Cứu cánh là phục vụ Thượng đế
Theo quan niệm đó, cứu cánh của Thượng đế cũng được nhìn trong những trật tự khác nhau của vạn vật. Là Ðấng tạo hóa, ngài tạo dựng chúng và thiết lập các tương quan giữa chúng. Toàn thể vạn vật đều ở đẳng cấp dưới con người, thấp hơn con người, được tạo dựng vì phúc lợi của con người. Quả thế, con người không thể bắt đồng loại làm nô lệ cho mình nhưng có thể dùng các sinh vật như trâu, bò, ngựa, v.v. làm súc vật cày kéo vì chúng được tạo dựng để phục vụ loài người. Thậm chí, các sinh vật thấp hơn được xem là nguồn thực phẩm cho con người.
Mọi sinh linh thuộc đẳng cấp thấp hơn ấy đều nằm trong tầm sử dụng của con người thuộc đẳng cấp cao hơn, và con người là đỉnh điểm của cuộc sáng thế, là chủ tể của hết thảy những gì y giám quản. Trong tương quan với Thượng đế, con người ở chỗ thấp hơn, và nó có thể thấy cứu cánh thật sự của cuộc nhân sinh (human existence) trong tương quan đó. Giống như các vật đẳng cấp thấp hơn hiện hữu vì con người thì con người cũng thế, nó được tạo dựng vì Thượng đế.
Giáo lý Kitô giáo đặt câu hỏi: "Cứu cánh chính yếu của con người là gì?" Và nó trả lời: "Cứu cánh chính yếu của con người là vinh danh Thiên Chúa và làm vui lòng ngài mãi mãi". Con người được tạo dựng đúng theo hình ảnh của Thượng đế, và nó tìm thấy cứu cánh cuộc tồn sinh của nó trong sự phục tùng ý chí của Thượng đế và vinh quang của ngài từ đời này cho đến muôn đời.
3. Phê phán cứu cánh luận ngoại tại
Thắc mắc là phạm thượng
Học thuyết về Ðấng tối cao tạo hóa mọi sự và đang hướng dẫn cùng bảo vệ các tạo vật của ngài, có giá trị cảm xúc tới độ không thể thắc mắc tra vấn nó. Nó cung cấp cho con người một loại cảm giác y hệt loại cảm giác nhận được trong cuộc sống mật thiết ấm cúng của gia đình. Nó biến vũ trụ thành một chốn thân thiện. Loài người có thể tin những nơi họ không thể thấy, và cảm thấy ủi an với ý nghĩ rằng Thượng đế có khả năng mãi mãi khống chế cái ác, và rằng ngài có cứu cánh trong mọi sự ngài làm hoặc tự kiềm chế không làm.
Có điều khá ngạc nhiên là niềm tin ấy đóng vai trò lớn lao trong kinh nghiệm tôn giáo (religious experience). Khi có ai thắc mắc tra vấn học thuyết ấy thì dường như người đó bị xem là kẻ đang mắc tội phạm thượng, báng bổ hoặc biểu lộ một hình thức hãnh tiến của con người, mà có thể gọi một cách thích đáng là kiêu ngạo. Và theo quan điểm Kitô giáo, kiêu ngạo là tội trọng đại hơn cả, nó là nguồn gốc của mọi tội lớn lao khác. Thế nhưng theo người ủng hộ cứu cánh luận nội tại (the internal teleology) thì lập trường ấy có những nan giải của nó.
Một hình thức duy máy móc
Có những kẻ chống lại sự dẫn đạo thiêng liêng. Họ quả quyết rằng nếu Thượng đế đang cai quản thế giới thì mối tương quan giữa các biến cố là đối tượng của ý chí của ngài, và mối ấy có thể được sửa chữa bất cứ lúc nào. Theo các nhà tư tưởng chống đối, nếu lập trường ấy đúng, thì đức tin của khoa học vào một trật tự thiên nhiên đáng tin cậy không đặt trên cơ sở xác thực nào.
Người ta có thể tranh luận với triết gia giám mục Berkeley về việc làm hài lòng Thượng đế khi giữ cho các tương quan ổn định, ngoại trừ những khoảnh khắc quan trọng của lịch sử, nhưng không có gì bảo đảm cho điều đó.
Những kẻ chống đối cứu cánh luận ngoại tại (the external teleology) lập luận thêm rằng nếu Thượng đế được định nghĩa như là Ðấng toàn tri – biết hết mọi sự – và là kẻ quyết định cứu cánh của lịch sử từ thuở khai thiên lập địa, thế thì đó chính là chủ nghĩa máy móc tái xuất hiện dưới một hình thức khác. Ðối với con người, nó chỉ tạo ra một chút khác biệt trong việc con người bị quyết định bởi các sức mạnh vật chất hoặc sức mạnh tinh thần vì dù gì đi nữa, con người đã bị quyết định.
Thiếu quyền năng, không tự do
Còn nữa, nếu hết thảy các biến cố tất yếu hướng tới một cứu cánh đã được thiết lập từ trước, thế thì chiều hướng của vạn sự đã bị đưa ra ngoài tầm kiểm soát của con người. Thật không thể nhận thức rằng con người dù sao cũng có thể sửa đổi kế hoạch của Thượng đế. Ngược lại, chúng ta phải giả dụ rằng Thượng đế không có đủ quyền năng hoặc không có đủ am hiểu.
Cũng thế, học thuyết về vị tổng tư lệnh tối cao và ngoại tại ấy thêm lần nữa đặt thành vấn đề tự do của con người, và dường như không cách gì có thể chứng minh con người có tự do trong một lược đồ mà mọi sự đều bị kiểm soát.
4. Cứu cánh luận nội tại
Ở trong mỗi vật mỗi sự
Như chúng ta vừa nhắc tới, đối lập với khái niệm cứu cánh luận ngoại tại là học thuyết cứu cánh luận nội tại (immanent/internal teleology), cứu cánh hiện hữu trong mọi vật, mọi sự. Nội dung học thuyết ấy liên quan tới các bản tính cá biệt của vạn vật (specific natures of things), trong đó mỗi vật hàm chứa tính chất quyết định và có tính độc lập do bởi vị trí của nó trong một hệ thống chung.
Vì học thuyết cứu cánh luận nội tại liên quan tới các bản tính cá thể (individual natures) nên có giả định rằng các cá thể là những thực thể có tự tính (self-contained) và độc lập (independent), và rằng động thái của mỗi cá thể được quyết định bởi cùng đích tự nhiên (natural end) của chính nó. Ðó là quan điểm của Aristotle. Ở đây. có một điểm bạn cần để ý, chữ "cùng đích" không có nghĩa là điểm dừng cuối cùng của hoạt động, đúng hơn, nó là sự hoàn chỉnh và hài hòa bản tính của vật ấy.
Nội tại trong hệ thống
Xét theo khái niệm ấy thì trật tự của thiên nhiên phát sinh từ sự quân bình sản sinh bởi mỗi vật đang tuân theo định luật bên trong nó, thí dụ, các thành tố khác nhau lập thành bầu không khí bằng cách đi theo bản tính tự nhiên hay cùng đích tự nhiên của chính chúng đồng thời cung cấp những điều kiện thích đáng để duy trì sự sống cho con người.
Hầu hết các nhà tư tưởng hiện đại đều đồng ý rằng cách thông giải tốt nhất về cứu cánh luận là cho rằng nó có tính nội tại. Thế nhưng, vì phủ định tính độc lập tuyệt đối của các thực thể nên họ chỉ quan tâm tới cứu cánh luận của hệ thống (teleology of system). Và họ nhấn mạnh tới bản tính có hệ thống tổng quát của vũ trụ. Khi mọi sự được nhận thức như cùng ở trong một hệ thống, thì ý nghĩa của chúng tùy thuộc vào vị trí nó chiếm lĩnh trong hệ thống ấy. Ðây là học thuyết đặc thù của triết học tiến trình (process philosophy), cái kế tục truyền thống duy tâm chủ nghĩa.
Ðược thông giải trong liên quan tới hệ thống, cứu cánh luận nhấn mạnh thực tế rằng ý nghĩa của sự việc hay sự vật được quyết định bởi vị trí của nó trong một tổng thể quan hệ hữu cơ (organic whole). Ta sẽ hiểu rõ cứu cánh của tuyến giáp hoặc ngón tay cái khi phân tích chức năng của chúng nội trong hệ thống của cơ thể. Tách ra khỏi cơ thể, chúng không thể thật sự được gọi là tuyến giáp hay ngón tay cái. Ðiều ấy phù hợp với kết luận tổng quát rằng vật không có tự tính hoặc độc lập mà chỉ là điểm hội tụ của môi trường của nó.
Ðóa hoa và chú gà con
Không quan trọng việc môi trường được thông giải ra sao, nó phải biểu thị cho một cuỗi các hệ thống mà xuất từ đó hoặc qua đó, vật phát triển. Thí dụ minh họa rõ nét nhất là sự tăng trưởng của một đóa hoa trong đó toàn bộ các thành tố thích đáng hiệp cùng nhau để sản sinh đóa hoa, cái vốn không thể bị giảm thiểu thành các thành tố của nó nhưng hiệp nhất chúng trong một dạng thức thích đáng hơn. Một nhà thực vật học thành thạo có thể chứng minh cách đóa hoa ấy phát triển từ các điều kiện của nó nhưng ông ta không thể giảm thiểu nó thành các điều kiện ấy.
Ta cũng tìm được một thí dụ minh họa giống y như thế trong sự phát triển của chú gà con. Bên trong quả trứng, ta tìm thấy mọi điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của chú gà con, thí dụ lòng đỏ dưỡng chất của nó. Khi tới giây phút chú gà con chui ra khỏi vỏ trứng, sự tái điều chỉnh cấu trúc của nó đáp ứng các điều kiện của môi trường mới.
Hệ thống tương liên nối kết
Cứu cánh được thể hiện bởi sự tương liên nối kết có tính hệ thống (systematic interconnection) của các điều kiện hòa lẫn vào nhau thành một biến cố, mà theo các nguyên lý của thuyết tiến hóa hiển lộ (emergent evolution), biến cố ấy có phẩm tính riêng biệt khiến ta có thể phân biệt nó với các điều kiện cấu thành nó.
Trong khái niệm ấy, không có nhu cầu phải thừa nhận một trí huệ ngoại tại nào điều khiển dòng chảy của các biến cố, dựa trên sự suy ra từ việc con người tuyển chọn phương thế để đạt tới cùng đích mong muốn của nó. Ở nơi nào có sẵn sự giải thích tự nhiên, ta xem giải thích đó cao hơn giải thích siêu nhiên, và ta cũng chấp nhận rằng chính khái niệm về hệ thống hoặc về quan hệ hữu cơ (organism) cung cấp lời giải thích tự nhiên ấy.
5. Xung khắc với khoa học
Không ích lợi cho khoa học
Học thuyết vạn vật độc lập với nhau và lối thông giải của cứu cánh luận liên quan tới cùng đích tự nhiên của chúng không nhất thiết xung khắc với khoa học, ngoại trừ trong khái niệm mang bản sắc Aristotle. Phát biểu rằng hòn đá rơi xuống đất vì nó đang tìm kiếm vị trí tự nhiên của nó, dường như chẳng có chút giá trị thông tin nào. Người ta khó có thể hiểu điều gì xảy ra cho bản tính của các vật khi chúng phối hợp nhau, như khí hy-drô và khí ô-xy làm thành nước.
Lời đề xuất rằng nước đông ở 0 độ C hoặc 32 độ F vì đó là bản tính của nước biến thành nước đá ở nhiệt độ đó thì dường như không thích hợp cho việc tiến hành thẩm tra các thao tác của thiên nhiên. Chính kiểu tiếp cận đó đã biện minh cho lời chỉ trích gay gắt của Francis Bacon khi ông tuyên bố rằng nguyên nhân cứu cánh (tối hậu, final cause) đã làm hư hoại khoa học.
Học thuyết về nguyên nhân cứu cánh chỉ có vẻ hợp lý với giả định rằng vật nào cũng có bản tính của chính nó, hoàn toàn độc lập với quan hệ ngẫu nhiên của nó với môi trường của nó; và như thế, các khoa học gia và triết gia hiện đại phải bác bỏ hoặc phải sửa chữa rốt ráo giả định ấy.
Xung khắc do bởi vô tình
Khi xem cứu cánh là công cuộc của Ðấng siêu việt hoặc như một phô bày bản tính có tính bản thể của vật, chúng ta lâm vào tình thế xung khắc với các yêu cầu của khoa học hiện đại. Trong khi vấn đề ấy trong tự nó không làm cho các quan điểm đó bị sai thì nó lại gây nên một số hoài nghi. Quả thật, khái niệm của cứu cánh luận giải thích cứu cánh như một thực tế trong vũ trụ, tự nó cũng phù hợp với các khám phá của khoa học, và có khả năng là một khái niệm có nhiều điểm chính xác.
Có thể nói rằng từ giữa nửa đầu của thế kỷ 20, triết học khởi sự trang trọng xem xét vấn đề ấy vì hy vọng có được một giải pháp thông qua các lý thuyết sinh học (biology) hiện đại. Có lẽ có một cách trình bày dễ dàng hơn bản chất của giải pháp ấy là quay trở về với thuyết tiến hóa và đi theo một số triển khai của nó trong thời hậu-Darwin.
III. Bergson và thuyết tiến hóa sáng tạo
1. Bergson phê phán Darwin
Vào giao thời của thế kỷ 19 và 20, trong số những người phê phán Darwin, Henry Bergson là kẻ quan trọng nhất. Ông cho rằng không thể giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng những biến dị ngẫu nhiên và có tính máy móc.
Những cái giống nhau
Theo Bergson, chúng ta hãy giả định vào nhiều ngàn năm trước, có hai nhóm chính, phân rẽ từ một gốc rễ bố mẹ, rồi phát triển theo những chiều hướng khác nhau mà không có bất cứ tiếp xúc nào với nhau. Kể từ thời điểm phân rẽ, vì không có trí huệ dẫn đạo để giám thị những gì xảy ra cho chúng và chúng cũng chẳng có điểm chung nào, nên bất cứ cái gì chúng trở thành cũng tùy thuộc vào hàng ngàn biến dị phát sinh từ những nguyên nhân mù lòa.
Sau hàng ngàn năm như thế, nếu chúng ta nhận thấy các chi nhánh phân rẽ ấy dù rất không giống nhau ở vẻ ngoài nhưng chúng vẫn có các cơ quan nhất định hoặc các cấu trúc chung, thì không thể nào cắt nghĩa sự kiện ấy dựa theo các giả định mang tính máy móc chủ nghĩa.
Ðiều ấy quả thật đúng với các nhóm thực vật và động vật. Hàng ngàn năm trước, chúng đã phân rẽ từ bầy đàn bố mẹ nguyên thủy. Trong thời gian ly tán ấy, chúng là đối tượng của hàng ngàn và hàng ngàn biến dị, tuy thế những sở hữu phái tính của chúng vẫn y nguyên như cũ. Ðối với thực vật, không có lý do thực tiễn nào tại sao phải như thế. Trong cuốn L’Evolution créative (Tiến hóa sáng tạo) đã dẫn, trang 60, Bergson viết rằng: "Một số người điều tra rất nhạy cảm còn để ý tới cả phái tính của cây cối, ít nhất cũng như một sự xa xỉ mà thiên nhiên có thể miễn trừ."
Minh họa bằng con mắt
Cũng y như thế đối với những phát triển có tính phân rẽ được tìm thấy trong con mắt, Bergson tiếp tục phát biểu: "Chúng ta hay đặt kế bên nhau mắt của động vật có xương sống và mắt của động vật thân mềm, thí dụ con giun Pectinaria thông thường. Chúng ta nhận thấy các phần giống nhau một cách côát tủy trong mỗi con, kết hợp bởi các thành tố giống nhau. Mắt của con Pectinaria gồm có võng mạc, giác mạc, tròng mắt cấu trúc bằng tế bào như mắt của chúng ta... tất cả đều đồng ý rằng động vật thân mềm và động vật có xương sống đã phân rẽ từ chi nhánh bố mẹ cũng rất lâu trước khi xuất hiện con mắt rất phức tạp như mắt của con Pectinaria. Thế thì do đâu mà có sự giống nhau về cấu trúc?"
Nếu nói theo thuyết Darwin, chúng ta hẳn giả dụ rằng vô số các biến dị nhất thiết phải sản sinh một cơ quan rất phức tạp, thao tác qua ngẫu nhiên mù lòa và đã thành công trong việc tạo ra một sự giống nhau đầy kinh ngạc. Nếu Darwin cố thoát ra khỏi những giải thích có tính kỳ diệu, trái với tựï nhiên như thể có phép mầu, bằng giả thuyết mang tính tiến hóa của ông thì ông không đạt kết quả. Vì chẳng thể có cái gì kỳ diệu trong lý thuyết về sự tạo dựng đặc biệt hơn là sự phát triển những cái giống nhau đầy kinh ngạc như thế qua hàng ngàn hàng ngàn biến dị ngẫu nhiên trong vô vàn thế hệ kế tiếp nhau, khác biệt nhau và tách biệt nhau của các hữu thể.
Thuyết tiến hóa chỉ là loại trừ
Theo Bergson, lý thuyết của Darwin không thể giải thích những tăng tiến hiển nhiên trong thiên nhiên. Darwin giả định cuộc chiến đấu để sinh tồn trong đó cái thích nghi nhất thì sống sót và cái không thích nghi thì bị loại trừ. Môi trường làm nên sự chọn lọc đó. Thật sự, sự chọn lọc tự nhiên không giải thích gì cả ngoại trừ liên quan tới sự loại bỏ cái không thích nghi. Sinh vật nào không thể điều chỉnh theo môi trường thì bị loại trừ.
Trên cơ sở ấy, thiên nhiên phải mãn nguyện với những dạng thức của sự sống đã chứng tỏ có khả năng sống sót. Cuộc tiến hóa lý ra phải ngừng lại với sự xuất hiện của cỏ dại vì chúng đã và đang chứng tỏ năng lực sinh tồn, "tràn lan ghê gớm", của chúng. Theo thuyết Darwin thì không có lý do gì khiến cho các dạng thức cao hơn của sự sống xuất hiện. Con người như một sinh vật phát triển cao độ nhất là một xa xỉ vì không thể đưa ra lời giải thích thỏa mãn nào về nó.
Thuyết Darwin không thể giải thích sự giống nhau về cấu trúc trong những chi nhánh khác nhau, cũng không đưa ra được lý do hợp lý nào cho sự phát triển của các sinh vật cao đẳng hơn. Có lẽ sở dĩ có những khuyết điểm ấy là do bởi các giả định ban đầu của Darwin.
Nên đảo ngược Darwin
Ði theo chủ nghĩa duy vật đang thịnh hành thời ấy, Darwin giả định rằng sự sống tùy thuộc vào vật chất và chức năng của các cơ quan. Do đó, ông cắt nghĩa tư duy bằng cách truy nguyên cuộc tiến hóa của hệ thần kinh tới sự viên thành của nó trong não. Ðộng vật, trong khi phát triển não qua những biến dị ngẫu nhiên, nó bắt đầu suy nghĩ. Cùng một cách thức như thế, con mắt được truy nguyên từ đốm nhiễm sắc tố bị kích thích cho đến cơ quan phức tạp ngày nay, và người ta đã giả định rằng chính nhờ một ngẫu nhiên đầy may mắn trong cuộc tiến hóa của mắt mà cho phép động vật ấy thấy.
Vì thuyết Darwin có khuyết điểm, có lẽ chúng ta sẽ có được lối giải thích tốt hơn bằng cách đảo ngược giả thuyết ấy và thừa nhận rằng vật chất tùy thuộc sự sống và cơ quan tùy thuộc chức năng. Ðó là những gì Bergson đã làm.
2. Thuyết đà sống
Xung lực và nguyên-lý-sự-sống
Theo Bergson, sự sống không có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc. Khi nói tới khởi thủy của sự sống tức là chúng ta có ý nói tới sự bắt đầu của sinh vật cá thể. Sự sống không bao giờ bắt đầu; nó được lưu truyền từ cha mẹ sang con cái.
Hãy giả định rằng thực tại – vốn được chúng ta hiểu như sự biến đổi đơn thuần – có thể được thể hiện như một xung-lực-sống phổ quát (a universal life-impulse). Chữ xung lực ở đây được hiểu một sự thôi thúc triền miên và cấp bách, buộc phải thao tác ngay, không đắn đo, chẳng suy đi tính lại. Như thế, chúng ta có thể thông giải những vật khác nhau trong thiên nhiên như là những thể hiện khác nhau của nguyên-lý-sự-sống (the life-principle). Thuyết *đà sống (the elan vital), như Bergson gọi nó, hay *sinh lực thuyết, có thể được kiểm tra bằng những vấn đề mà Darwin không thể giải quyết.
Theo Bergson, ta không nên kinh ngạc khi thấy có sự giống nhau về cấu trúc trong những chi nhánh riêng rẽ vì chúng cùng diễn đạt chung một nguyên-lý-sự-sống. Có thể cắt nghĩa các cơ quan khác, thí dụ con mắt, bằng giả định rằng các chức năng, thí dụ nhìn, đều thiết yếu cho đà sống, và rằng nó sản sinh các cơ quan thích đáng với chức năng ấy. Khi đà sống tìm kiếm những thể hiện thích đáng hơn cho nó thì đưa tới sự xuất hiện các hữu thể cao đẳng hơn. Do đó, thuyết đà sống cung cấp lời giải thích thích đáng hơn lời giải thích của thuyết tiến hóa.
Thuyết Darwin không là tiến hóa
Chúng ta nên rướn thêm một bước để làm sáng tỏ hơn điều thực sự liên quan tới ý tưởng này của Bergson về tiến hóa. Nếu tiến hóa hàm ý sáng tạo, nghĩa là xuất hiện các dạng thức thật sự mới mẻ, thì từ ngữ ấy đã bị dùng sai. Chừng nào thuyết Darwin còn là một lý thuyết mang tính máy móc, chừng đó nó vẫn không thể là lý thuyết về tiến hóa, vì trong một hệ thống có tính máy móc chủ nghĩa, hoàn toàn không có khả năng xảy ra cái gì thật sự mới mẻ.
Bergson quả quyết rằng: "Trong thực tế, yếu tính của lối giải thích mang tính máy móc chủ nghĩa ấy coi tương lai và quá khứ như những chức năng có thể tính toán của hiện tại, và do đó nó quả quyết rằng mọi sự đếu được cung cấp. Với giả thuyết ấy, quá khứ, hiện tại và tương lai hẳn được mở ra cho một trí huệ siêu phàm có khả năng làm phép tính ấy trong một liếc mắt".
Bergson và trực giác
Thuyết đà sống của Bergson không là loại lý thuyết có thể làm đối tượng cho các kiểm tra khoa học hoặc có thể xác minh trong bất cứ phòng thí nghiệm thông thường nào. Sự việc ấy chẳng gây rắc rối cho Bergson chút nào vì ông đánh giá trí huệ (trí tuệ) – công cụ của khoa học – chỉ là công cụ của đà sống, một công cụ chỉ sử dụng cho những cứu cánh thực tiễn.
Như thế, trí huệ ấy có thể ứng xử với các vấn đề sinh tồn trong thực tế nhưng không thể ứng xử với bản tính thật sự của thực tại luôn luôn né tránh trí huệ ấy vì thực tại vốn vô thường, nghĩa là như một sự đơn thuần biến đổi. Ðối với thuyết đà sống, ta chỉ có thể hiểu nó bằng trực giác (intuition) và cảm nhận (sense) nó.
Nhiều triết gia từ khước lối giải thích của Bergson trong khi vẫn ngưỡng mộ nhiều phẩm tính của thuyết đà sống do bởi nó là một học thuyết ngoại lý (irrational doctrine). Họ cho rằng một khi lý trí không được phép kiểm tra chân lý của một học thuyết thì không còn tiêu chuẩn xác định giá trị nào để qua đó phán đoán câu trả lời ấy là đúng hoặc sai. Khi có những lời giải thích giống nhau thì người ta ưa thích lý thuyết nào hợp lý.
IV. Thuyết tiến hóa hiển lộ
1. Từ am hiểu tổng quát
Lloyd Morgan
Có một lý thuyết rất được nhiều người chấp nhận thay cho thuyết đà sống của Bergson, đó là thuyết tiến hóa hiển lộ (the emergent evolution) mà người đầu tiên đề ra là nhà tâm lý học người Anh Lloyd Morgan (1852-1936), trong cuốn The Emergent Evolution (Thuyết tiến hóa hiển lộ, 1923).
Theo thuyết này, một tổng hợp các thành tố rất có thể sản sinh cái gì đó mới mẻ, một cái gì đó mà tri thức về chính các thành tố đó cũng không thể nào đoán trước. Cái hiển lộ này, khi trồi ra hoặc nổi lên, sẽ tùy thuộc vào các thành tố mà từ đó nó phát sinh, tuy thế nó có phẩm tính riêng biệt và khác biệt với chúng.
Ý tưởng ấy rất quen thuộc trong kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày. Học sinh các lớp hóa học đều biết rằng natri (sodium) và clo (chlorine) là hai chất độc chết người, tuy thế khi được tổng hợp thành NaCl, chúng làm nên muối ăn bình thường. Không ai dám dùng hydrô hoặc ôxy riêng rẽ để dập tắt ngọn lửa, thế nhưng khi kết hợp chúng theo một tỉ lệ thích đáng H2O, chúng biến thành nước và có thể làm lửa tắt ngúm. Cả muối lẫn nước đều tùy thuộc vào các thành tố hòa nhập làm thành chúng, tuy nhiên tổng hợp ấy sản sinh cái gì đó có phẩm tính riêng biệt.
Vô cơ sinh thành hữu cơ
Năm 1953, nhà vật lý hóa học Harold C. Urey (1893-1981) của Ðại học Chicago đã cùng một sinh viên về sau là nhà hóa học và sinh vật học Stanley L. Miller (1930-2007) làm thí nghiệm về Hóa học tiền sinh học (prebiotic chemistry), một ngành nghiên cứu các chất hóa học của trái đất trước khi sự sống xuất hiện.
Cả hai tạo một môi trường giống với quá trình sản sinh sự sống từ khí quyển. Trong bộ máy thí nghiệm mà Urey cách ly với môi trường bên ngoài, có một bình nước nhỏ, được hâm nóng như thể do bởi ánh nắng mặt trời và khiến nó bốc hơi. Hơi được dẫn vào một bầu thủy tinh chứa các chất hơi của bầu khí quyển trong tình trạng trái đất khoảng 4 tỉ năm trước, gồm hơi nước, khí methane, khí ammonia và khinh khí.
Hai thầy trò cho các tia điện xẹt như sét đánh vào chất hơi hỗn hợp ấy. Dĩ nhiên nước trong bình phải chu lưu, nghĩa là sau khi bị lộn lạo và bị sét đánh, nó trở lại bình cũ để lại hóa ra nước, và rồi tiếp tục bị hâm nóng nhiều lần thành hơi và lại bay lên cái bình chứa điện xẹt. Sau mấy ngày tuần hoàn như thế, giáo sư Miller đem nước trong bình ra phân chất. Ông nhận thấy khoảng 10% các nguyên tử các-bon đã họp thành các hợp chất hữu cơ. Một số ít là chất lạ, nhưng có tới 2% là các nguyên tử các-bon đã họp thành các phân tử amino acids mà ngày nay người ta biết chúng là những viên gạch đầu tiên xây dựng thành hợp chất protein, thành phần cơ bản của tế bào sự sống.
Thí nghiệm đơn giản hơn
Về sau, người ta làm thí nghiệm đơn giản hơn mà vẫn đạt được kết quả y như thế. Chẳng cần có tia sét đánh, các phân tử trong nồi súp tiền sinh học của trái đất ấy cũng có thể tự hợp thành một loạt những phân tử hữu cơ thật đơn giản, trong đó có hợp chất hydro cyanide (ký hiệu HCN) và hợp thành chất adehydes. Chất này phối hợp với ammonia và HCN cho ta một chất tạm aminionitriles. "Tạm" vì hợp chất này hòa với nước "biển" nguyên thủy cũng tạo ra các phân tử amino acids.
Năm 1960, nhà vật lý học Juan Óro của Ðại học Chicago làm thí nghiệm đơn giản hơn. Ông trộn chất hydrogene cyanide và chất ammonia trong một dung dịch nước. Kết quả đem lại các amino acids. Nhưng có điều bất ngờ nhất là trong các amino acids tìm được theo cách này, nhiều nhất lại là một chất được gọi là adenine.
Ngày nay, người ta biết rằng chất adenine là một trong bốn chất tạo thành phân tử cơ bản RNA và DNA, những viên gạch xây đắp thành chất protein của sinh vật. Nhưng tới đây, sẽ vẫn còn nhiều chuyện lạ chờ được khám phá nữa. Khoa học ngày nay đã tìm thấy những chất hữu cơ ngay cả trong vũ trụ, trong các đám tinh vân chưa đủ "chín muồi" để trở thành thái dương hệ, trên các đầu sao chỗi, các vẫn thạch.
Ba cấp bậc tiến hóa
Chúng ta đã khá lan man với các thí dụ kể trên, và có vẻ như lạc đề. Nhưng tựu trung cũng chỉ để minh họa cho nguyên lý tổng quát của sự hiển lộ (the general principle of emergence) như có tính sáng tạo hoặc sản sinh cái mới mẻ. Chúng là những kiểu mẫu cho sự khẳng định mà ngày nay đã được chấp nhận một cách bình thường rằng toàn thể thì lớn hơn tôång số các phần của nó.
Khi quay sang các hiện tượng thiên nhiên, chúng ta nhận thấy có khả năng đặt chúng, một cách hoàn toàn, vào cái có thể gọi là trật tự của vật thể (order of being). Với cụm từ ấy, chúng ta có ý nói rằng nếu bắt đầu với các hạt quác, electron, proton, hạt phân tử, v.v., chúng ta sẽ đạt tới cấp độ cao hơn chúng, được gọi là nguyên tử (atom), cứ thế tới dạng thức cao nhất của vật thể.
Ðể có thể trình bày giản dị, chúng ta sẽ giới hạn các cấp bậc ấy trong vô tri giác, có tri giác và có lý trí như thể đó là ba cấp bậc tùy thuộc và tiếp giáp nhau. Nếu thuyết tiến hóa hiển lộ đúng, vật có tri giác hẳn phải xuất hiện từ vật vô tri giác theo ý nghĩa nó phải tùy thuộc vào vật vô tri giác dù chắn chắn nó có phẩm tính riêng biệt. Cũng một cách thức như thế, vật có lý trí hẳn phải phát triển từ những vật đang sống và bị tùy thuộc vào các điều kiện vật lý dù nó có phẩm tính riêng biệt và khác biệt với chúng....
I. Dẫn nhập
Hệ quả của chủ nghĩa máy móc
Cuộc xung đột giữa chủ nghĩa máy móc (mechanism) và cứu cánh luận (teleology) diễn ra kịch liệt suốt thế kỷ 19. Những tuyên bố của chủ nghĩa máy móc nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ sự kiện khoa học đưa ra được những giải thích hữu hiệu về các biến cố. Vượt lên trên tất cả, quan hệ nhân quả với định luật sắt đá của nó dường như thống trị với thẩm quyền khắc nghiệt.
Con người từ bỏ vị trí hãnh tiến được làm đỉnh điểm của cuộc sáng thế, kẻ có sứ mệnh cai quản muôn loài hữu thể thuộc các cấp bậc thấp hơn nó. Từ nay, con người nhận ra mình chỉ là chiếc răng cưa trong bánh xe hoặc là quân cờ trong bàn tay của định mệnh mù lòa và vô trách nhiệm.
Chẳng thể đành lòng
Một số triết gia phản đối lối lý giải các sự kiện theo kiểu đó. Họ trưng dẫn một minh họa về sự sử dụng sai lạc khoa học khi triển khai một nguyên lý, thí dụ quan hệ nhân quả, một định luật vốn chỉ thao tác ở cấp bậc vật chất lại được dùng để thông giải cho toàn thể vũ trụ. Một số khác chống đối lối lý giải ấy bằng lời chứng của mạc khải thiêng liêng, niềm xác tín vào tự do và thực tế của đạo đức, luân lý.
Lâm ly thống thiết hơn cả là những kẻ chỉ có thể kháng cự chứng cớ khoa học bằng lời khẳng định rằng họ cần phải có một bảo đảm nào đó về cứu cánh của cuộc đời, một ý nghĩa nào đó cho toàn bộ lược đồ buồn thảm của khổ đau và chết chóc ở cõi thế gian.
Trên qui mô lớn, những lời phản đối chủ nghĩa máy móc dựa trên các khát vọng và thái độ đầy cảm tính. Không ai có thể xem một lập trường là đúng và chân thành ủng hộ nó khi lập trường ấy thiếu cơ sở và chỉ là niềm ao ước muốn biến nó thành đúng.
Lối thoát của Kant
Immanuel Kant nỗ lực tìm một lối thoát bằng cách phân biệt đức tin và lý trí và bằng cách biến con người thành phần tử của hai thế giới. Trong thế giới thứ nhất của hiện tượng (the world of phenomena), con người là đối tượng của quan hệ nhân quả tự nhiên như bất cứ đối tượng hữu hình nào khác. Và trong thế giới thứ hai của bản thể (the world of noumena), y là một hữu thể có lý trí, một cội nguồn chân chính của trật tự trong thiên nhiên, và do đó, được miễn trừ khỏi định luật quan hệ nhân quả.
Các triết gia về sau bác bỏ giải pháp theo đó bắt buộc phải trình bày con người như đang sống trong hai thế giới. Kể từ thời của Kant, các nỗ lực ấy hướng tới việc tìm cho ra một giải pháp cho vấn đề đó bằng một khái niệm đơn nhất (a single conception). Thật chẳng dễ dàng chút nào vì chúng ta đòi hỏi một lý thuyết một đằng thừa nhận thiên nhiên rất có trật tự qui củ nhưng đằng khác, vẫn ủng hộ niềm xác tín của chúng ta vào sự tự do của con người.
Lãng mạn và nan giải
Người ta có cảm giác rằng loài người không bao giờ thật sự tin vào một lý thuyết giống như chủ nghĩa máy móc. Trong phòng thí nghiệm, nhà khoa học thích học thuyết quan hệ nhân quả (doctrine of causality) vì nó khiến y có khả năng kiểm soát các nguồn vật liệu và lập thành những dự báo kết quả các cuộc thí nghiệm của mình. Nhưng khi cởi chiếc áo bờ-lu trắng của phòng thí nghiệm, nhà khoa học cũng muốn cởi luôn học thuyết đó và hành động giữa đời như thể y tin rằng mình là một hũu thể tự do, một con người có khả năng đưa ra những quyết định lơ lửng.
Mặt khác, chẳng ai muốn thấy các biến cố hoàn toàn mập mờ và vô định. Mọi người đều muốn có một thế giới đáng tin cậy hết sức có thể được. Không ai muốn sống trong một thế giới thỉnh thoảng không chẳng có cơm ăn áo mặc và là nơi môi trường dễ bị làm cho ô nhiễm, khí hậu hình như đang nóng dần lên vì đủ loại khói công nghiệp, sinh mạng bị khủng bố, không được cấp cứu kịp thời khi có thiên tai hạn hán và ngay cả nước uống, thức ăn lâu lâu lại nghe nói là không đạt tiêu chuẩn vệ sinh.
Gặp tình thế nan giải, con người cầu xin phép lạ. Nhưng một chuỗi liên tục các phép lạ sẽ làm cho ta sống trong trạng thái hồi hộp run rẩy và biến những cử chỉ từ bi của một Thượng đế nhân từ thành sự thất thường đáng sợ của một nhà cai trị bất nhất. Chúng ta vừa muốn được vào cõi thiên thai đầy hoa đào và người tiên, vừa như Từ Thức muốn trở lại với trần gian sống giữa người dương thế. Và đó là một tình thế lãng mạn tiến thoái lưỡng nan: chúng ta không thể sống mà không có sự đáng tin cậy, tuy các điều kiện đáng tin cậy thì dường như hàm ý rằng con người phải, chẳng kém gì sỏi đá, làm đối tượng thụ động của các sức mạnh tự nhiên,.
Ði tìm giải thích mới
Nhu cầu nhất quán tư tưởng đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa cái này cái nọ, và toàn bộ bằng chứng khoa học trong thế kỷ 19 đều tán trợ ý tưởng về sự đáng tin cậy và chủ nghĩa máy móc tiếp đó. Một khi khoa học chưa từ bỏ lập trường ấy thì con người không thể đạt thêm bước tiến nào trong cuộc tiến công chống lại kết luận đó.
Những triển khai về sau của khoa học trong hai thế kỷ vừa qua và vào lúc bắt đầu thế kỷ 21 này đã chiếu sáng các hiện tượng vốn không thể giải thích bằng ba nguyên lý của chủ nghĩa máy móc. Khoa học đã từ bỏ chủ nghĩa máy móc khắc nghiệt và đề xuất những lý thuyết hướng tới nhu cầu mới, đòi hỏi một hình thức giải thích nào đó mang tính cứu cánh luận.
Ðể có thể am hiểu trọn vẹn ý nghĩa của sự triển khai này, điều thiết yếu là cần phải xem xét ý nghĩa của cứu cánh luận và truy tầm dấu vết lịch sử củøa ý tưởng ấy trong triết học cùng các lý thuyết mới về tiến hóa. Và những đối tượng xem xét ấy làm thành định hướng cho con đường tra vấn mà chúng ta sẽ đi theo ở các đoạn dưới.
II. Ý nghĩa của cứu cánh luận
1. Vai trò và vị trí
Khởi đi từ Aristotle
Aristotle là triết gia đầu tiên đưa ra phát biểu quan trọng, có tính lịch sử về địa vị và tầm quan trọng của cứu cánh (purpose) trong thiên nhiên. Ðối với ông, chuyển động (motion) là một thuật ngữ có ý nghĩa rất rộng; nó bao gồm những gì chúng ta hiểu về triển khai, thí dụ sự phát triển từ thời thơ ấu tới thời trưởng thành của một con người.
Như chúng ta từng đề cập, Aristotle phát biểu rằng phải cần tới bốn nguyên nhân để giải thích sự phát triển của bất cứ cái gì. Hạt bắp là nguyên nhân chất liệu (material cause) của cây bắp; các hoạt động hóa học khác nhau liên quan tới thời tiết và đất là nguyên nhân tác động hay hiệu ứng (efficient cause); trở thành cây bắp là nguyên nhân dạng thức (formal cause); và sự sản xuất ra nhiều hạt bắp hơn là nguyên nhân cứu cánh hoặc tối hậu (final cause).
Hiểu theo Aristotle thì đồng là nguyên nhân chất liệu của pho tượng, người đúc tượng là nguyên nhân tác động, bức tượng Phật A-di-đà là khuôn mẫu hay dạng thức; và dùng để trang trí hay thờ phượng trong đền chùa là nguyên nhân cứu cánh hay tối hậu.
Ngoại tại và nội tại
Aristotle nhấn mạnh quan điểm có tính cứu cánh ấy bằng cách làm nổi bật địa vị quan trọng sống còn của nguyên nhân cứu cánh tối hậu (final cause). Một cách tổng quát, có thể nói Aristotle cho rằng nguyên nhân cứu cánh có tính nội tại bên trong vật và định hướng sự phát triển của vật. Từ quan điểm ấy, học thuyết của ông tiêu biểu cho lý thuyết của cứu cánh luận nội tại (immanent teleology).
Cũng có thể xem cứu cánh là có tính ngoại tại đối với một vật, dựa vào sự suy ra (loại suy, analogy) từ các động thái của chúng ta, và chúng phần nhiều đều có cứu cánh rõ ràng. Nếu dự tính sáng mai thức dậy sớm hơn thường lệ, tối nay bạn phải vặn lại đồng hồ báo thức cho nó kêu lên đúng thời điểm bạn mong muốn. Nếu bạn muốn đi hành hương Ấn Ðộ vào mùa hè sắp tới, bạn phải dành dụm tiền và tham khảo các văn phòng lữ hành.
Hệ quả trong nhận thức
Cứu cánh không thuộc về tự thân sự vật hoặc sự việc, thay vào đó, nó phô diễn sự chọn lọc mục tiêu của chúng ta và sự chọn lựa phương thế để đạt nó. Người ta dễ dàng mở rộng học thuyết tổng quát về cứu cánh ấy tới tầm mức vũ trụ bằng cách quan niệm Thượng đế như một Hữu thể có nhân cách (personal Being), đấng tạo dựng thế giới cho một cứu cánh, và bằng cách thông giải toàn bộ động thái dựa theo phép loại suy (analogy) từ chiếc đồng hồ báo thức.
Cả hai thuyết ấy đều nhất trí về tầm quan trọng của cứu cánh trong cách nhận thức các hiện tượng. Nhưng thuyết thứ nhất tìm thấy cứu cánh bên trong bản tính của vật (nội tại), còn thuyết thứ hai tìm thấy cứu cánh trong kế hoạch của Ðấng tối cao ngoại tại. Ðiểm dị biệt ấy cung cấp ý tưởng sơ bộ cho các loại vấn đề tương ứng.
Nghĩa là, nếu mục đích có tính nội tại bên trong vật, lúc ấy có khả năng thông giải chúng một cách tự nhiên. Còn ngược lại, nếu mục đích có tính ngoại tại, bên ngoài vật, thì dứt khoát lời giải thích về nó phải liên quan tới khái niệm một Ðấng siêu nhiên. Hầu hết các nhà tư tưởng tôn giáo chấp nhận chọn lựa thứ hai.
2. Cứu cánh luận ngoại tại
Thượng đế đang sáng thế
Nếu quan niệm Thượng đế như một Ðấng toàn trí, toàn năng và vô biên (vô tận) thì không gặp khó khăn khi hình dung ngài tạo dựng thế giới và chỉ đạo nó hướng tới các mục tiêu đã được thiết lập trước. Nhiều nhà tư tưởng tôn giáo cho rằng Thượng đế là khởi thủy đầu tiên và cũng là sau cùng (alpha et omega); ngài đã quyết định, trong toàn bộ vĩnh cửu, cứu cánh của lịch sử, như "một biến cố thiêng liêng ở chốn xa xôi mà cuộc sáng thế chuyển động hướng tới nó", và phải được nhận thức như đang kiểm soát sự nối tiếp của các biến cố lịch sử hướng tới cứu cánh ấy.
Khái niệm ấy về Thượïng đế làm thành sử quan Kitô giáo, và thậm chí có phần nào tiềm ẩn trong thế giới quan cũng như nhân sinh quan về "thiên lý" của nhiều người theo Nho giáo ở á đông. Chính sự bảo đảm Thượng đế đang thống trị mọi sự vì cứu cánh đáng ao ước, đã và đang cho loài người sự tự do trong cả những ngày sức mạnh của cái ác dường như đang chiến thắng. Trước sau gì cái ác cũng bị tiêu diệt: "Lưới trời lồng lộng nhưng không thoát"; "Chạy trời không khỏi nắng"!
Cứu cánh là phục vụ Thượng đế
Theo quan niệm đó, cứu cánh của Thượng đế cũng được nhìn trong những trật tự khác nhau của vạn vật. Là Ðấng tạo hóa, ngài tạo dựng chúng và thiết lập các tương quan giữa chúng. Toàn thể vạn vật đều ở đẳng cấp dưới con người, thấp hơn con người, được tạo dựng vì phúc lợi của con người. Quả thế, con người không thể bắt đồng loại làm nô lệ cho mình nhưng có thể dùng các sinh vật như trâu, bò, ngựa, v.v. làm súc vật cày kéo vì chúng được tạo dựng để phục vụ loài người. Thậm chí, các sinh vật thấp hơn được xem là nguồn thực phẩm cho con người.
Mọi sinh linh thuộc đẳng cấp thấp hơn ấy đều nằm trong tầm sử dụng của con người thuộc đẳng cấp cao hơn, và con người là đỉnh điểm của cuộc sáng thế, là chủ tể của hết thảy những gì y giám quản. Trong tương quan với Thượng đế, con người ở chỗ thấp hơn, và nó có thể thấy cứu cánh thật sự của cuộc nhân sinh (human existence) trong tương quan đó. Giống như các vật đẳng cấp thấp hơn hiện hữu vì con người thì con người cũng thế, nó được tạo dựng vì Thượng đế.
Giáo lý Kitô giáo đặt câu hỏi: "Cứu cánh chính yếu của con người là gì?" Và nó trả lời: "Cứu cánh chính yếu của con người là vinh danh Thiên Chúa và làm vui lòng ngài mãi mãi". Con người được tạo dựng đúng theo hình ảnh của Thượng đế, và nó tìm thấy cứu cánh cuộc tồn sinh của nó trong sự phục tùng ý chí của Thượng đế và vinh quang của ngài từ đời này cho đến muôn đời.
3. Phê phán cứu cánh luận ngoại tại
Thắc mắc là phạm thượng
Học thuyết về Ðấng tối cao tạo hóa mọi sự và đang hướng dẫn cùng bảo vệ các tạo vật của ngài, có giá trị cảm xúc tới độ không thể thắc mắc tra vấn nó. Nó cung cấp cho con người một loại cảm giác y hệt loại cảm giác nhận được trong cuộc sống mật thiết ấm cúng của gia đình. Nó biến vũ trụ thành một chốn thân thiện. Loài người có thể tin những nơi họ không thể thấy, và cảm thấy ủi an với ý nghĩ rằng Thượng đế có khả năng mãi mãi khống chế cái ác, và rằng ngài có cứu cánh trong mọi sự ngài làm hoặc tự kiềm chế không làm.
Có điều khá ngạc nhiên là niềm tin ấy đóng vai trò lớn lao trong kinh nghiệm tôn giáo (religious experience). Khi có ai thắc mắc tra vấn học thuyết ấy thì dường như người đó bị xem là kẻ đang mắc tội phạm thượng, báng bổ hoặc biểu lộ một hình thức hãnh tiến của con người, mà có thể gọi một cách thích đáng là kiêu ngạo. Và theo quan điểm Kitô giáo, kiêu ngạo là tội trọng đại hơn cả, nó là nguồn gốc của mọi tội lớn lao khác. Thế nhưng theo người ủng hộ cứu cánh luận nội tại (the internal teleology) thì lập trường ấy có những nan giải của nó.
Một hình thức duy máy móc
Có những kẻ chống lại sự dẫn đạo thiêng liêng. Họ quả quyết rằng nếu Thượng đế đang cai quản thế giới thì mối tương quan giữa các biến cố là đối tượng của ý chí của ngài, và mối ấy có thể được sửa chữa bất cứ lúc nào. Theo các nhà tư tưởng chống đối, nếu lập trường ấy đúng, thì đức tin của khoa học vào một trật tự thiên nhiên đáng tin cậy không đặt trên cơ sở xác thực nào.
Người ta có thể tranh luận với triết gia giám mục Berkeley về việc làm hài lòng Thượng đế khi giữ cho các tương quan ổn định, ngoại trừ những khoảnh khắc quan trọng của lịch sử, nhưng không có gì bảo đảm cho điều đó.
Những kẻ chống đối cứu cánh luận ngoại tại (the external teleology) lập luận thêm rằng nếu Thượng đế được định nghĩa như là Ðấng toàn tri – biết hết mọi sự – và là kẻ quyết định cứu cánh của lịch sử từ thuở khai thiên lập địa, thế thì đó chính là chủ nghĩa máy móc tái xuất hiện dưới một hình thức khác. Ðối với con người, nó chỉ tạo ra một chút khác biệt trong việc con người bị quyết định bởi các sức mạnh vật chất hoặc sức mạnh tinh thần vì dù gì đi nữa, con người đã bị quyết định.
Thiếu quyền năng, không tự do
Còn nữa, nếu hết thảy các biến cố tất yếu hướng tới một cứu cánh đã được thiết lập từ trước, thế thì chiều hướng của vạn sự đã bị đưa ra ngoài tầm kiểm soát của con người. Thật không thể nhận thức rằng con người dù sao cũng có thể sửa đổi kế hoạch của Thượng đế. Ngược lại, chúng ta phải giả dụ rằng Thượng đế không có đủ quyền năng hoặc không có đủ am hiểu.
Cũng thế, học thuyết về vị tổng tư lệnh tối cao và ngoại tại ấy thêm lần nữa đặt thành vấn đề tự do của con người, và dường như không cách gì có thể chứng minh con người có tự do trong một lược đồ mà mọi sự đều bị kiểm soát.
4. Cứu cánh luận nội tại
Ở trong mỗi vật mỗi sự
Như chúng ta vừa nhắc tới, đối lập với khái niệm cứu cánh luận ngoại tại là học thuyết cứu cánh luận nội tại (immanent/internal teleology), cứu cánh hiện hữu trong mọi vật, mọi sự. Nội dung học thuyết ấy liên quan tới các bản tính cá biệt của vạn vật (specific natures of things), trong đó mỗi vật hàm chứa tính chất quyết định và có tính độc lập do bởi vị trí của nó trong một hệ thống chung.
Vì học thuyết cứu cánh luận nội tại liên quan tới các bản tính cá thể (individual natures) nên có giả định rằng các cá thể là những thực thể có tự tính (self-contained) và độc lập (independent), và rằng động thái của mỗi cá thể được quyết định bởi cùng đích tự nhiên (natural end) của chính nó. Ðó là quan điểm của Aristotle. Ở đây. có một điểm bạn cần để ý, chữ "cùng đích" không có nghĩa là điểm dừng cuối cùng của hoạt động, đúng hơn, nó là sự hoàn chỉnh và hài hòa bản tính của vật ấy.
Nội tại trong hệ thống
Xét theo khái niệm ấy thì trật tự của thiên nhiên phát sinh từ sự quân bình sản sinh bởi mỗi vật đang tuân theo định luật bên trong nó, thí dụ, các thành tố khác nhau lập thành bầu không khí bằng cách đi theo bản tính tự nhiên hay cùng đích tự nhiên của chính chúng đồng thời cung cấp những điều kiện thích đáng để duy trì sự sống cho con người.
Hầu hết các nhà tư tưởng hiện đại đều đồng ý rằng cách thông giải tốt nhất về cứu cánh luận là cho rằng nó có tính nội tại. Thế nhưng, vì phủ định tính độc lập tuyệt đối của các thực thể nên họ chỉ quan tâm tới cứu cánh luận của hệ thống (teleology of system). Và họ nhấn mạnh tới bản tính có hệ thống tổng quát của vũ trụ. Khi mọi sự được nhận thức như cùng ở trong một hệ thống, thì ý nghĩa của chúng tùy thuộc vào vị trí nó chiếm lĩnh trong hệ thống ấy. Ðây là học thuyết đặc thù của triết học tiến trình (process philosophy), cái kế tục truyền thống duy tâm chủ nghĩa.
Ðược thông giải trong liên quan tới hệ thống, cứu cánh luận nhấn mạnh thực tế rằng ý nghĩa của sự việc hay sự vật được quyết định bởi vị trí của nó trong một tổng thể quan hệ hữu cơ (organic whole). Ta sẽ hiểu rõ cứu cánh của tuyến giáp hoặc ngón tay cái khi phân tích chức năng của chúng nội trong hệ thống của cơ thể. Tách ra khỏi cơ thể, chúng không thể thật sự được gọi là tuyến giáp hay ngón tay cái. Ðiều ấy phù hợp với kết luận tổng quát rằng vật không có tự tính hoặc độc lập mà chỉ là điểm hội tụ của môi trường của nó.
Ðóa hoa và chú gà con
Không quan trọng việc môi trường được thông giải ra sao, nó phải biểu thị cho một cuỗi các hệ thống mà xuất từ đó hoặc qua đó, vật phát triển. Thí dụ minh họa rõ nét nhất là sự tăng trưởng của một đóa hoa trong đó toàn bộ các thành tố thích đáng hiệp cùng nhau để sản sinh đóa hoa, cái vốn không thể bị giảm thiểu thành các thành tố của nó nhưng hiệp nhất chúng trong một dạng thức thích đáng hơn. Một nhà thực vật học thành thạo có thể chứng minh cách đóa hoa ấy phát triển từ các điều kiện của nó nhưng ông ta không thể giảm thiểu nó thành các điều kiện ấy.
Ta cũng tìm được một thí dụ minh họa giống y như thế trong sự phát triển của chú gà con. Bên trong quả trứng, ta tìm thấy mọi điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của chú gà con, thí dụ lòng đỏ dưỡng chất của nó. Khi tới giây phút chú gà con chui ra khỏi vỏ trứng, sự tái điều chỉnh cấu trúc của nó đáp ứng các điều kiện của môi trường mới.
Hệ thống tương liên nối kết
Cứu cánh được thể hiện bởi sự tương liên nối kết có tính hệ thống (systematic interconnection) của các điều kiện hòa lẫn vào nhau thành một biến cố, mà theo các nguyên lý của thuyết tiến hóa hiển lộ (emergent evolution), biến cố ấy có phẩm tính riêng biệt khiến ta có thể phân biệt nó với các điều kiện cấu thành nó.
Trong khái niệm ấy, không có nhu cầu phải thừa nhận một trí huệ ngoại tại nào điều khiển dòng chảy của các biến cố, dựa trên sự suy ra từ việc con người tuyển chọn phương thế để đạt tới cùng đích mong muốn của nó. Ở nơi nào có sẵn sự giải thích tự nhiên, ta xem giải thích đó cao hơn giải thích siêu nhiên, và ta cũng chấp nhận rằng chính khái niệm về hệ thống hoặc về quan hệ hữu cơ (organism) cung cấp lời giải thích tự nhiên ấy.
5. Xung khắc với khoa học
Không ích lợi cho khoa học
Học thuyết vạn vật độc lập với nhau và lối thông giải của cứu cánh luận liên quan tới cùng đích tự nhiên của chúng không nhất thiết xung khắc với khoa học, ngoại trừ trong khái niệm mang bản sắc Aristotle. Phát biểu rằng hòn đá rơi xuống đất vì nó đang tìm kiếm vị trí tự nhiên của nó, dường như chẳng có chút giá trị thông tin nào. Người ta khó có thể hiểu điều gì xảy ra cho bản tính của các vật khi chúng phối hợp nhau, như khí hy-drô và khí ô-xy làm thành nước.
Lời đề xuất rằng nước đông ở 0 độ C hoặc 32 độ F vì đó là bản tính của nước biến thành nước đá ở nhiệt độ đó thì dường như không thích hợp cho việc tiến hành thẩm tra các thao tác của thiên nhiên. Chính kiểu tiếp cận đó đã biện minh cho lời chỉ trích gay gắt của Francis Bacon khi ông tuyên bố rằng nguyên nhân cứu cánh (tối hậu, final cause) đã làm hư hoại khoa học.
Học thuyết về nguyên nhân cứu cánh chỉ có vẻ hợp lý với giả định rằng vật nào cũng có bản tính của chính nó, hoàn toàn độc lập với quan hệ ngẫu nhiên của nó với môi trường của nó; và như thế, các khoa học gia và triết gia hiện đại phải bác bỏ hoặc phải sửa chữa rốt ráo giả định ấy.
Xung khắc do bởi vô tình
Khi xem cứu cánh là công cuộc của Ðấng siêu việt hoặc như một phô bày bản tính có tính bản thể của vật, chúng ta lâm vào tình thế xung khắc với các yêu cầu của khoa học hiện đại. Trong khi vấn đề ấy trong tự nó không làm cho các quan điểm đó bị sai thì nó lại gây nên một số hoài nghi. Quả thật, khái niệm của cứu cánh luận giải thích cứu cánh như một thực tế trong vũ trụ, tự nó cũng phù hợp với các khám phá của khoa học, và có khả năng là một khái niệm có nhiều điểm chính xác.
Có thể nói rằng từ giữa nửa đầu của thế kỷ 20, triết học khởi sự trang trọng xem xét vấn đề ấy vì hy vọng có được một giải pháp thông qua các lý thuyết sinh học (biology) hiện đại. Có lẽ có một cách trình bày dễ dàng hơn bản chất của giải pháp ấy là quay trở về với thuyết tiến hóa và đi theo một số triển khai của nó trong thời hậu-Darwin.
III. Bergson và thuyết tiến hóa sáng tạo
1. Bergson phê phán Darwin
Vào giao thời của thế kỷ 19 và 20, trong số những người phê phán Darwin, Henry Bergson là kẻ quan trọng nhất. Ông cho rằng không thể giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng những biến dị ngẫu nhiên và có tính máy móc.
Những cái giống nhau
Theo Bergson, chúng ta hãy giả định vào nhiều ngàn năm trước, có hai nhóm chính, phân rẽ từ một gốc rễ bố mẹ, rồi phát triển theo những chiều hướng khác nhau mà không có bất cứ tiếp xúc nào với nhau. Kể từ thời điểm phân rẽ, vì không có trí huệ dẫn đạo để giám thị những gì xảy ra cho chúng và chúng cũng chẳng có điểm chung nào, nên bất cứ cái gì chúng trở thành cũng tùy thuộc vào hàng ngàn biến dị phát sinh từ những nguyên nhân mù lòa.
Sau hàng ngàn năm như thế, nếu chúng ta nhận thấy các chi nhánh phân rẽ ấy dù rất không giống nhau ở vẻ ngoài nhưng chúng vẫn có các cơ quan nhất định hoặc các cấu trúc chung, thì không thể nào cắt nghĩa sự kiện ấy dựa theo các giả định mang tính máy móc chủ nghĩa.
Ðiều ấy quả thật đúng với các nhóm thực vật và động vật. Hàng ngàn năm trước, chúng đã phân rẽ từ bầy đàn bố mẹ nguyên thủy. Trong thời gian ly tán ấy, chúng là đối tượng của hàng ngàn và hàng ngàn biến dị, tuy thế những sở hữu phái tính của chúng vẫn y nguyên như cũ. Ðối với thực vật, không có lý do thực tiễn nào tại sao phải như thế. Trong cuốn L’Evolution créative (Tiến hóa sáng tạo) đã dẫn, trang 60, Bergson viết rằng: "Một số người điều tra rất nhạy cảm còn để ý tới cả phái tính của cây cối, ít nhất cũng như một sự xa xỉ mà thiên nhiên có thể miễn trừ."
Minh họa bằng con mắt
Cũng y như thế đối với những phát triển có tính phân rẽ được tìm thấy trong con mắt, Bergson tiếp tục phát biểu: "Chúng ta hay đặt kế bên nhau mắt của động vật có xương sống và mắt của động vật thân mềm, thí dụ con giun Pectinaria thông thường. Chúng ta nhận thấy các phần giống nhau một cách côát tủy trong mỗi con, kết hợp bởi các thành tố giống nhau. Mắt của con Pectinaria gồm có võng mạc, giác mạc, tròng mắt cấu trúc bằng tế bào như mắt của chúng ta... tất cả đều đồng ý rằng động vật thân mềm và động vật có xương sống đã phân rẽ từ chi nhánh bố mẹ cũng rất lâu trước khi xuất hiện con mắt rất phức tạp như mắt của con Pectinaria. Thế thì do đâu mà có sự giống nhau về cấu trúc?"
Nếu nói theo thuyết Darwin, chúng ta hẳn giả dụ rằng vô số các biến dị nhất thiết phải sản sinh một cơ quan rất phức tạp, thao tác qua ngẫu nhiên mù lòa và đã thành công trong việc tạo ra một sự giống nhau đầy kinh ngạc. Nếu Darwin cố thoát ra khỏi những giải thích có tính kỳ diệu, trái với tựï nhiên như thể có phép mầu, bằng giả thuyết mang tính tiến hóa của ông thì ông không đạt kết quả. Vì chẳng thể có cái gì kỳ diệu trong lý thuyết về sự tạo dựng đặc biệt hơn là sự phát triển những cái giống nhau đầy kinh ngạc như thế qua hàng ngàn hàng ngàn biến dị ngẫu nhiên trong vô vàn thế hệ kế tiếp nhau, khác biệt nhau và tách biệt nhau của các hữu thể.
Thuyết tiến hóa chỉ là loại trừ
Theo Bergson, lý thuyết của Darwin không thể giải thích những tăng tiến hiển nhiên trong thiên nhiên. Darwin giả định cuộc chiến đấu để sinh tồn trong đó cái thích nghi nhất thì sống sót và cái không thích nghi thì bị loại trừ. Môi trường làm nên sự chọn lọc đó. Thật sự, sự chọn lọc tự nhiên không giải thích gì cả ngoại trừ liên quan tới sự loại bỏ cái không thích nghi. Sinh vật nào không thể điều chỉnh theo môi trường thì bị loại trừ.
Trên cơ sở ấy, thiên nhiên phải mãn nguyện với những dạng thức của sự sống đã chứng tỏ có khả năng sống sót. Cuộc tiến hóa lý ra phải ngừng lại với sự xuất hiện của cỏ dại vì chúng đã và đang chứng tỏ năng lực sinh tồn, "tràn lan ghê gớm", của chúng. Theo thuyết Darwin thì không có lý do gì khiến cho các dạng thức cao hơn của sự sống xuất hiện. Con người như một sinh vật phát triển cao độ nhất là một xa xỉ vì không thể đưa ra lời giải thích thỏa mãn nào về nó.
Thuyết Darwin không thể giải thích sự giống nhau về cấu trúc trong những chi nhánh khác nhau, cũng không đưa ra được lý do hợp lý nào cho sự phát triển của các sinh vật cao đẳng hơn. Có lẽ sở dĩ có những khuyết điểm ấy là do bởi các giả định ban đầu của Darwin.
Nên đảo ngược Darwin
Ði theo chủ nghĩa duy vật đang thịnh hành thời ấy, Darwin giả định rằng sự sống tùy thuộc vào vật chất và chức năng của các cơ quan. Do đó, ông cắt nghĩa tư duy bằng cách truy nguyên cuộc tiến hóa của hệ thần kinh tới sự viên thành của nó trong não. Ðộng vật, trong khi phát triển não qua những biến dị ngẫu nhiên, nó bắt đầu suy nghĩ. Cùng một cách thức như thế, con mắt được truy nguyên từ đốm nhiễm sắc tố bị kích thích cho đến cơ quan phức tạp ngày nay, và người ta đã giả định rằng chính nhờ một ngẫu nhiên đầy may mắn trong cuộc tiến hóa của mắt mà cho phép động vật ấy thấy.
Vì thuyết Darwin có khuyết điểm, có lẽ chúng ta sẽ có được lối giải thích tốt hơn bằng cách đảo ngược giả thuyết ấy và thừa nhận rằng vật chất tùy thuộc sự sống và cơ quan tùy thuộc chức năng. Ðó là những gì Bergson đã làm.
2. Thuyết đà sống
Xung lực và nguyên-lý-sự-sống
Theo Bergson, sự sống không có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc. Khi nói tới khởi thủy của sự sống tức là chúng ta có ý nói tới sự bắt đầu của sinh vật cá thể. Sự sống không bao giờ bắt đầu; nó được lưu truyền từ cha mẹ sang con cái.
Hãy giả định rằng thực tại – vốn được chúng ta hiểu như sự biến đổi đơn thuần – có thể được thể hiện như một xung-lực-sống phổ quát (a universal life-impulse). Chữ xung lực ở đây được hiểu một sự thôi thúc triền miên và cấp bách, buộc phải thao tác ngay, không đắn đo, chẳng suy đi tính lại. Như thế, chúng ta có thể thông giải những vật khác nhau trong thiên nhiên như là những thể hiện khác nhau của nguyên-lý-sự-sống (the life-principle). Thuyết *đà sống (the elan vital), như Bergson gọi nó, hay *sinh lực thuyết, có thể được kiểm tra bằng những vấn đề mà Darwin không thể giải quyết.
Theo Bergson, ta không nên kinh ngạc khi thấy có sự giống nhau về cấu trúc trong những chi nhánh riêng rẽ vì chúng cùng diễn đạt chung một nguyên-lý-sự-sống. Có thể cắt nghĩa các cơ quan khác, thí dụ con mắt, bằng giả định rằng các chức năng, thí dụ nhìn, đều thiết yếu cho đà sống, và rằng nó sản sinh các cơ quan thích đáng với chức năng ấy. Khi đà sống tìm kiếm những thể hiện thích đáng hơn cho nó thì đưa tới sự xuất hiện các hữu thể cao đẳng hơn. Do đó, thuyết đà sống cung cấp lời giải thích thích đáng hơn lời giải thích của thuyết tiến hóa.
Thuyết Darwin không là tiến hóa
Chúng ta nên rướn thêm một bước để làm sáng tỏ hơn điều thực sự liên quan tới ý tưởng này của Bergson về tiến hóa. Nếu tiến hóa hàm ý sáng tạo, nghĩa là xuất hiện các dạng thức thật sự mới mẻ, thì từ ngữ ấy đã bị dùng sai. Chừng nào thuyết Darwin còn là một lý thuyết mang tính máy móc, chừng đó nó vẫn không thể là lý thuyết về tiến hóa, vì trong một hệ thống có tính máy móc chủ nghĩa, hoàn toàn không có khả năng xảy ra cái gì thật sự mới mẻ.
Bergson quả quyết rằng: "Trong thực tế, yếu tính của lối giải thích mang tính máy móc chủ nghĩa ấy coi tương lai và quá khứ như những chức năng có thể tính toán của hiện tại, và do đó nó quả quyết rằng mọi sự đếu được cung cấp. Với giả thuyết ấy, quá khứ, hiện tại và tương lai hẳn được mở ra cho một trí huệ siêu phàm có khả năng làm phép tính ấy trong một liếc mắt".
Bergson và trực giác
Thuyết đà sống của Bergson không là loại lý thuyết có thể làm đối tượng cho các kiểm tra khoa học hoặc có thể xác minh trong bất cứ phòng thí nghiệm thông thường nào. Sự việc ấy chẳng gây rắc rối cho Bergson chút nào vì ông đánh giá trí huệ (trí tuệ) – công cụ của khoa học – chỉ là công cụ của đà sống, một công cụ chỉ sử dụng cho những cứu cánh thực tiễn.
Như thế, trí huệ ấy có thể ứng xử với các vấn đề sinh tồn trong thực tế nhưng không thể ứng xử với bản tính thật sự của thực tại luôn luôn né tránh trí huệ ấy vì thực tại vốn vô thường, nghĩa là như một sự đơn thuần biến đổi. Ðối với thuyết đà sống, ta chỉ có thể hiểu nó bằng trực giác (intuition) và cảm nhận (sense) nó.
Nhiều triết gia từ khước lối giải thích của Bergson trong khi vẫn ngưỡng mộ nhiều phẩm tính của thuyết đà sống do bởi nó là một học thuyết ngoại lý (irrational doctrine). Họ cho rằng một khi lý trí không được phép kiểm tra chân lý của một học thuyết thì không còn tiêu chuẩn xác định giá trị nào để qua đó phán đoán câu trả lời ấy là đúng hoặc sai. Khi có những lời giải thích giống nhau thì người ta ưa thích lý thuyết nào hợp lý.
IV. Thuyết tiến hóa hiển lộ
1. Từ am hiểu tổng quát
Lloyd Morgan
Có một lý thuyết rất được nhiều người chấp nhận thay cho thuyết đà sống của Bergson, đó là thuyết tiến hóa hiển lộ (the emergent evolution) mà người đầu tiên đề ra là nhà tâm lý học người Anh Lloyd Morgan (1852-1936), trong cuốn The Emergent Evolution (Thuyết tiến hóa hiển lộ, 1923).
Theo thuyết này, một tổng hợp các thành tố rất có thể sản sinh cái gì đó mới mẻ, một cái gì đó mà tri thức về chính các thành tố đó cũng không thể nào đoán trước. Cái hiển lộ này, khi trồi ra hoặc nổi lên, sẽ tùy thuộc vào các thành tố mà từ đó nó phát sinh, tuy thế nó có phẩm tính riêng biệt và khác biệt với chúng.
Ý tưởng ấy rất quen thuộc trong kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày. Học sinh các lớp hóa học đều biết rằng natri (sodium) và clo (chlorine) là hai chất độc chết người, tuy thế khi được tổng hợp thành NaCl, chúng làm nên muối ăn bình thường. Không ai dám dùng hydrô hoặc ôxy riêng rẽ để dập tắt ngọn lửa, thế nhưng khi kết hợp chúng theo một tỉ lệ thích đáng H2O, chúng biến thành nước và có thể làm lửa tắt ngúm. Cả muối lẫn nước đều tùy thuộc vào các thành tố hòa nhập làm thành chúng, tuy nhiên tổng hợp ấy sản sinh cái gì đó có phẩm tính riêng biệt.
Vô cơ sinh thành hữu cơ
Năm 1953, nhà vật lý hóa học Harold C. Urey (1893-1981) của Ðại học Chicago đã cùng một sinh viên về sau là nhà hóa học và sinh vật học Stanley L. Miller (1930-2007) làm thí nghiệm về Hóa học tiền sinh học (prebiotic chemistry), một ngành nghiên cứu các chất hóa học của trái đất trước khi sự sống xuất hiện.
Cả hai tạo một môi trường giống với quá trình sản sinh sự sống từ khí quyển. Trong bộ máy thí nghiệm mà Urey cách ly với môi trường bên ngoài, có một bình nước nhỏ, được hâm nóng như thể do bởi ánh nắng mặt trời và khiến nó bốc hơi. Hơi được dẫn vào một bầu thủy tinh chứa các chất hơi của bầu khí quyển trong tình trạng trái đất khoảng 4 tỉ năm trước, gồm hơi nước, khí methane, khí ammonia và khinh khí.
Hai thầy trò cho các tia điện xẹt như sét đánh vào chất hơi hỗn hợp ấy. Dĩ nhiên nước trong bình phải chu lưu, nghĩa là sau khi bị lộn lạo và bị sét đánh, nó trở lại bình cũ để lại hóa ra nước, và rồi tiếp tục bị hâm nóng nhiều lần thành hơi và lại bay lên cái bình chứa điện xẹt. Sau mấy ngày tuần hoàn như thế, giáo sư Miller đem nước trong bình ra phân chất. Ông nhận thấy khoảng 10% các nguyên tử các-bon đã họp thành các hợp chất hữu cơ. Một số ít là chất lạ, nhưng có tới 2% là các nguyên tử các-bon đã họp thành các phân tử amino acids mà ngày nay người ta biết chúng là những viên gạch đầu tiên xây dựng thành hợp chất protein, thành phần cơ bản của tế bào sự sống.
Thí nghiệm đơn giản hơn
Về sau, người ta làm thí nghiệm đơn giản hơn mà vẫn đạt được kết quả y như thế. Chẳng cần có tia sét đánh, các phân tử trong nồi súp tiền sinh học của trái đất ấy cũng có thể tự hợp thành một loạt những phân tử hữu cơ thật đơn giản, trong đó có hợp chất hydro cyanide (ký hiệu HCN) và hợp thành chất adehydes. Chất này phối hợp với ammonia và HCN cho ta một chất tạm aminionitriles. "Tạm" vì hợp chất này hòa với nước "biển" nguyên thủy cũng tạo ra các phân tử amino acids.
Năm 1960, nhà vật lý học Juan Óro của Ðại học Chicago làm thí nghiệm đơn giản hơn. Ông trộn chất hydrogene cyanide và chất ammonia trong một dung dịch nước. Kết quả đem lại các amino acids. Nhưng có điều bất ngờ nhất là trong các amino acids tìm được theo cách này, nhiều nhất lại là một chất được gọi là adenine.
Ngày nay, người ta biết rằng chất adenine là một trong bốn chất tạo thành phân tử cơ bản RNA và DNA, những viên gạch xây đắp thành chất protein của sinh vật. Nhưng tới đây, sẽ vẫn còn nhiều chuyện lạ chờ được khám phá nữa. Khoa học ngày nay đã tìm thấy những chất hữu cơ ngay cả trong vũ trụ, trong các đám tinh vân chưa đủ "chín muồi" để trở thành thái dương hệ, trên các đầu sao chỗi, các vẫn thạch.
Ba cấp bậc tiến hóa
Chúng ta đã khá lan man với các thí dụ kể trên, và có vẻ như lạc đề. Nhưng tựu trung cũng chỉ để minh họa cho nguyên lý tổng quát của sự hiển lộ (the general principle of emergence) như có tính sáng tạo hoặc sản sinh cái mới mẻ. Chúng là những kiểu mẫu cho sự khẳng định mà ngày nay đã được chấp nhận một cách bình thường rằng toàn thể thì lớn hơn tôång số các phần của nó.
Khi quay sang các hiện tượng thiên nhiên, chúng ta nhận thấy có khả năng đặt chúng, một cách hoàn toàn, vào cái có thể gọi là trật tự của vật thể (order of being). Với cụm từ ấy, chúng ta có ý nói rằng nếu bắt đầu với các hạt quác, electron, proton, hạt phân tử, v.v., chúng ta sẽ đạt tới cấp độ cao hơn chúng, được gọi là nguyên tử (atom), cứ thế tới dạng thức cao nhất của vật thể.
Ðể có thể trình bày giản dị, chúng ta sẽ giới hạn các cấp bậc ấy trong vô tri giác, có tri giác và có lý trí như thể đó là ba cấp bậc tùy thuộc và tiếp giáp nhau. Nếu thuyết tiến hóa hiển lộ đúng, vật có tri giác hẳn phải xuất hiện từ vật vô tri giác theo ý nghĩa nó phải tùy thuộc vào vật vô tri giác dù chắn chắn nó có phẩm tính riêng biệt. Cũng một cách thức như thế, vật có lý trí hẳn phải phát triển từ những vật đang sống và bị tùy thuộc vào các điều kiện vật lý dù nó có phẩm tính riêng biệt và khác biệt với chúng....
2. Ðặc trưng của vật có tri giác
Tính toàn bộ
Có thể phân biệt vật có tri giác với vật vô tri giác bằng thực tế tổ chức. Vật vô tri giác có vẻ như được làm thành bởi các thành phần, người ta có thể tách rời chúng ra mà không hủy hoại vật đó. Như trường hợp tảng đá, có thể chẻ ra thành nhiều phần và có thể khảo sát các phần nhỏ hơn ấy thay cho cả tảng đá. Ðối với sinh vật, khi các thành phần của nó bị tách ra khỏi cơ thể, chúng không còn thao tác theo chức năng giống như các thành phần gắn liền với sinh vật.
Trong sinh vật, hoạt động của các phần của nó phát sinh từ tương quan tổng quát của mọi thành phần và cái toàn bộ của sinh vật tùy thuộc vào tương tác ấy. Cơ thể con người là một hệ thống được điều chỉnh một cách tinh tế với các bộ phận này hợp tác với các bộ phận khác cho những lợi ích sâu xa hơn của cái toàn bộ.
Ít nhất năm đặc điểm
Sinh vật có ít nhất năm đặc điểm. Ðó là:
1. Ðôi khi nếu xảy điều gì đó cho cơ thể, có bộ phận nào đó bị trục trặc hay khiếm khuyết, chức năng của nó có thể được bộ phận khác đảm trách hoặc tự điều chỉnh để bù trừ cho cái bị tổn thất. Ðiều ấy đặc biệt đúng với não. Nếu cơ quan ấy chỉ đơn giản là để tổ chức các bộ phận và mỗi bộ phận có chức năng riêng biệt của nó thì khi bị tổn thất, đã không có khả năng thay thế chức năng ấy.
2. Các sinh vật sống động có năng lực tái sản sinh. Sự kiện này dường như thêm lần nữa phân biệt chúng với vật vô tri giác. Tảng đá có thể tự bảo toàn trong những biến đổi nhất định của môi trường nhưng nó không có khả năng sản sinh các tảng đá khác để chủng loại của nó trường tồn. Các vật sống động có thể có các phương cách tái sản sinh khác nhau nhưng kết quả sau cùng vẫn giống nhau. Sự kiện ấy dường như phân biệt các vật sống động với các vật không sống động.
3. Các sinh vật sống động đều có tính cảm ứng, thí dụ nhận biết môi trường của chúng. Khả năng này gia tăng theo tính chất phức tạp và sự tổ chức của hệ thống thần kinh, nhưng ngay cả hèn mọn nhất như con a-mip, một sinh vật rất nhỏ chỉ có một tế bào, ở trong nước và đất, cũng nhận biết các đối tượng ngoại tại trong vùng tiếp giáp của nó.
4. Khả năng ấy hữu dụng cho sinh vật trong cuộc tìm kiếm thực phẩm, né tránh kẻ thù và, giống như các chức năng đã được đề cập, góp phần vào việc bảo tồn cá thể sinh vật ấy hoặc chủng loại của nó.
5. Cuối cùng, sinh vật sống động đòi hỏi phải có lương thực, có khả năng tìm thấy và tiêu hóa thức ăn.
Chỉ có tính tương đối
Việc liệt kê những đặc điểm vừa kể không mang chủ ý sẽ dùng chúng như những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt cái sống động với cái không sống động. Cho tới nay, vẫn chưa giải quyết xong vấn đề định nghĩa sự sống một cách thích đáng và đầy đủ. Khi các nhà khoa học xem xét các hữu thể theo đường ranh giữa tri giác và vô tri giác, thí dụ vi-rút, họ nhận thấy thật khó phát biểu một cách chính xác về các đặc điểm của sự sống.
Tuy thế, những phân tích vừa được liệt kê ấy cũng đủ cho mục đích của chúng ta và góp phần phân biệt một cách nhất định các dạng thức sống động tiên tiến với các đối tượng vô tri giác bình thường. Chúng minh họa cho thấy rằng cấp bậc cao hơn ấy tùy thuộc vào vật vô tri giác vì không thể có sự sống nào không có các thành tố vô tri giác. Tuy thế, cái toàn bộ có phẩm tính riêng biệt, khác với những điều kiện mà từ đó nó hiển lộ.
Thăng hoa các nguyên tố
Quả đúng là nhà hóa học có thể phân tích bất cứ sinh vật sống động nào thành những nguyên tố hóa học vô tri giác và có thể cho thấy rằng chẳng có gì còn lại, thế nhưng, một mình các nguyên tố hóa học không thể giải thích động thái của sinh vật sống động ấy. Qua sự tổng hợp, đã có cái gì đó được thêm vào các nguyên tố ấy.
Ðó không phải là vấn đề có một nguyên lý bí nhiệm nào đó nhập vào cuộc phối hợp ấy mà chúng ta không biết tới xuất xứ của nó, đúng hơn, đó là hình ảnh minh họa sâu xa hơn của thực tế tổng hợp có tính sáng tạo. Chủ nghĩa máy móc không thể giải thích sự phân biệt giữa sống động và không sống động, nhưng thuyết tiến hóa hiển lộ có thể cung cấp một giả thuyết có vẻ hợp lý, tránh được việc dẫn tới một Ðấng tạo hóa ngoại tại và thần bí.
3. Ðặc trưng của tâm trí
Tâm trí tùy thuộc thể xác
Cũng nguyên lý ấy đưa ra lời giải thích cho nan đề về tương quan giữa thể xác và tâm trí, một vấn đề gây ra quá nhiều nan giải. Cho dẫu tâm trí là gì đi nữa, rõ ràng nó tùy thuộc vào thể xác. Nếu não bị chấn thương hoặc ngà ngà men rượu, ngộ độc hay rối loạn cảm xúc, thì rất khó hoặc chẳng thể nào suy nghĩ.
Sự hoàn toàn tùy thuộc của tâm trí vào thể xác đã đưa tới những nỗ lực đồng nhất nó với thể xác bằng lối nói rằng tư duy chỉ đơn thuần là một hoạt động vật lý. Biểu tượng cao nhất cho khái niệm đó là tham vọng của một số nhà khoa học trong công nghiệp điện toán, muốn sáng chế và lập trình máy vi tính điện não có khả năng thay thế cho nhân não. Tuy thế, sự giảm thiểu tâm trí thành vật chất hình như không thích đáng. Trong chừng mực chúng ta có thể nhận thấy cho đến nay, không thể có tâm trí mà không có thể xác. Tuy thế, vẫn có sự phân biệt rạch ròi, tới độ không thể nào xóa bỏ, giữa hoạt động thể lý và hoạt động tâm thần.
Lý tính và trừu tượng hóa
Chừng nào con người còn có lý trí, chừng đó nó vẫn có thể vận hành các ý tưởng trừu tượng. Có thể người duy nghiệm chủ nghĩa (empiricism) có lý khi họ khẳng định rằng hết thảy các ý nghĩ đều có nguồn gốc trong giác quan. Nhưng làm sao có thể am hiểu mà không gặp nan giải nào về các ý tưởng như số không (dê-rô), hằng cửu, Thượng đế, vô tận, năng lượng, v.v. bằng cách chỉ đề cập tới các giác quan. Giác quan bị giới hạn trong các ý tưởng đặc thu (particulars)ø trong khi đó con người suy nghĩ bằng những cái phổ quát (universals).
Chính khả năng ứng xử với các ý tưởng phổ quát là dấu hiệu đặc trưng nhất cho toàn bộ tính chất lý trí của con người. Thật khó chấp nhận lời giả định rằng các ý tưởng trừu tượng và phổ quát chỉ là những vận hành của vật chất và là vật chất. Nếu con người bị giới hạn trong nhận thức bằng tri giác tức thời và tại chỗ hay hồi tưởng, hắn không thể nào thoát ra khỏi hiện tại hoặc chuẩn bị cho tương lai. Và đặc biệt làm thế nào con người có năng lực và đạt được các thành tựu toán học, một môn học hoàn toàn trừu tượng, để bằng vào khả năng xử lý các ý tưởng trừu tượng mà gặt hái được những thành quả tuyệt vời trong cụ thể cuộc sống.
Biểu tượng và ký hiệu
Kết hợp với khả năng sắp xếp các ý tưởng trừu tượng là khả năng hình thành cùng xử lý bằng ký hiệu. Chỉ một chữ thôi, không nhất thiết phải giống hệt cái được nó biểu hiện, mà gây được hiệu quả trong ý nghĩ. Và nhiều ký hiệu có thể chẳng tiêu biểu cho cái gì cả, thí dụ con số dê-rô. Khả năng bố trí các ký hiệu cũng làm cho con người tăng thêm năng lực.
Chừng nào con người còn ứng xử với các nối kết tự nhiên, chừng đó dường như một vật đã định có thể được dùng để tiêu biểu cho một vật khác, thí dụ khói là biểu tượng của lửa. Ở đây, khói là một vật có thật, có giá trị như dấu hiệu của một biến cố có thật và đang xảy ra. Tri thức kiểu đó có giá trị nhưng nó không có hiệu quả cho bằng tri thức có thể tạo thành do bởi việc thoát ra khỏi một hoàn cảnh hiện hành hoặc việc trầm ngâm suy tưởng về ý nghĩa của các từ ngữ như "khói" và "lửa" trong một hệ thống rộng lớn hơn, thí dụ như hóa học.
Cảm nhận và thấy trước
Bằng khả năng sử dụng ký hiệu và đắm mình trong tư duy trừu tượng, con người có khả năng cảm nhận cái đẹp, sự ràng buộc đạo đức và tôn giáo mà dường như các tạo vật khác không thể nào có. Tầm quan trọng nhất của cảm giác ràng buộc này là hành động tìm kiếm chân lý và hướng các nỗ lực triệt để nhất để khám phá cho ra nó. Và nếu không có sự thao diễn của tâm trí thì dường như chẳng thể nào có các ý tưởng trừu tượng cùng những hàm ý thực tiễn của chúng.
Con người còn có khả năng sử dụng những nối kết giữa các biểu tượng để nhìn thấy trước hậu quả của một hành động nhất định mà không thật sự hoặc chưa thực hiện chúng. Ðó là một khí cụ đáng ngưỡng mộ, được hàm ýù trong cụm từ "để tránh các hậu quả tai hại".
Một người thích rượu đang lái xe, nghĩ tới một bữa nhậu và bỗng nổi cơn thèm rượu. Y có thể cân nhắc hậu quả có thể xảy ra nếu y móc chai rượu nhỏ để trong túi xách ra, làm mấy hớp, và vì thế y chép miệng, từ chối không để mình lâm vào tình thế nguy hiểm do rượu gây ra. Người ấy không nhất thiết phải uống thử rượu để thấy cái gì thật sự xảy ra. Những đặc điểm đó của hành động có lý trí gợi tới cái gì khác nữa, khiến cho ta phải suy nghĩ hơn là phản ứng thuần túy vật chất của các nguyên tố hóa học hoặc sự hội tụ của các đầu mối thần kinh trong não.
4. Tâm trí là vật chất
Cùng với nhiều người khác, người duy vật chủ nghĩa đã có những nỗ lực muôn hình muôn vẻ nhằm phủ định thực tại của tâm trí. Hầu hết các cuộc tiến công đó chĩa thẳng mũi dùi vào khái niệm cho rằng tâm trí là cái gì đó khác một cách cơ bản với thể xác và là một thực thể tinh thần bí nhiệm chiếm lĩnh thể xác nhưng không liên quan tới thể xác.
Nguyên lý bảo toàn năng lượng
Có một luận cứ dựa trên giá trị của nguyên lý bảo toàn năng lượng (the conservation of energy). Nếu tâm trí hoàn toàn độc lập với thể xác, thì hoặc nó không thể tác động lên thể xác hoặc không thể hiểu được hành động của nó. Bất cứ cái gì sản sinh hoạt động trong thể xác đều phải dùng tới năng lượng. Nếu tâm trí không là vật chất và vì nó hoạt động trong thể xác, nó phải lấy năng lượng từ một nguồn không phải vật chất.
Ðiều đó có nghĩa rằng mỗi lần tâm trí tác động lên thể xác, kho dự trữ năng lượng trong thiên nhiên phải gia tăng – và như thế, hoàn toàn trái ngược với thuyết bảo toàn năng lượng. Bảo toàn năng lượng được xem là nền tảng trong khoa học mang bản sắc Newton, và dường như không thể bác bỏ lập luận của nó. Do đó, chỉ có thể xem tâm trí là một dạng của vật chất.
Thuyết phụ tượng
Một số người theo thuyết tự nhiên (naturalism) tìm cách bảo lưu thực tế tâm trí trong khi vẫn trung thành với thuyết bảo toàn năng lượng. Sử dụng nội hàm của *thuyết phụ tượng (epiphenomenalism)), họ nêu lên giả thuyết rằng tâm trí khác với thể xác nhưng tùy thuộc vào thể xác.
Theo họ, thể xác có khả năng sản sinh những điều kiện có thể được gọi một cách thích đáng là tâm thần, nhưng các hiện tượng tâm thần không thể sản sinh hoặc tác động lên hệ thống vật chất. Tâm trí giống như hơi thoát ra từ van an toàn của một đầu máy; nó được sản sinh bởi tính thể lý (physical) nhưng không ảnh hưởng lên thể lý. Lý thuyết này dường như không được nhiều người tán thưởng lắm.
5. Tâm trí là hiển lộ
Phẩm tính và vai trò riêng
Thuyết tiến hóa hiển lộ tránh các nan giải của các lý thuyết vừa kể. Tâm trí tùy thuộc vào các điều kiện vật chất nhưng nó có phẩm tính riêng biệt, khác với chúng. Có thể diễn tả một cách thích đáng rằng các phẩm tính ấy như một loại tính thể (sort of being) nhưng không mang hàm ý nó là một loại bản thể huyền bí (mysterious substance) nào đó mà ta không biết bằng cách nào nó phát sinh. Ta phải thừa nhận nó là cái đang là nó và phải thông giải nó trong liên quan tới các qui luật của chính nó. Và ta có thể không thắc mắc về tính hiệu quả của nó.
Còn nữa, tâm lý đóng vai trò to lớn trong việc sửa đổi các biến cố. Việc giảm thiểu hết thảy các biến cố lịch sử thành các điều kiện vật chất mà thôi, như người chủ nghĩa Marx có thể làm, khiến phát sinh sự giản dị hóa quá đáng các biến cố lịch sử. Loài người có thể bị và đang bị tác động bởi các ý tưởng của nó và như thế cho thấy tâm trí là một ảnh hưởng đầy uy lực.
Nàng Kiều và con khỉ
Dường như các nỗ lực bác bỏ tâm trí và giảm thiểu toàn bộ động thái của con người thành hoạt động máy móc là một hình thức bào chữa đặc biệt cho việc phải bỏ qua một bên các sự kiện nhất định để làm cho lý thuyết Marx hữu hiệu. Có thể đúng khi quả quyết rằng một con khỉ đùa giỡn với bàn phím máy vi tính, và nếu có đủ thì giờ, nó có thể viết ra cuốn Truyện Kiều, từ đầu tới cuối.
Vấn đề là Nguyễn Du (k.1766-1820) không đòi hỏi một thời gian vô định để làm công việc đó, cũng không tùy thuộc vào sự hoàn toàn ngẫu nhiên viết vớ va vớ vẩn để hoàn thành cứu cánh của ông. Nguyễn Du biết rõ cụ muốn làm cái gì và nên tiến hành việc đó như thế nào.
Ưu việt của con người
Trong chừng mực hiểu biết của chúng ta, con người có khả năng lập quyết định và thực hiện các công tác trí tuệ mà không một hình thức hữu thể nào khác có thể làm được như thế. Bộ lông của chim công có thể có những màu sắc đẹp hơn chiếc áo đẹp nhất của con người, nhưng chỉ có con người mới biết sắp xếp các màu sắc để làm thành chiếc áo hợp ý mình. Con người có thể vận dụng các ý nghĩa, và ta không thể gọi năng lực ấy bằng một danh hiệu nào khác hơn là năng lực của tâm trí.
Quả thật rất khó tin khi cho rằng những khải hoàn của khoa học hiện đại không là gì cả mà chỉ là các phản xạ có điều kiện và rằng năng lực của tri thức tân tiến không là gì cả mà chỉ là chức năng của một bộ phận thể lý. Tâm trí phát sinh từ và tùy thuộc vào các điều kiện vật chất nhưng nó có phẩm tính riêng, khác với chúng và không thể bị giảm thiểu thành chúng. Ít nhất đó là những gì được lý thuyết tổng quát về sự hiển lộ nêu ra.
6. Các hàm ý
Cấp cao tùy thuộc cấp thấp
Ngang đây, có lẽ cần lưu ý là bạn nên cẩn thận một chút, đừng nghĩ rằng thuyết tiến hóa hiển lộ có hàm ý một lổ hổng trong thiên nhiên. Nếu có những lỗ hổng giữa các loại hữu thể khác nhau thì đó là một vấn đề thực tế, được thiết lập bởi quan sát chứ không do lý thuyết quyết định.
Nếu sự phát triển của vạn vật có tính liên tục khiến cho vật vô tri giác biến đổi sắc thái thành vật có tri giác, và các loài vật sống động khác nhau cho thấy các cấp bậc trí tuệ mờ phai dần, thành cái này cái nọ như những sắc thái khác nhau của một màu sắc, thì giả định ấy không mâu thuẫn với ý tưởng về sự hiển lộ.
Tất cả những gì được thuyết tiến hóa hiển lộ bảo lưu là các cấp bậc cao tùy thuộc vào các cấp bậc thấp mà từ đó chúng trồi ra và nổi lên (hiển lộ) nhưng chúng có phẩm tính riêng biệt, khác biệt với cấp bậc thấp, và không thể bị giảm thiểu thành cấp bậc thấp mà không bị tổn thất, như thí dụ đã nêu về nước là phối hợp của H2O hoặc vô cơ sinh hữu cơ hoặc các cơ quan chi thể làm thành một con người.
Xét theo tính khoa học
Có thể thấy giả dụ các nhà khoa học thành công trong việc sản sinh sự sống bằng cách tổng hợp các hóa chất nhất định thì điều đó không tạo ra nan giải nào cho lý thuyết này – dù hẳn gây hoang mang cho lý thuyết nào xem sự sống là độc lập với các điều kiện vật chất của nó.
Có một nguyên tắc nổi tiếng trong phương pháp khoa học là một lý thuyết hay một lời giải thích nếu muốn trở thành được ưa chuộâng nhất, nó phải đáp ứng đòi hỏi có khả năng tập hợp tối thiểu các nguyên lý cơ bản để giải thích các hiện tượng. Trên cơ sở ấy, thuyết tiến hóa hiển lộ hấp dẫn nhiều nhà tư tưởng tuy vẫn có nhiều người đánh giá nó là quá siêu hình hoặc quá suy tưởng, và khó có thể được xem là có tính hoàn toàn khoa học.
Ðặt vấn đề cứu cánh
Trong khi công nhận rằng học thuyết về các cá thể có tự tính và độc lập không còn giá trị và ta buộc lòng phải nghĩ tới biến cố như là tâm điểm của hoàn cảnh năng động, nhiều triết gia hiện đại thấy trong thuyết tiến hóa hiển lộ một công cụ có giá trị giải thích sự chuyển thể các điều kiện vật chất thành các hiện tượng tinh thần (mental phenomena).
Trên hết, dường như thuyết này có giá trị lớn lao; nó như một sự giải thích thực tế hiển nhiên của sáng tạo hoặc sự trồi ra, nổi lên của cái mới lạ trong các hiện tượng không thể hiểu bằng bất cứ nguyên lý nào trong cả ba nguyên lý của máy móc chủ nghĩa. Như thế, thuyết tiến hóa hiển lộ lại thêm lần nữa làm phát sinh vấn đề về cứu cánh hoặc cứu cánh luận trong thiên nhiên, và cống hiến sự tái khẳng định nguyên tắc tổng quát về nguyên nhân cứu cánh (final cause) trong quan hệ nhân quả, cái đã bị hệ thống mang tính máy móc chủ nghĩa bác bỏ.
7. Thuyết hiển lộ và cứu cánh luận
Chỉ là sở thích chủ quan
Phần lớn cuộc thảo luận về trật tự và vô trật tự trong vũ trụ đều phản ánh sở thích của con người. Một cách tổng quát, dường như nhiều nhà tư tưởng có cảm giác rằng không thể nào có sự vô trật tự vì trong thực tế, vật này phải có mối quan hệ nào đó với vật kia. Thông thường, khi nói tới vô trật tự chúng ta chỉ ngụ ý rằng chúng ta không thấy đúng cái trật tự mà mình đang tìm. Khi người mẹ rầy la cậu con vì căn phòng vô trật tự của nó, bà dựa vào khái niệm của bà về trật tự vì theo lẽ tự nhiên, giữa các đồ vật khác nhau phải luôn luôn có một trật tự không gian nào đó.
Phần lớn sự hoang mang mà chúng ta cảm thấy là do bởi trong tư duy của mình, khi không phân biệt nổi các ý tưởng chỉ dựa trên sở thích của mình với các ý tưởng dựa trên bằng cớ hoặc trên một chuỗi các biến cố tự nhiên.
Lập luận về bản tính mang tính cứu cánh luận của vũ trụ (teleological nature of universe) phần nhiều là giả tạo vì khi thấy sự nối tiếp tự nhiên vừa lòng hợp ý mình thì người ta quả quyết là đã tìm thấy trật tự, nhưng khi thấy nó đi trái với sở thích hay ý nguyện của mình thì người ta bảo là vô trật tự. Có lẽ đối với người bình thường, bão tố và động đất dường như là sự chống đối quyết liệt của vị thần thiên nhiên khiến cho họ bị khổ đau, còn đối với các nhà khoa học quan tâm tới các hiện tượng ấy, chúng là những thí dụ tuyệt vời của trật tự.
Hỗ trợ cứu cánh luận nội tại
Nếu giảm hạ con người xuống địa vị thích đáng của nó và đánh giá thiên nhiên trên qui mô rộng lớn hơn, chúng ta sẽ thấy rằng trật tự chỉ có nghĩa là một tình trạng trong đó cung cấp những điều kiện thích đáng để hiển lộ các biến cố.
Thông thường, khó có thể dự báo các biến cố có vẻ như bất ngờ, nhưng một khi đã xảy ra, người ta có thể thấy rằng chúng phát sinh một cách tự nhiên từ các điều kiện của chúng, thí dụ vụ đại tai biến sóng thần Tsunami kinh hoàng ở vành đai phía đông Ấn Ðộ dương ngày 26 tháng 12 năm 2004 làm thiệt mạng 225.000 người trong chỉ một ngày tại 11 xứ sở, được tìm thấy là do lằn nứt ở vỏ địa cầu gây ra địa chấn, ngay khi tai biến ấy vừa kết thúc.
Chừng nào còn được quan tâm trong phần lớn tư tưởng hiện đại, chừng đó khái niệm chính xác của cứu cánh luận hẳn vẫn phải được thể hiện trong liên quan tới một hệ thống đang triển khai trong đó thực tế quan trọng là bản tính nội tại và có hệ thống của sự phát triển.
Là một trong ba lý thuyết mang tính cứu cánh luận được xem xét trong chương này, thuyêát tiến hóa hiển lộ chỉ hỗ trợ khái niệm của cứu cánh luận nội tại như là cứu cánh luận của một hệ thống hoặc các điều kiện có hệ thống mà xuất từ đó các biến cố hiển lộ – trồi ra hoặc nổi lên.
8. Thuyết hiển lộ và tự do
Phê bình chủ nghĩa máy móc
Thuyết tiến hóa hiển lộ cũng trở thành cơ sở cho một học thuyết mới về tự do. Những nan giải của các triết gia trước đó về vấn đề này, vốn phát sinh từ thái độ nhấn cực kỳ mạnh của khoa học lên chủ nghĩa máy móc, khiến cho bất cứ lời quả quyết nào về tự do cũng dường như mâu thuẫn với chứng cớ của khoa học. Tuy thế, niềm xác tín của con người dựa trên kinh nghiệm bản thân và quan sát đồng loại đã gây nên những hoài nghi nghiêm trọng về giá trị tổng quát của thuyết duy máy móc.
Nếu mọi sự đã bị quyết định để là cái chúng đang là và không thể nào là cái ngược lại, thì Laplace có lý khi quả quyết rằng Ðấng thông suốt mọi sự (omniscient Being, Hữu thể toàn tri) có thể biết trước cả hiện tại lẫn tương lai. Bergson vạch rõ rằng một lý thuyết như thế có nghĩa là mọi sự đã được an bài ngay từ thuở khai thiên lập địa, và điều đó có vẻ khó tin khi người ta công nhận rằng thời sơ khai của vạn vật thì rất đơn giản, ngược lại với sự phức tạp thời nay.
Một lý thuyết như thế cũng có nghĩa rằng không có gì mới mẻ ngoại trừ những kết hợp có thể dự đoán của các phân tử bất biến có thể xảy ra liên tục, và điều đó cũng làm cho cuộc tiến hóa trở thành bất khả thi. Quan trọng hơn hết là học thuyết chủ nghĩa máy móc mâu thuẫn với chứng cớ hiển nhiên rằng con người có thể lập quyết định và rằng con người có thể cải thiện các điều kiện xã hội và tự nhiên dưới sự hướng dẫn của các ý tưởng.
Nỗ lực của Kant
Kant nỗ lực giải quyết vấn đề ấy bằng cách phân chia công tác cho khoa học và đức tin. Ông giới hạn chủ nghĩa máy móc vào thế giới của kinh nghiệm vốn không và không thể bao gồm bản ngã có lý trí (the rational self). Trong thiên nhiên không thể xảy ra cái gì mới mẻ hoặc không thể dự báo, nhưng con người, vì có lý trí, có thể lập các quyết định tự do. Một thỏa hiệp như thế đơn giản chỉ là sự nhượng bộ người máy móc chủ nghĩa và không được người cho rằng khoa học thống trị toàn thể vũ trụ xem trọng.
Tiến hóa là sáng tạo và tự do
Tiền đề chủ nghĩa máy móc bị thuyết tiến hóa hiển lộ phủ định bằng cách thông giải rằng cuộc tiến hóa là có tính sáng tạo đích thực và bằng những nguyên tắc tự nhiên, nó tránh khỏi khái niệm hai thế giới của Kant. Chừng nào cái hiển lộ còn mang phẩm tính riêng biệt, chừng đó vẫn không thể dự báo nó từ những thành tố hòa nhập làm thành nó. Nó là cái mới mẻ đích thực; nó là tiến hóa đích thực.
Nếu tự do có nghĩa là không thể dự đoán thì đây là lý thuyết về tự do. Tuy thế, nó là sự tự do của một hệ thống, không của một ý chí độc lập hoặc của một nhà độc tài ngoại tại.
Nếu thuyết tiến hóa hiển lộ đúng, lời khẳng định của Laplace phải sai. Tương lai phải tùy thuộc vào các điều kiện của nó vì từ các điều kiện ấy mà nó hiển lộ. Nhưng vì tính chất mới mẻ tự thân khiến nó không là đối tượng của dự đoán nên tương lai mở ra một cách đích thực.
Không thể dự đoán lâu dài
Như thế mọi dự báo lâu dài về dòng chảy của các biến cố đều bị xem là điên rồ, dù đó là xã hội vô giai cấp hoặc một vương quốc lý tưởng giữa chốn trần thế. Những sai lầm của Marx trong việc dự báo các điều kiện và tâm điểm của cuộc cách mạng cộng sản là trường hợp điển hình. Lý thuyết của ông cho rằng cuộc cách mạng ấy chắc chắn phải xuất hiện trong những nước kỹ nghệ hóa cao độ như Ðức và Anh vì theo phép biện chứng, chủ nghĩa tư bản phải phát triển đầy đủ mới có thể phát sinh cái đối lập của nó, đó là giai cấp vô sản, những kẻ sẽ là đạo quân tiên phong trên con đường tiến tới tưởng quốc Utopia đại đồng.
Thực tế của thế kỷ 20, cuộc cách mạng ấy từng xuất hiện tại Nga và Trung Hoa, nơi cả hai nước đều là nông nghiệp và không kỹ nghệ, và đấu sĩ của chủ nghĩa cộng sản tại đó là nông dân chứ không phải là tầng lớp công nhân vô sản. Cho đến đầu thế kỷ 21, hơn một trăm rưỡi năm sau ngày Marx tiên đoán, tưởng quốc Utopia ấy dường như trên thực tế đã hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của tất cả các nhà cách mạng trên thế giới.
Thế giới mở, cá nhân phát triển
Ngoại trừ những phạm vi rất hữu hạn, các dự báo là tác phẩm của những kẻ quá nhiệt tình và đều không có giá trị khả thi. Thế giới, bao gồm xã hội, là một thế giới mở trong đó nỗ lực của con người có thể làm biến đổi dòng chảy của các biến cố lịch sử theo những cách thức không trông đợi và không thể đoán trước.
Một khi lý thuyết tổng quát về "tương lai mở" ấy được kiến lập cho thiên nhiên như một toàn bộ, nó sẽ không gặp khó khăn trong việc áp dụng cho cá thể. Có thể mượn lời giải thích giản dị nhất của Bergson, kẻ đánh giá sự phát triển của cá thể gần giống với sự phát triển của thiên nhiên. Theo triết gia người Pháp ấy, mỗi cá nhân là một tích lũy các kinh nghiệm, một hệ thống mà ta không thể tiên đoán sự phát triển của nó trong tương lai vì hết thảy các hệ thống đều là đối tượng của sự xuất hiện cái mới mẻ.
Whitehead cũng có học thuyết tương tự dù ông nhấn mạnh những hoạt động chọn lọc của một bản ngã đã bị vào khuôn mẫu. Tự do được phô bày trong sự chọn lọc hoặc từ khước các ảnh hưởng của môi trường cùng với sự không thể nào dự báo một cách chính xác những gì cá nhân có thể trở thành, như một kết quả của sự chọn lọc và sự thẩm thấu của các thành tố cấu thành.
V. Tóm lược
Học thuyết cổ truyền về tự do cá nhân qui tự do cho tính năng hoặc quyền năng của cá nhân qua đó con người có thể lập thành những quyết định không bị gây nên hoặc bị tạo tác bởi môi trường của nó. Một lý thuyết như thế dễ dàng bị triển khai thành lý thuyết có tính co dãn hoặc thất thường tùy theo sự chọn lọc.
Tự do là tự quyết định nội tại
Lý thuyết ấy đã bị phủ định trong lý thuyết hiện đại. Tự do nay được định nghĩa như là sự tự quyết định, một sự quyết định bởi một hệ thống vốn có tính chất hoàn toàn bản ngã. Nó được phân biệt với sự quyết định ngoại tại, thí dụ sự cưỡng ép của đồng loại hoặc của các sức mạnh tự nhiên.
Nếu có ai túm lấy tôi rồi ném qua cửa sổ, đó là cưỡng ép và không tự do. Khi tôi nhảy qua cửa sổ mà không có sức ép ngoại tại nào, có nghĩa là tôi đang quyết định động thái của mình. Có thể xem học thuyết tiến hóa hiển lộ phù hợp với khái niệm thông thường về tự do.
Không thể dự báo chính xác
Chừng nào động thái của con người còn mang tính tự quyết định, chừng đó chắc chắn trong động thái ấy vẫn có những thành tố để có thể dự báo. Thông thường, có khả năng thấy trước điều người đó có thể làm trong những hoàn cảnh nhất định.
Nếu bạn dự tính tổ chức một cuộc liên hoan dành cho đại diện của nhân dân Cambodia ngày nay thì có thể tiên đoán danh sách các vị khách được mời. Những nhân vật nguyên là quan chức chính trị hay quân sự từ cấp tỉnh trưởng hoặc sư đoàn trưởng trở lên của Khmer đỏ sẽ không được mời. Chắc chắn việc mời họ sẽ gây tranh cãi. Các nam nữ siêu sao cũng sẽ không được mời vì họ chỉ quan tâm tới nhạc trẻ và lúc nào cũng muốn mình là tâm điểm chú ý của mọi người.
Có thể dự báo một động thái nhất định nhưng không thể nào tiên đoán chính xác vì tùy thuộc vào sự tự quyết định của chủ thể. Khi người ta gọi bản ngã là bản ngã đang biến đổi (a changing self), hoặc cái tôi chỉ là một cái tôi đang biến đổi, cái tôi vô thường, "vô ngã", trong một môi trường mà mọi sự tương liên tương tác, thì ta có thể hiểu tính khả thi của các hành động gây kinh ngạc và không trông đợi.
Những thành tố mới đang nhập thành bản ngã có thể làm biến đổi chiều hướng của động thái. Một thanh niên độc thân phóng đãng có thể từ bỏ cuộc sống "đập phá rộn ràng" để ngồi trầm ngâm trước hiên nhà mỗi khi chiều về, và hoán cải thành kẻ không uống rượu, không hút thuốc.
Chừng nào còn biết tới bản ngã, chừng đó vẫn còn có thể dự báo; nhưng nội dung tiên đoán ấy luôn luôn là đối tượng của sai lầm, vì bất cứ lúc nào cũng có các thành tố mới từ môi trường thâm nhập và góp phần lập thành bản ngã của cái tôi lúc ấy.
Tự do là một thực tế
Tự do không giống với và cũng không là sự thất thường ấy vì tính năng kỳ diệu (mysterious faculty) của con người; và đó là một thực tế. Lý thuyết tiến hóa hiển lộ quả thật gợi cho thấy cơ sở của tự do trong một "tương lai mở" một cách đích thực. Khái niệm hiện đại về bản ngã như một tổng hợp môi trường của nó chuyển thành khái niệm này đối với cá thể con người.
Theo khái niệm này, loài người có thể sửa đổi bản thân bằng những hoạt động có tính chọn lọc của nó, và có thể uốn nắn thế giới theo các ý tưởng của nó, dù nó không thể nào thấy trước rõ rệt hậu quả của mọi hành động. Cảm giác định mệnh chủ nghĩa (fatalism) có liên quan tới định hướng ngoại tại (external direction) có thể được thay thế bằng sự bảo đảm rằng loài người có thể hợp tác, và sự hợp tác đó sẽ gây tác động, tạo thành sự đổi khác.
Cảm giác trách nhiệm
Tư tưởng ấy cũng khiến cho chúng ta cảm thấy mình có trách nhiệm. Thế giới ngày mai sẽ hiển lộ từ các điều kiện hôm nay và sẽ phản ánh chúng trong cấu trúc tổng quát của nó. Cái chúng ta làm, hoặc để lại không làm, sẽ góp phần của nó trong sự hình thành thế giới đó.
Con người được tự do nhưng nó cần phải sử dụng tự do của nó cho sự phát triển thích đáng hơn bản ngã của nó và cho sự nuôi dưỡng cảm giác ràng buộc lớn lao và phục vụ cộng đoàn cùng xứ sở của mình.
Quả thật chúng ta không thể tiên đoán một cách chính xác những gì sẽ triển khai. Lịch sử qua các hành động của con người, thí dụ Cuộc cách mạn Pháp 1789 hay Cuộc cách mạng Nga 1917, là một bảo đảm rằng luôn luôn có khả năng không thể thấy trước các hệ quả. Tuy thế, chúng ta có thể chắc chắn rằng phẩm tính riêng biệt được quyết định bởi các điều kiện mà từ chúng, phẩm tính xuất hiện và phản ánh chúng, khiến cho phẩm tính của sự đóng góp của mỗi người sẽ gây được tác động.
Mọi người đều bị xã hội điều kiện hóa nhưng mỗi người cũng là thành phần của xã hội. Và đó là nguồn của tự do, đồng thời cũng là sự thách đố của bạn. Kết hợp cải tạo xã hội với khái niệm hình thành thế giới ở trên, ta có thể triển khai khẩu hiệu "Nghĩ toàn cầu, làm bản địa" của phong trào hậu hiện đại bằng tác phong tiên tiến với tư duy mang tính đại thể của loài người vô phân biệt và hành động cụ thể ngay trong môi trường cá biệt của mình. Và như thế, chắc chắc tạo ta được sự khác biệt có tính tiến hóa hiển lộ.n
Nguyễn Ước
0 comments:
Post a Comment