Friday, August 9, 2013

Chuyên đề về Xã hội dân sự

LỜI GIỚI THIỆU

Xã Hội Dân Sự là gì? Câu hỏi này lại được các học giả về chính trị đặt ra trong hai thập niên vừa qua khi làn sóng dân chủ thứ ba tràn lên trong những thập niên cuối của thế kỷ 20. Sở dĩ các nhà nghiên cứu chính trị đặt vấn đề xã hội dân sự vì trong tất cả các nước chuyển hóa sang dân chủ đều luôn luôn có sự hiện diện của một "xã hội dân sự" sinh động. Từ đó xã hội dân sự trở thành một đề tài nghiên cứu để xem có tương quan "nhân quả" nào giữa các hoạt động của xã hội dân sự và tiến trình dân chủ hóa hay không. Trong chiều hướng đó, Học Viện Công Dân tuyển dịch các tài liệu, tiểu luận liên quan đến xã hội dân sự nhằm tạo cơ hội cho độc giả Việt Nam tiếp cận các tư tưởng, lý luận về xã hội dân sự của Tây phương, đồng thời cũng góp phần xây dựng cơ sở tài liệu cho lý luận và thực hành xây dựng xã hội dân sự tại Việt Nam.

Khái niệm xã hội dân sự đã được các triết gia về chính trị thuộc thời kỳ Khai Sáng ở Âu châu sử dụng, và khái niệm này đã theo thời gian mà thay đổi cho đến ngày hôm nay. Các tư tưởng gia như Hobbes, Locke, Rousseau dùng xã hội dân sự (civil society) để chỉ một trạng thái xã hội khi con người đã bắt đầu sống quần tụ với nhau, khác với trạng thái thiên nhiên (state of nature). Xã hội càng phát triển thì lại càng nẩy nở thêm nhiều sắc thái và bộ phận khác nhau; do đó, các nhà tư tưởng thuộc thế kỷ 19 và thế kỷ 20 như Hegel, Marx, Gramsci, Diamond, v.v... đều có những khái niệm không giống nhau, và không thể thống nhất về một định nghĩa cho xã hội dân sự. Tuy nhiên, các học giả thuộc thế kỷ 20 đều đồng ý trên mẫu số chung sau đây của xã hội dân sự. Đó là sự hiện hữu của một lãnh vực công nằm giữa nhà nước, thị trường, và cá nhân. Chính trong lãnh vực công này (public sphere) mà các công dân hoạt động "nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư tưởng, trao đổi thông tin, thực hiện các mục tiêu chung có tính chất hỗ tương, kiến nghị với nhà nước và buộc các viên chức nhà nước phải chịu trách nhiệm trong công vụ" (Diamond, 1994).

Theo Brian O'Connell, chủ tịch sáng lập của Independent Sector, lãnh vực công là miền hội tụ của 5 thành tố sau: Thành tố đầu tiên là các cá nhân, tiêu biểu cho quyền lợi riêng tư. Thành tố thứ hai là cộng đồng bao gồm gia đình, làng xóm, chùa chiền, các hội đoàn, vân vân; cộng đồng là nơi các cá nhân sinh hoạt và phát triển và cũng là nơi đại diện cho các quyền lợi tập thể. Cộng đồng chưa phải là xã hội dân sự; tuy nhiên cộng đồng và gia đình tạo nên một hệ thống giá trị căn bản về đạo lý và văn minh chung cần thiết cho đời sống của xã hội. Thành tố thứ ba là chính quyền. Thành tố này, thật đáng ngạc nhiên thay, lại thường bị bỏ sót trong các định nghĩa về xã hội dân sự. Chính quyền là một thành tố thiết yếu của xã hội nói chung và của xã hội dân sự nói riêng, vì chính quyền có thể giúp phát triển hay làm cản trở sự phát triển của xã hội dân sự. Thành tố thứ tư là sự tham gia tự nguyện; thành tố này chính là cốt lõi cho hoạt động của xã hội dân sự và thường hay bị lẫn lộn với xã hội dân sự. Thành tố cuối cùng là lãnh vực thương mại. Thành tố này có vẻ trái ngược với xã hội dân sự, vì chúng ta thường nghĩ đến các hoạt động vô vị lợi của các tổ chức thiện nguyện, trong khi nói đến thương mại là nói đến các hoạt động sinh lợi. Tuy vậy để có thể hoạt động được hữu hiệu mọi tổ chức thiện nguyện đều cần một số các phương tiện để hoạt động mà không tùy thuộc vào nhà nước, và từ đâu các tổ chức này có được phương tiện tài chính, nếu không từ lãnh vực thương mại? O'Connell nhận xét thêm: "Có rất nhiều công ty thương mại không có tí lương tâm xã hội gì cả, nhưng những công ty nào đã chấp nhận và chu toàn trách nhiệm xã hội đều có những đóng góp quý báu cho phẩm chất của cộng đồng và xã hội dân sự."[1]

Civicus, Liên hội Quốc tế Các Tổ chức Xã hội Dân sự, định nghĩa xã hội dân sự là lãnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường, nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm thăng tiến các lợi ích chung. [2] Như vậy các học giả cũng như các nhà hoạt động cho xã hội dân sự đều đồng ý về sự hiện hữu của một lãnh vực công và sự tham gia sinh hoạt của công dân nhằm thăng tiến lợi ích chung cho xã hội. Thành tố quan yếu nhất của xã hội dân sự, do đó, chính là mỗi công dân, ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với bản thân và xã hội, tự nguyện tham gia vào các sinh hoạt hầu giúp cho xã hội tốt đẹp hơn.

Hoạt động của các tổ chức thiện nguyện (NGO), hoạt động nổi bật nhất và thường bị đồng hóa với xã hội dân sự, giúp công dân quan tâm hơn đến các vấn nạn xã hội, giúp tăng cường và củng cố các kiến thức, đạo đức và kỹ năng sinh hoạt tập thể, và qua đó trở nên những người công dân có trách nhiệm và tích cực tham gia vào các hoạt động mang lại lợi ích cho tập thể.

Học Viện Công Dân, một lần nữa, ước mong những tài liệu được tuyển dịch về kiến thức và phương thức sinh hoạt hữu hiệu về xã hội dân sự sẽ góp phần xây dựng cơ sở tài liệu cho lý luận và thực hành xã hội dân sự tại Việt Nam. Mọi ý kiến, đóng góp xin liên lạc về info@icevn.org

Bản quyền của tất cả những tác phẩm, tài liệu được phiên dịch sang Việt ngữ và đăng tải trên website của Học Viện Công Dân thuộc Học Viện Công Dân. Mọi sử dụng, trích hoặc dùng lại tại nơi khác xin liên lạc với Học Viện và ghi rõ nguồn http://www.icevn.org

Ghi Chú

[1] Brian O'Connell, Civil Society - the Underpinnings of American Democracy, trang14-23. NH: Nhà Xuất bản Tuft University Press, 1999.

[2] CIVICUS, World Alliance for Citizen Participation gồm hơn 1000 tổ chức hội viên và cá nhân tại 110 nước trên thế giới. Định nghĩa này được sử dụng chính thức cho tài liệu nghiên cứu vê Chỉ số Xã hội Dân sự (CSI-Civil Society Index), trong đó Việt Nam là một trong 9 nước tham gia khảo sát. Website của CIVICUS tại www.civicus.org



''Xã hội dân sự không đối lập với nhà nước''

(VietNamNet) - ''Xã hội dân sự dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thoả thuận với nhau, không muốn nhà nước can thiệp chứ không phải đối lập với nhà nước''. TS. Nguyễn Ngọc Đào (ĐB Quốc hội Hà Nội) khẳng định như vậy với VietNamNet bên lề Quốc hội ngày 9/6 khi thảo luận dự án Luật về hội.

- Khái niệm xã hội dân sự được hiểu như thế nào, thưa ông?


- Một nhà nước hiện đại dứt khoát phải là pháp quyền, thứ hai phải chấp nhận kinh tế thị trường, thứ ba là xã hội dân sự.

Xã hội dân sự là một tập thể xã hội liên kết với nhau, điều chỉnh trên nguyên tắc dân sự, tự nguyện thoả thuận. Trước đây thế kỷ 17, nói xã hội dân sự là xã hội theo khế ước, tự thoả thuận với nhau sống trong một nhà nước. Ví dụ, quan hệ dân sự, quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân liên kết với nhau là xã hội dân sự. Cho nên người ta đưa khái niệm xã hội dân sự riêng, phân biệt với xã hội chính trị.

Xã hội dân sự trường tồn trước khi có nhà nước. Nhà nước ra đời để điều chỉnh xã hội dân sự, nếu điều chỉnh theo đúng quy luật của nó thì Nhà nước tốt. Nếu điều chỉnh sai thì là Nhà nước không đúng.

- Thành phần chủ yếu của xã hội dân sự có phải là những hiệp hội, hội?

- Xã hội dân sự được hiện hữu bằng những tổ chức xã hội. Tổ chức ấy có thể mang tính nghề nghiệp, mang tính xã hội do sở thích, do lợi ích cấu thành một nhóm, rộng hơn thành một giai tầng. Ví dụ, xã hội dân sự của một nước nông nghiệp chủ yếu liên kết nông dân, một xã hội công nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp và công nhân. Tức là hoàn toàn phụ thuộc vào đặc tính kinh tế của xã hội ấy để tạo nên mối liên kết.

Ở các nước phương Tây, xã hội dân sự rất sợ sự can thiệp từ phía nhà nước, bắt phải làm thế này, thế kia. Tức là can thiệp làm phá vỡ nguyên tắc tự thoả thuận của nó. Xã hội dân sự đấu tranh thường xuyên để nhà nước không can thiệp vào đời sống dân sự, bảo đảm cho xã hội dân sự.

- Ở VN, cụm từ ''xã hội dân sự'' được nhắc tới một cách dè dặt, nhạy cảm?

- Vì chúng ta không hiểu xã hội dân sự chứ không phải nó nguy hại trong nhận thức chính trị. Thực ra là do thói quen sống trong sự bao cấp của nhà nước, được nhà nước bảo vệ và ỷ lại nhà nước cho nên chậm nhận thức về xã hội dân sự và trách nhiệm của mình trong xã hội dân sự. Họ rất ngại bị tách rời nhà nước, hiểu xã hội dân sự là nhạy cảm.

Ví dụ, hội lập ra không cần nhà nước đài thọ, hội viên đóng góp cùng tự bảo vệ lợi ích của mình. Đấy là biểu hiện của xã hội dân sự.

- Xã hội dân sự có đối lập với nhà nước?

- Tự xã hội dân sự hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nhà nước quy định. Mục tiêu của nó là không muốn phụ thuộc vào nhà nước, sự can thiệp của nhà nước chứ không phải đối lập với nhà nước.

- Hiện nay VN đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội dân sự phát triển?

- Phải hiểu VN đang từng bước phát triển. Những khiếm khuyết về kinh tế, pháp luật, bất cập trong đời sống phản ánh giai đoạn phát triển quá độ. Cho nên để đòi hỏi một nhà nước pháp quyền đầy đủ, đúng nghĩa, đòi hỏi có kinh tế thị trường và xã hội dân sự thì chưa đủ điều kiện.

Vai trò của nhà nước còn rất lớn trong giai đoạn hiện nay. Cái hay là Đảng và Nhà nước đã cởi mở những quan hệ trước đây gọi là trói buộc để cho toàn bộ xã hội phát triển.

Sắp tới chúng ta sẽ có một nền kinh tế thị trường đích thực theo yêu cầu của hội nhập. Một xã hội dân sự đầy đủ hơn nếu chúng ta thông qua Luật về hội, Luật cư trú...

Mục tiêu của Đảng và Nhà nước chắc chắn không muốn hành chính hoá và chính trị hoá các tổ chức dân sự, tổ chức xã hội. Nhưng giai đoạn hiện nay, dứt khoát Nhà nước phải có vai trò quan trọng định hướng cho các tổ chức này, giữ ổn định và phát triển.


- Một số đại biểu Quốc hội khi góp ý cho dự án Luật về hội có nói thủ tục thành lập hội còn rườm rà, ảnh hưởng đến quyền lập hội của công dân?

- Ở nước ngoài, thành lập hội cũng phải được sự đồng ý của nhà nước. Đừng hiểu nhà nước của ai đó mà chính của cộng đồng xã hội quy định cho. Đó là quyền lực công. Nhà nước bảo vệ các hội chứ không phải cấm các hội.

Ghi nhận quyền lập hội nhưng lập như thế nào phải đáp ứng mục tiêu chung của xã hội.

- Nhưng để thành lập hội, dự luật quy định phải qua rất nhiều bước và Nhà nước kiểm duyệt chặt chẽ?

- Những quy định đấy mang tính kỹ thuật và không ẩn chứa bất cứ tư duy nào là cấm thành lập hội. Chính sửa những quy định mang tính kỹ thuật thì đơn giản. Ví dụ sáng lập viên có thể 2-3 người chứ không phải 5 như dự thảo quy định.

Còn thành lập hội phải có giấy phép, điều lệ hội phải được phê duyệt. Một tổ chức là hội, nếu không giám sát và kiềm chế hoạt động thì nó có thể biến tướng rất nhanh. Biến tướng thành một tổ chức chính trị, một đảng chính trị đối lập ngay và dễ bị lợi dụng.



ĐB Vũ Xuân Hồng (Phú Thọ): ''Xã hội dân sự là xu thế khách quan của thế giới''

''Trong phạm vi quốc tế hiện nay, sự phát triển và phát huy vai trò ngày càng lớn của các hình thức tổ chức tự nguyện và tự quản phi vụ lợi, ở phương tây gọi là xã hội dân sự. Đó là xu thế khách quan trên thế giới, thể hiện quá trình dân chủ hóa với sự tham gia ngày càng trực tiếp, rộng rãi của quần chúng nhân dân trong đời sống chính trị và xã hội của các quốc gia.

Các tổ chức xã hội dân sự đóng vai trò tư vấn chính sách, phản biện xã hội, tổ chức các công việc công ích để đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng xã hội mà Nhà nước và thị trường không đủ khả năng đảm nhận. Nhiều tổ chức được giao thực hiện một số nhiệm vụ, chức năng vẫn thuộc về các cơ quan công quyền. Một số hội trở thành đối tác ổn định của các cơ quan nhà nước.

Với chức năng đó thì xã hội dân sự theo cách hiểu của phương tây đã phát huy được vai trò tích cực tại nhiều quốc gia, nhất là ở các nước phát triển. Tại các nước này thì các hội được thành lập, nhà nước quản lý chủ yếu ở khâu đăng ký tư cách pháp nhân và giám sát chi tiêu tài chính của các hội và có một luật khung cho tất cả các hội''.
(Trích góp ý của ĐB Vũ Xuân Hồng (Phú Thọ) cho dự án Luật về hội tại Quốc hội ngày 9/6)


Nguồn: http://vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/06/580015/

 Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự

GS. Tương Lai - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

Khát vọng về dân chủ và công bằng vốn nung nấu từ lâu trong lịch sử loài người. Có dân chủ mới thực hiện được công bằng, đồng thời công bằng là thước đo của dân chủ và tiến bộ xã hội. Điểm quy chiếu để kiểm nhận về công bằng và dân chủ mà một xã hội đạt được thường tìm thấy dễ dàng trong pháp luật. Cũng qua sự hiểu biết của người dân về pháp luật và việc thực hiện pháp luật, người ta có thể kiểm định về trình độ văn minh của một xã hội. Khi chúng ta đang phấn đấu cho một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì cần phải tường minh về những vấn đề đó.

Nói đó là khát vọng đã nung nấu từ lâu vì những hưng vong, thành bại của mọi triều đại, mọi thể chế trải qua mọi cuộc "tranh bá, đồ vương" đều có thể tìm dấu ấn của tư duy loài người xoay quanh chuyện này. Xin được dẫn dắt bài báo Tết này bằng chuyện bên Tàu.

Quản Trọng, người đã làm cho nước Tề thành "bá" từ sáu thế kỷ trước công nguyên đã từng khẳng định: "Pháp [luật] là cái quy tắc của thiên hạ… Quan sai khiến dân mà có pháp [luật] thì dân theo, không có pháp [luật] thì dân dừng lại. Dân lấy pháp [luật] chống nhau với quan. Người dưới lấy pháp [luật] phục vụ người trên, cho nên bọn dối trá không thể lừa chủ, bọn ghen ghét không thể có cái bụng kẻ giặc, bọn xu nịnh không thể khoe cái khéo, ngoài ngàn dặm không dám làm điều trái" (Quản Tử. Quyển 21). Chính vì lẽ đó mà phái pháp gia bị phái nho gia vốn chủ trương "đức tri" "nhân tri"chống lại kịch liệt. Khổng Tử nói: "sở dĩ dân có thể tôn quý người sang, người sang nhờ thế giữ gìn được cơ nghiệp mình. Người sang người hèn không lẫn lộn, cái đó gọi là pháp độ… Nay bỏ pháp độ này mà làm cái vạc ghi pháp luật, thì dân chỉ biết cái vạc lấy gì để tôn quý (người sang) ? Người sang còn có cơ nghiệp nào để giữ Người sang kẻ hèn không có trên dưới, lấy gì để làm thành nước?" (Tả truyện. Quyển 26).

Thì ra, ẩn đằng sau những lập luận của ngôn từ là cái lợi ích cụ thể, là "cái ghế" của người đang nắm quyền lực! Nhân trị, đức trị hay "pháp độ" thực chất là công cụ của kẻ đang nắm được quyền lực muốn duy trì hiện trạng của sự bất công, phân biệt kẻ sang, người hèn, bắt "người hèn" sợ uy lực và khuất phúc "kẻ sang". Vì thế phải dùng cái "nhân” , cái "đức” của người cẩm quyền để giáo hoá và trị dân, bằng sự áp đặt ý chí của kẻ có quyền buộc thần dân phải tuân theo, không thể dùng pháp luật vì sợ dân có thể dùng ngay pháp luật để chống lại mình.

"Nhân tri', " đức tri" chẳng qua là sự tuỳ tiện của người có quyền. May mắn mà người cầm quyền có "đức", có "nhân" thì dân được nhờ. Vô phúc vớ được kẻ hôn quân, tên bạo chúa thì dân đành chịu vậy. Mà trò đời, đã nắm được quyền thì muốn giữ riệt lấy quyền ấy, mấy ai mà chịu "từ chức", “nhường ngôi”! ấy thế nhưng, nhìn lại lịch sử của đất nước từng là quê hương của "pháp gia" hay "nho gia" ấy, người ta nghiệm ra rằng, trong các cuộc "tranh bá, đồ vương”, những nước cố giữ lấy "pháp độ" thì sớm suy vong còn những nước chịu theo “pháp tri" thì hùng cường lên để có thể thôn tính các nước khác!

Cũng trên quê hương của những "pháp gia” và "nho gia" ấy, lịch sử dường như lặp lại. Người ta bắt gặp những vấn đề mà loài người đã từng biết đến từ rất lâu song đã bị chìm đi trong một mớ hỗn độn những giáo điều mới một thời thống trị đời sống tinh thần xã hội nay đang được xáo xới lại một cách quyết liệt. Người ta dám mạnh dạn lật lại vấn đề, không câu nệ và dứt khoát vứt bỏ những ràng buộc của những công thức đã từng kìm hãm sự phát triển, trở lại với những thành tựu đánh dấu những cột mốc của nền văn minh mà loài người đã tạo ra. Có thể nói, đó là một đột phá về lý luận để mở đường cho đất nước này "tiến cùng thời đại'?

Giờ đây, người ta đang đặt lại vấn đề về pháp trị hay nhân trị, đức trị. Vấn đề mà hơn hai nghìn ba trăm năm về trước, Hàn Phi - nhà tư tưởng cổ đại của họ đã từng nêu lên: "Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai, thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật" (Hàn Phi Tử. Quyển 2. Thiên VI) Chúng ta cứ ngỡ như nhà tư tưởng cổ đại đó nói với người đương thời của xã hội Trung Quốc trong thế kỷ XXI !

Dùng pháp luật theo Hàn Phi Tử: “… điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật"

Mà quả như vậy, chẳng là vừa rồi, ông Hồ Cẩm Đào đưa ra thông điệp: "Khi làm việc phải theo Hiến pháp, mục đích của việc đó là đem lại cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân"1 để khẳng định lại quan điểm về "thúc đẩy” việc chế độ hoá, quy phạm hoá và trình tự hoá nền dân chủ XHCN, bảo đảm cho nhân dân làm chủ, quán triệt phương châm cơ bản dựa vào pháp luật để quản lý đất nước, nâng cao trình độ cầm quyền theo pháp luật. Thoạt nghe cứ tưởng, dường như ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa khẳng định lại luận điểm "thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật" mà nhà tư tưởng của thời Xuân Thu Chiến Quốc ở nước ông đã từng nêu!

Chỉ có điều, Hàn Phi vốn là người dám nhìn thẳng vào sự thật với tất cả sự tàn nhẫn của nó, ông ta biết chắc rằng nói ra để chết chứ không phải để sống! Mà quả vậy, Tần Thuỷ Hoàng đọc tác phẩm của Hàn Phi đã nói: "Ta được làm bạn với con người này thì có chết cũng không uổng”, nhưng rồi chính Hàn Phi bị bức phải uống thuộc độc để chết trong ngục của nước Tần. Chính Hàn Phi đã thổ lộ tâm sự đó trong "Nỗi phẫn uất của con người cô độc" để phân tích rõ về cái kết cục tất yếu mà mình phải hứng chịu vì "Kẻ sĩ biết đề cao pháp luật và thuật trí nước nắm lấy cái thế có năm cái thua: ở xa và không thân nhà vua, mới đến, nói trái ý nhà vua, bị coi khinh, đơn độc “? Vì thế, "những kẻ sĩ có trí và có thuật biết đề cao pháp luật và những bọn hiện đang cầm quyền là những kẻ thù của nhau không thể cùng chung sống. Khi những bọn cầm quyền nắm lấy việc thì bên ngoài cũng như bên trong chỉ lo mưu lợi riêng mà thôi… những kẻ soi sáng pháp luật làm trái ý nhà vua nếu không bị quan lại giết ắt cũng bị thanh kiếm riêng giết vậy" (Hàn Phi Tử. Quyển IV Thiên XI: Cô phẫn).

Đừng quên rằng thời kỳ chống "hữu phái" và "đại cách mạng văn hoá vô sản" diễn ra trên quê hương của nhà tư tưởng cổ đại hơn 2000 năm sau đã có đến hơn 550.000 "kẻ sĩ” các loại bị bắt và đưa đi đày! Thế thì chẳng phải là lịch sử đã lặp lại đó sao? Mà lặp lại trong cái bối cảnh văn minh, hiện đại hơn và cũng tàn nhẫn, thảm khốc hơn đó sao?

Nói đúng ra, biện chứng của lịch sử đã đẩy tới những sự trùng lặp của sự kiện ở cùng một toạ độ song nằm trên một vòng xoáy trôn ốc mới của sự vận động lịch sử. Với bài học kinh nghiệm phải trả bằng cái giá của hàng chục triệu sinh mạng, trong đó không hiếm những "khai quốc công thần”, những anh hùng của cuộc vạn lý trướng chinh, những trí thức, danh nhân tầm cỡ mà những hậu duệ của Quản Trọng, Hàn Phi, Khổng Tử… đang dấn thân vào sự nghiệp cải cách, mở cửa trong công cuộc "xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc” . Phải chăng cũng từ bài học mà học phí phải trả bằng máu, và bằng cái màu sắc Trung Quốc rất linh hoạt và khôn ngoan đó, mà ngày nay, trên quê hương của cụ Khổng, người ta đã thật sòng phẳng khi dám nói ra cái điều vốn bị xem là cấm kỵ: "Thống nhất tư tưởng của toàn dân vào tư tưởng của một người là điều bi thảm”. Cách mạng văn hoá là một minh chứng lịch sử cay đắng của Trung Quốc. Một người sai, cả đất nước bị đe doạ. Do đó, cần đa nguyên về tư tưởng”2.

Chính từ bài học xương máu thảm khốc đó mà Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra Nghị quyết phải thực hiện "chế độ hoá và quy phạm hoá”? Vì thế phải thông qua việc sửa đổi Hiến pháp cũng như việc định ra luật pháp mà ổn định và phát triển. "Điều này cho phép giảm bớt uy quyền của cá nhân, đề cao uy quyền của chế độ và luật pháp, chuyển dần từ chế độ nhân tri sang chế độ pháp trị”3. Giờ đây, người ta đang cố gắng xây dựng một nhà nước pháp quyền gắn liền với xã hội dân sự, việc mà chúng ta cũng đang cố gắng làm. Chỉ có điều, chúng ta nói nhiều về nhà nước pháp quyền nhưng lại có phần nào còn e dè về xã hội dân sự, ấy vậy mà, xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền gắn với nhau như bóng với hình. Hơn nữa, cái ý tưởng về "xã hội dân sự” vốn đã được ấp ủ từ lâu, rất lâu trong khát vọng của con người! Trong lịch sử loài người, quyền con người và quyền công dân là những vấn đề có ý nghĩa bức xúc về thực tiễn cũng như về lý luận, vì, như J.J Rosseau, nhà tư tưởng của thế kỷ khai sáng đã nói: "Con người sinh ra đã là tự do, vậy mà ở khắp mọi nơi con người lại bị cùm kẹp?” Từ khi cuốn "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, trong tư duy của loài người, quyền lực dường như vô hạn của vua, chúa đã bị hạ bệ với việc khẳng định quyền của dân, quyền phải xuất phát từ dân, nhà nước được xem như là người ký hợp đồng với quốc dân.

Ấy thế nhưng, nhìn trong toàn bộ lịch sử của loài người, "Nhà nước chứa một dấu ngoặc đơn của lịch sử” như tên gọi của một cuốn sách xuất bản vào cuối thế kỷ XX. Vì rằng, xã hội loài người đã trải qua hàng triệu năm, song Nhà nước thì mới xuất hiện chỉ có 6000 năm, và rồi như tiên đoán của C.Mác, với tiến trình lịch sử, nhà nước rồi sẽ tiêu vong còn xã hội loài người sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển!

Học thuyết về Nhà nước pháp quyền ra đời từ thế kỷ XIX với một quá trình thăng trầm, thậm chí có lúc bị quên lãng trong một thời gian dài. Ở những nước theo CNXH, người ta không nói đến nhà nước pháp quyền mà chỉ nói đến nhà nước chuyên chính vô sản, cho đến 1988, với "Perestroika”, ở Liên Xô mới bắt đầu nói đến khái niệm "Nhà nước pháp quyền XHCN" mà ngày nay chúng ta đang dùng! Để giúp xác định tính chất của Nhà nước pháp quyền XHCN này do dân làm chủ, người ta thêm vào cụm từ "của dân, do dân và vì dân”4.

Vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước. Trong Nhà nước của pháp quyền đó, phải được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập" để kiểm tra nhau, cơ quan nhà nước và công chức chỉ làm được những điều luật pháp cho phép còn dân thì được phép làm tất cả những điều gì mà luật pháp không cấm, và để đảm bảo dân uỷ quyền mà không mất quyền thì công việc của nhà nước và các cơ quan công quyền phải công khai và minh bạch trước dân, dân có quyền tham gia vào việc hoạch định pháp luật, giám sát và kiểm soát…

Thoạt đầu, ý tưởng về "xã hội dân sự “ và "xã hội công dân" gần như đồng nhất, nhưng dần dần hai khái niệm ấy tách khỏi nhau vì trong tiến trình phát triển, người ta ngày càng thấy rõ là người công dân đồng thời cũng là con người với tất cả những đặc tính phong phú của nó. Cho nên, không thể quy toàn bộ tính phong phú ấy vào trong khái niệm "công dân”?

Xã hội dân sự là đối tác bình đẳng của nhà nước chứ không phải là cái đuôi của Nhà nước, về thực chất là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện chính sách và giám sát nhà nước, thực hiện phản biện xã hội đối với Nhà nước, kể cả đối với phẩm chất và hành vi của viên chức Nhà nước.

Cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hoá, xã hội… vai trò của cá nhân ngày càng được nổi bật, ngày càng được tôn trọng. Theo đó, vai trò của xã hội dân sự càng được xác lập, đặc biệt là từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở đi. Xã hội dân sự nổi bật lên với nhiều tác dụng nhưng tóm tắt lại, điều quan trọng nhất cần hiểu rõ, thì đó chính là đối tác bình đẳng của Nhà nước không phải là cái đuôi của Nhà nước. Nó giữ vai trò là đối quyền của quyền lực Nhà nước mà về thực chất là tạo điều kiện để người dân thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và giám sát các chủ trương và chính sách của Nhà nước, thực hiện trách nhiệm phản biện xã hội đối Nhà nước, kể cả phẩm chất và hành vi của viên chức Nhà nước. Chỉ riêng với nét tóm tắt ấy cũng thấy là, để thực hiện vai trò làm chủ của người dân, thì tổ chức tốt xã hội dân sự sẽ là một đảm bảo quan trọng và thiết thực cho hoạt động ấy. Khi mà chúng ta đang chứng kiến nhiều tổ chức, đoàn thể quần chúng đã không phát huy được vai trò vì gần như bị "Nhà nước hoá" tất cả thì đã đến lúc vấn đề "xã hội dân sự”, một đặc điểm của xã hội hiện đại và văn minh, cần được đặt ra một cách nghiêm túc cùng với việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trước mắt, công việc này chắc sẽ có tác dụng trực tiếp và lâu dài đến việc việc chống "quốc nạn" tham nhũng đang là bức xúc của mọi người dân.

Xã hội công bằng, dân chủ và văn minh mà chúng ta đang hướng tới cần phải xây dựng trên nền tảng vững vàng của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.

1. Chính sách phát triển kinh tế, Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, Nxb Giao thông vận tải. 2004. Tập II.

2. Chính sách phát triển kinh tế, Kinh nghiệm bài học của Trung Quốc, Sđđ. tr. 235.

3. Sđd, tr. 256.

4. Câu này vốn là ý tưởng của A.Lincoln, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ, nằm trong diễn văn của ông đọc tại Gettysburg năm 1983.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

 PHẠM THỊ NGỌC TRẦM (*)

Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là hai yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng mà mối quan hệ biện chứng giữa chúng là cơ sở tồn tại của một hình thái kinh tế - xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc chủ động xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vượt trước so với xã hội dân sự là cần thiết và hợp quy luật. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp. Để phát huy tác động tích cực, thuận chiều phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc xây dựng xã hội dân sự, chúng ta cần chủ động tiến hành nhiệm vụ giáo dục cho người dân hiểu, nắm vững và tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, thông qua quá trình công khai hóa và dân chủ hóa đời sống xã hội.

1. Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là những đổi mới trong hai lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội là kinh tế và chính trị, đất nước ta đã có những đổi thay căn bản theo hướng tiến bộ.

Trong lĩnh vực kinh tế, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực chính trị, ngay từ năm 1994 - 1995, Đảng ta đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Với những đổi mới này, Việt Nam đang bước vào một thời kỳ phát triển mới về chất, chủ động và tích cực hội nhập vào sự phát triển chung của thế giới ngày nay.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta hiện đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp, nan giải và cả những thách thức mới đặt ra trong quá trình phát triển. Một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta, như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định, là “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng... Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”(1).

Trên thực tế, nạn móc ngoặc, hối lộ, lãng phí, tham ô, buôn lậu, kỷ cương xã hội bị buông lỏng và nhiều tệ nạn xã hội khác đang có chiều hướng gia tăng. Vậy, nguyên nhân của thực trạng này là gì? Có thể khẳng định rằng, thực trạng đó bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung phân tích một trong những nguyên nhân, đó là vấn đề về mối quan hệ giữa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân ở nước ta hiện nay.

Theo quan điểm của triết học mácxít, mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền thực chất là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, còn ở tầm bao quát hơn là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng, tức toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hợp thành cơ cấu của xã hội đó, với kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, cùng những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng, khi “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ đó cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(2).

Nếu xét mối quan hệ giữa xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền theo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình phát triển của xã hội thì có thể có ba khả năng xảy ra.

Một là, với tư cách yếu tố quyết định, xã hội dân sự phải được hình thành và phát triển trước, sau đó mới xây dựng nhà nước pháp quyền – đó là trường hợp đã từng xảy ra ở các nước tư bản chủ nghĩa trước đây.

Hai là, xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền cùng tồn tại và phát triển song song với nhau, chúng phụ thuộc và quy định lẫn nhau, như trường hợp đang diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển. Ba là, với tư cách yếu tố phụ thuộc, nhưng lại có tính độc lập tương đối, nhà nước pháp quyền có thể phát triển vượt trước so với xã hội dân sự.

Trong trường hợp này, nếu có, cũng chỉ xảy ra tại những nước mà ở đó đã có những tiền đề cơ bản về cơ cấu kinh tế (nền kinh tế thị trường) và đã hình thành cơ sở của một nền dân chủ trong xã hội. Tuy nhiên, sự vượt trước này không thể có khoảng cách quá xa so với sự phát triển của xã hội dân sự.

Trường hợp thứ ba nói trên đây đang diễn ra ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Với trường hợp này, cả trong việc xây dựng xã hội dân sự lẫn trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, vấn đề luật pháp, đặc biệt là vấn đề dân chủ và công khai trong xã hội đều phải được đặt lên vị trí hàng đầu, mối quan hệ giữa chúng phải hài hoà trong suốt quá trình phát triển. Như vậy, cùng với quá trình hình thành, phát triển nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là quá trình không ngừng nâng cao ý thức pháp luật và thực thi pháp luật; ý thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, đạt đến điều đó là vô cùng khó khăn và phức tạp. Song, đó là con đường tất yếu.

2. Ngày nay, đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử, phù hợp với tiến trình lịch sử xây dựng và phát triển Nhà nước ta; đồng thời, cũng đáp ứng được xu thế phát triển mới của thời đại.

Vấn đề xây dựng và phát triển Nhà nước của dân, do dân và vì dân - một Nhà nước dân chủ kiểu mới và một nền dân chủ kiểu mới - đã được hình thành từ rất sớm trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và về xã hội. Người đã từng khẳng định:
PHP Code:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…

Chính quyền từ xã đến [HREF=http://luathoc.cafeluat.com/showthread.php/63267-bai-6-chinh-phu]Chính phủ[/HREF] trung ương do dân cử ra...

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân..”(3).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong một Nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Vì vậy, xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta tiếp tục phát triển với việc khẳng định chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật”(4). Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định rằng, cần phải “tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”(5). Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không những tiếp tục được khẳng định, mà còn tiến thêm một bước mới là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”(6) (tác giả nhấn mạnh).

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chỉ rõ, nhà nước được hình thành và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, tức là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Các kiểu nhà nước khác nhau đều dựa trên cơ cấu kinh tế của xã hội ở những trình độ phát triển khác nhau. Nhà nước pháp quyền phải được hình thành, phát triển trên nền tảng cơ cấu kinh tế thị trường và xã hội dân sự, tức là dựa trên “những quan hệ kinh tế” (C.Mác) mà cụ thể là các mối quan hệ kinh tế thị trường. Theo C.Mác, xã hội dân sự không phải do nhà nước tạo lập và quy định, mà trái lại, nhà nước được tạo lập và quy định bởi xã hội dân sự(7).

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là sự vận dụng, thực hiện nguyên tắc về “tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng”, cụ thể là sử dụng tính vượt trước của kiến trúc thượng tầng trong quan hệ với cơ sở hạ tầng. Bởi lẽ, cho đến nay, nước ta chưa có đủ điều kiện để xây dựng và cũng chưa có chủ trương xây dựng xã hội dân sự. Mặc dù các mối quan hệ kinh tế thị trường là cốt lõi của xã hội dân sự, nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ mới bắt đầu được xây dựng, chứ chưa phải là nền kinh tế thị trường đã phát triển. Việc Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vượt trước so với xã hội dân sự là điều hợp quy luật và cần thiết trong điều kiện hiện nay.

Tuy nhiên, nhiệm vụ đó cũng đang gặp phải không ít khó khăn, phức tạp và nan giải, mà các tệ nạn đã nêu ở trên là một trong những minh chứng cụ thể.

Về nguyên tắc, nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Bản chất của nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng xã hội, phục tùng các công dân. Để làm được điều này, nhiệm vụ đầu tiên của nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm các quyền và sự tự do của công dân bằng pháp luật và sự tự do ở đây phải được hiểu là “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và Ph.Ăngghen).

Pháp luật, một mặt, phải bảo đảm các quyền tự nhiên và các quyền chính trị của con người, như quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực của nhà nước, quyền kiểm tra, kiểm soát, giám sát công việc của các cơ quan quyền lực nhà nước, cũng như quyền bãi nhiệm các cơ quan đó, v.v.. Mặt khác, pháp luật phải thực sự có hiệu lực, phải xác định rõ trách nhiệm tuân thủ và thực hiện pháp luật của mọi công dân, không trừ bất kỳ ai. Như vậy, pháp luật vừa quy định quyền, vừa quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền, cũng như việc thực hiện pháp luật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Nhà nước dân chủ kiểu mới ở Việt Nam - đã hết sức quan tâm đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân. Người viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để Chính phủ làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân”(8) và thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải lo “làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(9).

Theo Hồ Chí Minh, khi người dân “dám nói, dám làm”, có tinh thần phê bình người lãnh đạo cũng có nghĩa là dân đã biết sử dụng, phát huy quyền làm chủ của mình và lúc đó, xã hội đã đạt đến mức dân chủ hóa khá cao. Xã hội đạt đến mức dân chủ hóa khá cao mà Hồ Chí Minh nói đến ở đây chính là xã hội dân sự.

3. Xã hội dân sự và dân chủ hóa là hai mặt không thể tách rời của một quá trình. Xã hội dân sự là cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế - xã hội để bảo đảm thực hiện dân chủ hóa; dân chủ hóa càng được bảo đảm thì xã hội dân sự càng vững mạnh.

Vì, nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở dân chủ, theo những nguyên tắc dân chủ, nên nó không thể là một cái gì khác, mà chính là một bộ phận hữu cơ của xã hội dân sự. Chỉ có trong xã hội dân sự, mỗi công dân mới ý thức được một cách đầy đủ chủ quyền của mình, mới ý thức được một cách rõ ràng sự bình đẳng về mặt pháp luật giữa các cá nhân trong cộng đồng; đồng thời, có khả năng tự khẳng định “cái Tôi” của nhân cách để làm chủ bản thân mình. Nói cách khác, khi đó, mỗi người mới nhận thức được đầy đủ sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhà nước, đối với xã hội và đối với bản thân mình. Do vậy, việc xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay không thể không gắn liền với việc xây dựng và phát triển xã hội dân chủ – nền tảng của xã hội dân sự.

Ở nước ta, xã hội dân sự chỉ mới ở giai đoạn hình thành, hiểu theo nghĩa là chúng ta đã bắt đầu xây dựng nền kinh tế hàng hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng xã hội dân sự hầu như chưa được đặt ra một cách chính thức. Trong các yếu tố tạo thành xã hội dân sự, các quan hệ kinh tế thị trường giữ vai trò nền tảng và quan trọng nhất. Thị trường không chỉ làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực kinh tế, mà còn làm thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa người với người trong các lĩnh vực khác của xã hội. Khi thị trường đã được phát triển đúng tầm cỡ, một mặt, nó mở rộng các mối quan hệ giữa người với người vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của các cộng đồng dân cư nhỏ bé, khép kín trong một phạm vi nhất định (làng, xã, địa phương) để vươn ra tầm quốc gia, quốc tế; mặt khác, các mối quan hệ rộng mở giữa người với người còn được bảo đảm bởi các quy luật, các nguyên tắc chặt chẽ, khắt khe của cơ chế thị trường, nhờ đó thị trường điều tiết được các mối quan hệ lợi ích trong xã hội, trước hết là lợi ích kinh tế.

Bằng cơ chế lợi ích, thị trường buộc tất cả các bên đối tác tham gia vào nó phải có các “khế ước xã hội” song phương hoặc đa phương, dựa trên tinh thần tự nguyện, tự giác, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải, tự ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với người khác. Từ đó, thị trường tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội; đồng thời, cũng tạo điều kiện để mỗi người dân nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân của mình đối với nhà nước. Đó là một trong những cơ sở quan trọng nhất để bài trừ các tệ nạn quan liêu, móc ngoặc, hối lộ, tham nhũng...

4. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền phải dựa trên nền tảng xã hội dân sự và theo nguyên tắc dân chủ - đó là một quy luật của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, xét trong tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, không thể chờ có xã hội dân sự rồi mới xây dựng nhà nước pháp quyền. Việc tiến hành đồng thời cả hai quá trình: xây dựng xã hội dân sự mà cốt lõi của nó là các quan hệ kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền là hoàn toàn hợp lý và hợp quy luật. Song, điều kiện nước ta hiện nay chưa cho phép làm được điều đó.

Lực cản lớn nhất khiến không thể đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay là ở chỗ, chúng ta chưa có một nền kinh tế thị trường phát triển. Nền kinh tế thị trường Việt Nam mới bắt đầu được xây dựng cách đây khoảng 20 năm, còn quá ít thời gian để thử thách và trưởng thành. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng ta chưa có được những điều kiện khách quan cơ bản nhất là các quan hệ kinh tế thị trường đã phát triển để thực thi dân chủ hóa đời sống xã hội - một trong những nội dung quan trọng nhất của xã hội dân sự.

Xuất phát từ một xã hội truyền thống phong kiến tập quyền phương Đông với nền kinh tế tự cấp, tự túc, “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, với tâm lý “phép vua thua lệ làng”, “ta về ta tắm ao ta. Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn”..., con người Việt Nam không dễ dàng tiếp cận với một xã hội được dân chủ hóa - xã hội có các quan hệ kinh tế thị trường đã phát triển cao, mà cần phải có một thời gian nhất định và thích ứng với một nhà nước thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật trên cơ sở dân chủ. Người dân chưa có đủ cơ sở vật chất và trình độ hiểu biết để có thể tự ý thức về quyền cá nhân của mình, cũng như sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các cá nhân trong cộng đồng xã hội; chưa thể khẳng định được “cái Tôi” của nhân cách, và đặc biệt là chưa tự ý thức được về sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đối với xã hội và đối với nhà nước.

Trong nhiều trường hợp, người dân chủ yếu chỉ mới quan tâm đến quyền lợi thiết thực trước mắt, đặc biệt là những quyền lợi (lợi ích) kinh tế; thậm chí, họ còn tìm mọi cách để lách luật, phá luật nhằm đạt bằng được lợi ích cá nhân của mình. Đối với những quyền lợi về chính trị, như quyền ứng cử, bầu cử người vào các cơ quan quyền lực nhà nước, quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan đó… hiện nay, trong nhân dân có hai thái cực nổi bật: một là, tìm mọi cách để đạt cho bằng được với những động cơ khác nhau và hai là, không thật sự quan tâm, thậm chí còn thờ ơ, vô trách nhiệm. Thực chất, những quyền chính trị này cũng đồng thời là nghĩa vụ của công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền.

Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm việc trong các cơ quan công quyền - nơi nắm giữ nhiều quyền hành và cũng có nhiều bổng lộc nhất, - hoặc là quan liêu, hoặc là lợi dụng chức quyền để “đục nước béo cò”, gây nên những thiệt hại lớn cho xã hội, cho nhà nước cả về vật chất lẫn tinh thần. Nạn tham nhũng ngày càng phổ biến và đang trở thành quốc nạn, các tệ nạn khác, như quan liêu, sách nhiễu dân, tham ô, lãng phí, bài bạc, buôn lậu, móc ngoặc, hối lộ, v.v., không những không được giải quyết triệt để, mà trái lại, đang có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây đã mang lại những hậu quả lớn không sao kể xiết. Những tệ nạn đó kéo dài, chậm được giải quyết, một phần quan trọng là do các cơ quan quyền lực của Nhà nước ta, từ các cơ quan lập pháp, hành pháp đến tư pháp hoạt động không đồng bộ, nhất quán và kém hiệu quả, phần khác là do người dân chưa ý thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Những tệ nạn đó đang gặm nhấm dần những thành quả mà nhân dân ta đã đạt được trong nhiều năm qua, làm sa sút lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước.

Như vậy, việc người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân của mình có nguyên nhân sâu xa từ sự không đồng bộ của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng xã hội dân sự. Việc vượt trước của Nhà nước pháp quyền với tư cách là một yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng - cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cái cốt lõi của xã hội dân sự, là hoàn toàn có thể và cần thiết. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, sự vượt trước đó không thể quá xa. Bài học về sự nôn nóng duy ý chí trong việc phát triển quan hệ sản xuất vượt trước quá xa so với lực lượng sản xuất mà Đại hội VI của Đảng đã thừa nhận, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những tệ nạn đang hoành hành cùng với bài học kinh nghiệm xương máu của “sự vượt trước quá xa” đó là lời cảnh báo cho việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với xây dựng xã hội dân sự ở nước ta hiện nay.

5. Có thể nói, cầu nối giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự chính là việc giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân, là việc thực thi pháp luật, thực hiện quyền dân chủ và công khai trong xã hội. Bởi vì, chỉ khi nào người dân tự ý thức được quyền cũng như nghĩa vụ công dân của mình thì lúc đó dân chủ hóa mới được thực thi trong xã hội và xã hội mới thực sự trở thành xã hội dân sự.

Điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta mới bắt đầu xây dựng. Trong điều kiện xã hội dân sự chưa hình thành và phát triển như ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ giáo dục cho người dân hiểu và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ công dân của họ chủ yếu thuộc về Nhà nước và các đoàn thể xã hội. Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc nâng cao sự hiểu biết, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân, giúp và tạo điều kiện cho họ rèn luyện thói quen sống, làm việc theo pháp luật; đồng thời, giúp họ tự ý thức được các quyền cá nhân nói riêng, dân chủ nói chung, làm cho họ tự giác và chủ động tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là đời sống chính trị của đất nước, v.v..

“Dân chủ hóa” luôn gắn liền với “công khai hóa”. Do vậy, để thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, cần phải tiến hành công khai hóa hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là về mặt tài chính và cơ chế hoạt động.

Nhà nước cần tổ chức một hệ thống truyền thông đại chúng đa dạng, chính xác, rộng rãi, cập nhật và có định hướng để giúp cho người dân nắm bắt được một cách đúng đắn và kịp thời những thông tin cần thiết, nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và dân được hưởng. Có như vậy, người dân mới có cơ sở để thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình đối với Nhà nước, đối với xã hội.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học trong Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam..

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.76.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.15.

(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.698.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1995, tr.25.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Sđd., tr.45.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sđd., tr.131 - 132.

(7) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.315 - 316.

(8) Hồ Chí Minh. Nhà nước và pháp luật. Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr.275.

(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.223.

Nguồn: vientriethoc..com..vn



 GS. VS. Đào Thế Tuấn - người vừa nhận Huân chương của Chính phủ Pháp – cho rằng nông thôn, nông nghiệp Việt Nam kém phát triển hoàn toàn là do cơ chế và đường lối lãnh đạo. Đó là hậu quả của việc bóc lột nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp.
"Phát triển nông nghiệp: Không làm là chết, vậy thôi"
- Thông thường nhà nghiên cứu ở lĩnh vực nào cũng thấy lĩnh vực của mình là quan trọng sống còn. Chắc ông cũng cho rằng nông nghiệp đang đóng vai trò quan trọng sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam. Theo ông thì trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, tại sao lại cần phát triển nông nghiệp?

- Tôi không đồng ý với cách nói “phát triển nông nghiệp vì chúng ta có lợi thế về nông nghiệp”, “vì chúng ta có điều kiện phát triển nông nghiệp”.

Nông nghiệp là ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm, không là chết, vậy thôi.

Người ta đã tính rằng đến năm 2050, thế giới cần lương thực gấp đôi hiện nay, đến cuối thế kỷ thì nhu cầu tăng gấp ba. Nếu cung lương thực cho thế giới thiếu thì giá chắc chắn sẽ tăng lên. Nói cách khác, nếu để mất an ninh lương thực thì sẽ phải nhập khẩu để sống sót, mà nhập khẩu thì càng ngày càng đắt.

Việt Nam có 86 triệu dân, con số không hề nhỏ. Phải xây dựng được nền nông nghiệp ít nhất là bảo vệ được an ninh lương thực của nước nhà, còn nếu biết làm tốt hơn thì càng có lợi về kinh tế.

Nhìn từ góc độ chính trị - xã hội, nông dân Việt Nam là những người ít được hưởng lợi từ đổi mới nhất. Nông dân còn quá nghèo, ít được hưởng phúc lợi xã hội (giáo dục, y tế…), thiếu việc làm ở nông thôn và buộc phải di cư ra thành phố làm thuê với giá lao động rẻ mạt.

Nông dân đang bị bần cùng hóa, và đó là nguy cơ gây bất ổn xã hội. Như ở Trung Quốc bây giờ, bạo loạn ở nông thôn xảy ra nhiều lắm, ấy là hậu quả của sự bần cùng hóa nông dân.

- Có phải sự bần cùng hóa đó là khó tránh khỏi trong quá trình công nghiệp hóa, ở tất cả các nước chứ không riêng Việt Nam? Nói cách khác, nó là một hệ quả của công nghiệp hóa?

- Quá trình công nghiệp hóa ở các nước không giống nhau. Thế kỷ 17-19, các nước tư bản dùng nguồn lợi bóc lột từ hệ thống thuộc địa để làm công nghiệp hóa, ví dụ Anh, Pháp là theo cách này. Nước nào không có thuộc địa, như Đức, thì gây chiến để giành lấy thuộc địa.

Thế kỷ 20, Liên Xô sau khi tiến hành Cách mạng Tháng Mười, không có nguồn lực để công nghiệp hóa nên họ buộc phải dùng nông nghiệp để làm công nghiệp. Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông cũng vậy, bóc lột nông dân, vắt kiệt nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp. Và Việt Nam ta bây giờ đang diễn lại đúng kịch bản đó.

- Nhưng theo tôi biết, chúng ta không có một chủ trương nào nói rằng phải dùng nông nghiệp để nuôi công nghiệp?

- Không có, nhưng thực tế đang cho thấy đúng như vậy đó. Tất cả những câu “nông dân là lực lượng cách mạng”, “nông dân là những người khởi xướng Đổi mới”, “phải biết ơn nông dân”, “phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”, tôi cho đều là mị dân cả.

Trên thực tế, nông nghiệp đang bị lép vế, nông dân thua thiệt đủ bề. Đó là hậu quả của việc bóc lột nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp hóa. Tôi nói cách khác, việc nông thôn, nông nghiệp Việt Nam bây giờ kém phát triển hoàn toàn là do cơ chế, do đường lối, quyết định của lãnh đạo mà thôi.

- Ông có cho rằng còn những nguyên nhân khác khiến nông thôn, nông nghiệp Việt Nam kém phát triển, như tình trạng đất chật người đông, trình độ và do đó, năng suất của người nông dân bị hạn chế?

- Từ kinh nghiệm chung của thế giới, tôi thấy là nếu anh làm quản lý ruộng đất tốt thì còn đất nông nghiệp tăng thêm, còn thừa đất ấy chứ. Tình trạng mất đất nông nghiệp ở ta là do đầu cơ mà ra cả. Nói sâu xa hơn thì do cách quản lý của ta là quản lý để đầu cơ.

Ngay xung quanh Hà Nội đây này, tôi biết có nhiều nơi, người ta xây những ngôi mộ giả để găm đấy, chờ khi nào chính quyền lấy đất thì sẽ được đền bù.

Bây giờ có lắm ý kiến nói tới việc tăng hạn điền cho nông dân. Tôi thì tôi cho rằng nhiều người nói vậy vì họ có quyền lợi liên quan tới việc đầu cơ ruộng đất. Hạn điền ở nước ta không thấp. Ngay Hàn Quốc cũng chỉ có 3 hécta, Nhật Bản 10 hécta. Mở rộng thêm để làm gì, chỉ tạo điều kiện cho đầu cơ phát triển thêm.

- Nhân nói về hạn điền, nhiều ý kiến đang cho rằng cần thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai, như thế mới giải phóng được sức mạnh đất đai để phát triển đất nước. Ông nghĩ về vấn đề này thế nào?

- Vấn đề sở hữu tư nhân về đất nông nghiệp cũng vậy, đang được đặt ra, nhưng theo tôi là không cần thiết. Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất còn rộng hơn quyền sở hữu đất ở Pháp.

Có tập trung ruộng đất trong tay địa chủ thì cũng không đẻ ra sản phẩm. Ở nhiều nước đang phát triển, phải tồn tại nông dân nghèo không ruộng đất thì mới có người làm thuê. Ví dụ như ở Brazil, nông dân biến thành thợ. Họ ở thành phố, hàng ngày về nông thôn làm việc rồi chiều tối lại lên thành phố.
“Có nhiều việc để làm lắm nhưng không ai giúp nông dân làm cả”
"Nông nghiệp là ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm".

- Một cách ngắn gọn, ông cho rằng các vấn đề lớn của nông dân Việt Nam hiện nay là gì?

- Thu nhập thấp, mất đất, không có việc làm. Khoảng cách thu nhập, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn là rất lớn. Nông dân ở nông thôn không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, không có tích lũy. Nhà có người ốm đi viện một lần là của cải mất hết, trắng tay. Thêm một đứa con đi học xa, học lên cao là cả nhà lao đao.

Việc làm cho nông dân là vấn đề nghiêm trọng đối với Việt Nam và cũng là vấn đề lớn với thế giới. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp là một trong các kết quả của quá trình phát triển.

Ở ta, nông thôn thừa khoảng 50% lao động, nhưng lại không phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì.

Xuất khẩu lao động cũng chỉ là giải pháp tình thế thôi. Hiện giờ Âu châu hạn chế nhận lao động nước ngoài. Trung Cận Đông, Hàn Quốc và Malaysia bình thường vẫn nhận nhiều lao động di cư vì họ đang có nhu cầu phát triển, nhưng nay khủng hoảng, họ cũng gặp khó khăn.

Tóm lại, thất nghiệp đang là bài toán không giải quyết được ở nhiều nước. Nông dân đang phải chịu gánh nặng cho toàn xã hội. Tôi nhấn mạnh: Lao động thừa ở nông thôn là vấn đề của toàn xã hội, cho nên cả xã hội phải góp vào mà lo chứ không chỉ Bộ NN&PTNT hay Bộ LĐ&TBXH đâu.

- Có cách nào để nâng thu nhập, từ đó nâng mức sống cho người ở nông thôn không?

- Tôi cho rằng đa dạng hóa sinh kế là chìa khóa để tăng thu nhập cho nông dân. Không thể chỉ làm nông được. Nói vui, tôi biết có làng ở Nam Sách (Hải Dương), cả làng bao nhiêu hiệu làm tóc.

Thật ra, ở nông thôn, có nhiều việc lắm nhưng không ai giúp nông dân làm, không ai hướng dẫn cho họ cả. Chúng tôi đang tìm cách xây dựng một cơ chế để giúp nông dân đa dạng hóa sinh kế.

- Ví dụ như những việc gì?

- Du lịch nông thôn chẳng hạn. Việt Nam cũng đã có du lịch nông thôn, nhưng triển khai chưa tốt, trong khi nếu làm tốt, thu nhập của mỗi nông dân có thể tăng gấp đôi.

Du lịch nông thôn: dân bị coi như ăn bám
"Đa dạng hóa sinh kế là chìa khóa để tăng thu nhập cho nông dân".

- Du lịch nông thôn chưa được làm tốt, điều đó thể hiện như thế nào?

- Ví dụ ở Sapa có nhiều các điểm du lịch bán vé, nhưng tiền bán vé chính quyền và doanh nghiệp đầu tư hưởng hết, dân địa phương chẳng được gì. Dân bị coi như kẻ ăn bám vào du lịch ở địa phương, ngày ngày sống nhờ bán đồ lặt vặt cho khách.

Họ không được tham gia vào hoạt động du lịch nông thôn ở địa phương, trong khi nếu hoạt động này phát triển và thu hút họ thì sẽ bảo vệ được cả văn hóa lẫn sinh thái, môi trường địa phương.

Tôi còn được biết, ở Huế, nhiều nhà vườn đóng cửa với khách du lịch, bởi vì họ chẳng thu được gì, tour du lịch lấy hết rồi.

Ở Hội An, tôi hỏi dân sao không tổ chức kinh doanh du lịch bằng cách cho khách thuê nhà dân ở, kiểu “home-stay”, họ bảo không được phép. Chính quyền yêu cầu nếu dân làm “home-stay” thì phải đảm bảo trang thiết bị vệ sinh, máy điều hòa. Như thế, tiền đâu mà nông dân làm?

Ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), có nhiều vùng cây ăn trái, tour du lịch đưa khách đi thăm, nhưng khách chỉ ngắm thôi chứ có mua về được đâu, làm sao bảo quản được mà mang về. Thế nên dân đem trái cây ra chợ bán còn thu được tiền hơn.

- Nhưng các doanh nghiệp kinh doanh cũng cần có lãi chứ. Ông đang nói về “du lịch nông thôn”, thì trong kinh doanh nông nghiệp cũng vậy, nhiều khi tư thương ở cái thế có thể ép giá nông dân. Tôi nghĩ vấn đề ở đây là làm sao để có sự phân phối công bằng hơn. Ông nghĩ sao về điều đó?

- Ở Pháp, doanh nghiệp mua súp lơ của nông dân với giá 1 Franc (đồng nội tệ của Pháp trước khi chuyển sang sử dụng Euro), rồi đến khi vào siêu thị, giá súp lơ đã tăng lên 12 Franc. Như thế là bóc lột nông dân lắm.

"Có nhiều việc để làm lắm nhưng không ai hướng dẫn nông dân làm cả". GS.VS. Đào Thế Tuấn cho rằng phát triển xã hội dân sự chính là cơ chế để hướng dẫn người nông dân đa dạng hóa sinh kế.

Nông dân Pháp bèn lập chợ nông thôn ngay giữa thủ đô Paris để bán hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng, tránh được hệ thống thu mua ở giữa.

Tôi thấy các nước tiên tiến bây giờ người ta tẩy chay hệ thống doanh nghiệp buôn bán. HTX chiếm 50% công việc, tư thương chiếm 50% lĩnh vực phân phối nông sản là tốt nhất.

Theo tôi, doanh nghiệp chỉ nên thực hiện khâu chế biến cao cấp, còn thu gom, buôn bán, nông dân tự làm được. Có như thế, doanh nghiệp mới mất thế độc quyền.

Chứ như bây giờ ở ta, nông dân không có quyền mặc cả với tư thương. ĐBSCL chẳng hạn, nông dân trồng lúa chất lượng cao hơn trước nhưng giá bán ra thì vẫn như thế.

- Vậy, tôi xin mượn lời một danh hài, “thế thì người nông dân phải làm gì”?

- Vấn đề quan trọng nhất của phát triển là phải có sự tham gia của cộng đồng, của người dân. Các tổ chức phi chính phủ đến Việt Nam đều nói rằng nông thôn Việt Nam không có cộng đồng.

Tôi nghĩ không hoàn toàn như vậy. Ngày xưa, chúng ta đã có cộng đồng làng xã, thôn xóm đấy thôi, mà đại diện là những lý trưởng, xã trưởng. Bây giờ thì chỉ còn mấy ông bà cán bộ - ông bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, bà tổ trưởng phụ nữ… Người dân chẳng được tham gia gì cả.

Chúng ta cần phải hướng dẫn, phải tạo cơ chế để giúp nông dân tổ chức lại được với nhau, xây dựng các doanh nghiệp xã hội (social entrepreneur). Nhà nước không thu thuế đối với họ. Dĩ nhiên, họ cũng có một mức lãi nào đó, nhưng về bản chất, họ là một hệ thống các tổ chức chăm lo phát triển xã hội. Hệ thống đó là một phần của xã hội dân sự.

Không thể chỉ dựa vào việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện, cần có một đường lối xã hội hóa công cuộc cải cách kinh tế xã hội, không lẫn lộn xã hội hóa với thị trường hóa và tư nhân hóa. Xã hội hóa là huy động sự tham gia của xã hội, của quần chúng.

Tóm lại, điều quan trọng chúng ta cần làm ở nông thôn bây giờ là xây dựng xã hội dân sự.

Nguồn: Tuần Việt Nam



 Trong lịch sử sinh thành của khái niệm "xã hội dân sự" nơi các nhà tư tưởng cổ điển Tây phương, người ta có thể nhận thấy rằng diễn trình biến chuyển của khái niệm này thực ra biểu hiện những sự thay đổi trong các quan điểm lý thuyết về các mối quan hệ giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội, đặc biệt là mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội. Quá trình biến chuyển này xét về đại thể đã trải qua bốn quan niệm khác nhau: từ (1) quan niệm đồng hóa xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia qua Thomas Hobbes, John Locke và Jean-Jacques Rousseau vào các thế kỷ XVI-XVIII, (2) quan niệm xã hội dân sự là xã hội thị trường với Bernard Mandeville, Adam Ferguson và Adam Smith vào các thế kỷ XVII-XIX, (3) quan niệm xã hội dân sự tách khỏi nhà nước với Immanuel Kant, Benjamin Constant vào các thế kỷ XVIII-XIX, đến (4) quan niệm xã hội dân sự là xã hội thị dân hay xã hội tư sản với Georg Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels và Antonio Gramsci vào các thế kỷ XIX-XX.

Trong tiếng Việt, các cụm từ "xã hội dân sự" và "xã hội công dân" thường được dùng để biểu thị khái niệm civil society trong tiếng Anh, société civile trong tiếng Pháp, hay bürgerliche Gesellschaft trong tiếng Đức.

Thực ra, tính từ civil (dân sự, hay dân chính, hay thuộc về lĩnh vực công dân) có thể mang những ý nghĩa khác nhau tùy theo văn cảnh sử dụng. Nó có thể được hiểu là đối lập với cái gì thuộc về tôn giáo (religious), đối lập với lĩnh vực quân sự (military), hay trong luật học là đối lập với hình sự (penal) hay thương mại (commercial), trong chiến tranh thì được hiểu là nội chiến (civil war) đối lập với chiến tranh với ngoại bang, hay còn có thể hiểu theo nghĩa là văn minh, lịch sự (cùng gốc với chữ civilized) đối lập với cái gì hoang dã, thô lỗ, và cuối cùng cũng có nghĩa là lĩnh vực dân sự đối lập với lĩnh vực chính trị (political).

Trong tiếng Đức, tính từ bürgerliche (trong cụm từ bürgerliche Gesellschaft mà Georg F. Hegel và Karl Marx sử dụng) xuất phát từ chữ Bürger (tương ứng với chữ bourgeois trong tiếng Pháp hay tiếng Anh) là một thuật ngữ khó tìm được một chữ tương đương duy nhất trong tiếng Việt, và cần được hiểu và được dịch theo từng văn cảnh, chứ không thể chỉ đơn giản dùng chữ “tư sản”. Ở châu Âu ngày xưa, chữ Bürger hay bourgeois thoạt đầu là kẻ bảo vệ một lâu đài hay một thị tứ (Burg, bourg), rồi từ thế kỷ XII, trong thời trung cổ, là cư dân ở đô thị, gần với nghĩa “thị dân”. Nó còn có nghĩa là citizen (“thường dân”) tức những tầng lớp không thuộc hàng giáo sĩ (tăng lữ) mà cũng không phải là quí tộc hay quan lại, nhưng có tài sản và không phải sống bằng lao động chân tay. Nhưng, kể từ Hegel, nó lại được phân biệt với citoyen (từ La Tinh: civis), tức với “công dân” của một “nhà nước”, xuất phát từ quan niệm của Hegel về xã hội dân sự. Hegel coi "xã hội dân sự" là lĩnh vực nằm ngoài nhà nước và ngoài gia đình, ông coi đây là lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội của những cá nhân với nhau, trong khi nhà nước có mục đích cao hơn nhiều so với sự điều tiết những quan hệ giữa những cá nhân trong xã hội dân sự. “Xã hội dân sự” biến cá nhân thành một Bürger, còn “nhà nước” biến cá nhân thành một citoyen, tức thành một công dân của một nhà nước nhất định như nước Pháp, nước Phổ, chứ không đơn thuần là một Bürger (trader) có thể làm ăn buôn bán với cả người Pháp lẫn người Phổ. Nhưng chữ Bürger trong tiếng Đức hiện nay lại chỉ có nghĩa là “người công dân”, còn bürgerliche Gesellschaft có nghĩa là “xã hội tư sản” hay “xã hội dân sự”.[1]

Ở Tây Âu, thuật ngữ civil society kể từ khi ra đời tới nay thực ra là một thuật ngữ khá mơ hồ và đa nghĩa, thậm chí có thể mang những nội hàm trái ngược hẳn nhau, tùy theo từng tác giả vào từng thời kỳ lịch sử, và gần đây được cả những người phe tả lẫn phe hữu sử dụng theo những ý nghĩa khác nhau nhằm biện hộ cho các quan điểm của mình, đến mức mà cụm từ này gần như trở thành một thứ khẩu hiệu thời trang hay đồ trang sức! (xem thêm Rangeon, 1986, tr. 9-10, và Lochak, 1986, tr. 44-45)

Trong các ngành khoa học xã hội, người ta thường không đồng ý với nhau về sự tách biệt trên bình diện lý thuyết, cũng như về mối quan hệ, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Sự biến chuyển về ý nghĩa của khái niệm "xã hội dân sự" thực ra biểu hiện sự thay đổi trong các quan điểm lý thuyết về các mối quan hệ này, đặc biệt là mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội (xem Abercrombie et al., 1988, tr. 34).

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điểm lại các quan niệm của một số tác giả cổ điển Tây phương về xã hội dân sự.

Theo Guy Berger, tựu trung chúng ta có thể phân biệt được sáu quan niệm chủ yếu sau đây về xã hội dân sự (société civile):[2]

Trước hết là quan niệm theo truyền thống Aristoteles do Thomas d’Aquin lấy lại và khai triển, đó là quan niệm về một tập hợp con người hoàn chỉnh, có thể tự nuôi sống mình, mang mục tiêu đem lại hạnh phúc trần thế cho con người và sự hòa thuận giữa các thành viên với nhau.

Thứ hai là các định nghĩa của Hobbes, Locke và Rousseau. Xã hội dân sự là một tập hợp con người ở trình độ cao, phát sinh từ ý chí của các cá nhân và được thiết lập vì lợi ích chung nhằm giúp cho các cá nhân và gia đình thoát ra khỏi tình trạng tự nhiên (état de nature).

Thứ ba là định nghĩa của Hegel. Xã hội dân sự là một giai đoạn của trật tự đạo đức, được thiết lập trong kỷ nguyên hiện đại, nằm giữa tập hợp tự nhiên là gia đình và nhà nước.

Thứ tư là định nghĩa của Marx: đó là một xã hội phi chính trị được cấu trúc bởi các quan hệ kinh tế và hệ thống các giai cấp.

Thứ năm là định nghĩa của Gramsci: đó là toàn bộ các định chế và các nhóm xã hội chi phối và thống lãnh hệ tư tưởng.

Thứ sáu là quan niệm của các nhà tư tưởng Ba Lan khi họ phê phán chế độ toàn trị: xã hội dân sự là toàn thể xã hội với tất cả các thành tố của mình trong chừng mực mà những thành tố này chỉ theo đuổi những mục tiêu tự nhiên.

Ở La Mã vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Cicero (106-43 trước Công nguyên) đã từng dùng từ societas civilis (tiếng La-tinh) để nói về res publica (có nghĩa là việc công, nhà nước, hay đời sống chính trị) hoặc nói về đô thị, xét như một thực thể được hợp nhất trong cùng một nền luật pháp: "Lex est civilis societatis vinculum" ("Luật pháp là sợi dây liên kết xã hội dân sự" (De Republica, I, 32). Đối với Cicero, societas civilis là cộng đồng được tổ chức về mặt chính trị và về mặt pháp lý, khác với nhân loại nói chung hay xã hội con người nói chung (xem Rangeon, 1986, tr. 11).

Vào năm 1677, nhà tư tưởng người Pháp Bossuet (1627-1704) định nghĩa cụm từ "société civile" phần nào tương tự như ý niệm của Cicero nói trên: đó là "xã hội con người hợp nhất với nhau dưới cùng một chính quyền và cùng các luật lệ" (dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 12).

Theo François Rangeon, chúng ta cũng có thể nhận diện bốn nhóm quan niệm khác nhau về xã hội dân sự nơi các tác giả cổ điển Tây phương như sau: (1) quan niệm đồng hóa xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia (State hay État); (2) xã hội dân sự là xã hội thị trường; (3) xã hội dân sự tách khỏi nhà nước; và (4) xã hội dân sự là xã hội thị dân hay xã hội tư sản (Rangeon, 1986, tr. 12-27).

1. Đồng hóa xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia

Ở đây, thoạt tiên chúng ta cần lưu ý rằng chữ État trong tiếng Pháp hay chữ State trong tiếng Anh không phải chỉ có nghĩa là "nhà nước", mà còn có nghĩa là "quốc gia" hay "nước". Vì thế, quan niệm coi xã hội dân sự như đồng hóa với État hay State ở đây là hiểu theo nghĩa rộng, chứ không phải là "nhà nước" theo nghĩa là một bộ máy chính quyền.

Khái niệm xã hội dân sự trong thế kỷ XVII ở Tây Âu gắn liền chặt chẽ với những ý niệm liên quan tới quốc gia, dân tộc hay tổ quốc (xem Rangeon, 1986, tr. 18). Theo Z.A. Pelczynski, với tư tưởng đề cao ý niệm quốc gia-dân tộc (nation-state) và chủ nghĩa quốc gia (nationalism), giai cấp tư sản Âu châu vào các thế kỷ XVIII và XIX đã khai triển ý niệm xã hội dân sự trong các phân tích triết học và chính trị học, và quan niệm rằng xã hội dân sự cần được xem như một yếu tố hiện đại quan trọng nhằm thực hiện một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ nền dân chủ tự do quốc gia.[3]

Nhà chính trị và nhà tư tưởng người Anh Thomas Hobbes (1588-1679) được coi là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "xã hội dân sự" (societas civilis) theo nghĩa đối lập với "tình trạng tự nhiên" (status naturae) trong quyển De Cive xuất bản năm 1649. Trong quyển Elements of Law (1640), Hobbes đã sử dụng cụm từ civil society để dịch chữ Hy Lạp polis (đô thị): nhưng theo Hobbes, khác với đô thị Hy Lạp cổ, "xã hội dân sự" không phải là một xã hội tự nhiên, mà ngược lại, là kết quả của một sự sáng tạo, một sự quyết định của các cá nhân nhằm mục tiêu tạo nên một trật tự chính trị ổn định và thuận hòa. Hobbes phân biệt "xã hội dân sự" một mặt với tình trạng tự nhiên trong đó "mọi người chống lại mọi người" (Bellum omnium contra omnes), và mặt khác, với những xã hội tự nhiên mà Hobbes cho là được cấu tạo nên bởi các gia đình (xem Rangeon, 1986, tr. 11-12).

Nhà luật học và sử học người Đức Samuel Pufendorf (1632-1694) trong quyển De jure naturae et gentium (Bàn về luật pháp của tự nhiên và của người dân) đã phát triển ý tưởng của Hobbes và đồng hóa xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia (Rangeon, 1986, tr. 12).

Cũng đi theo chiều hướng của Hobbes và Pufendorf, nhà triết học người Anh John Locke (1632-1704) cũng phân biệt giữa xã hội dân sự vốn là cái "được thiết lập", "được cấu tạo", với tình trạng tự nhiên vốn là nơi chứa đựng nhiều cái xấu. Tuy nhiên, nếu Hobbes coi xã hội dân sự có mục tiêu đầu tiên là đảm bảo sự thuận hòa và sự an ninh cho các thành viên, thì Locke lại coi "mục tiêu chính yếu [của xã hội dân sự] là bảo vệ quyền sở hữu" (Of political or civil society, 1690). Như vậy, theo Locke, "xã hội dân sự", ngoài trật tự pháp lý (hay chính trị, như trong định nghĩa của Hobbes), còn mang ý nghĩa của một trật tự kinh tế (Rangeon, 1986, tr. 13-14).

Tương tự như Hobbes và Locke, nhà triết học Pháp Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) cũng gắn liền xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia, nhưng nhấn mạnh thêm khía cạnh sở hữu tư nhân: "Người đầu tiên nào có một miếng đất rào kín và biết nói được rằng đất này là của tôi... thì đó là kẻ sáng lập thực thụ của xã hội dân sự" (Discours sur l'origine et les fondements de l'inégalité parmi les hommes, 1755) (dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 14).

2. Xã hội dân sự là xã hội thị trường

Năm 1714, Bernard Mandeville (1670-1733), một nhà tư tưởng gốc Hà Lan sinh sống ở Anh, xuất bản tác phẩm The Fable of the Bees (Ngụ ngôn về những con ong), trong đó ông đưa ra một quan niệm mới về xã hội dân sự, coi đây là nơi của các lợi ích và các nhu cầu. P.F. Moreau viết như sau: "Theo Mandeville, thuật ngữ xã hội dân sự vốn từ lâu được coi là đồng nghĩa với xã hội chính trị có xu hướng tách ra khỏi ý nghĩa này và biểu thị vô số những mối quan hệ trao đổi, tiêu thụ và lợi ích vốn được coi là dệt nên mạng lưới xã hội".[4] Luận điểm chính của Mandeville là cho rằng: lợi ích chung có thể đạt được mà không phụ thuộc vào ý muốn riêng của các cá nhân; mỗi người theo đuổi lợi ích riêng của mình và qua đó, góp phần vào lợi ích của mọi người mà không hề mong muốn.

Adam Ferguson (1723-1816), một nhà tư tưởng người Anh, cho rằng xã hội dân sự là "kết quả của hoạt động của con người, chứ không phải của ý định của con người" (An Essay on the History of Civil Society, 1767). Ông còn coi "civil society" là một trạng thái của "tính văn minh" (civility) và là kết quả của quá trình văn minh hóa (civilization), trái với xã hội thô lỗ, man rợ trong một tình trạng chuyên chế (despotic state) (xem Abercrombie et al., tr. 34). Cả Mandeville và Ferguson đều cho rằng xã hội dân sự không xuất phát từ sự chủ định của con người, mà là từ sự vận động tự phát của các lợi ích, các nhu cầu và các tham vọng của con người. Ở đây, chúng ta thấy thuật ngữ xã hội dân sự đã chuyển từ khái niệm "xã hội dân sự mang tính quốc gia/nhà nước" (société civile étatique) nơi những tác giả như Hobbes hay Locke, sang khái niệm "xã hội dân sự mang tính thị trường" (société civile commerçante hay marchande) (Rangeon, 1986, tr. 17).

Nhà triết học và kinh tế học người Anh, Adam Smith (1723-1790), trong quyển An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của sự thịnh vượng của các quốc gia) (1776) không lần nào sử dụng thuật ngữ "civil society" mà chỉ dùng gọn chữ "society", có lẽ vì muốn tránh né tính từ "civil" vốn lúc ấy có thể gây hiểu lầm vì còn mang nặng hàm ý quốc gia/nhà nước. Tuy vậy, theo Pierre Rosanvallon, chúng ta có thể hiểu "xã hội" mà Smith nói tới chính là "xã hội dân sự" (dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 17). Adam Smith hiểu đây là một xã hội của sự trao đổi thương mại, một cơ chế trong đó các lợi ích tự chúng phối hợp hài hòa với nhau ngoài ý muốn chủ định của các cá nhân. Xã hội này có những qui luật riêng của nó, đó là những qui luật của lợi ích riêng tư, của sự trao đổi, của các nhu cầu, mà nhà nước hoàn toàn không nên can thiệp vào. Theo Adam Smith, nhà nước chỉ có ba chức năng hay ba "bổn phận" chính: bảo đảm an ninh đối với bên ngoài, duy trì trật tự đối với bên trong, và "đảm đương một số công trình công cộng" mà tư nhân không thể đảm đương nổi (Rangeon, 1986, tr. 17-18).



 3. Xã hội dân sự tách khỏi nhà nước

Khác với nhiều nhà tư tưởng của thế kỷ XVIII vốn chỉ chú trọng tới khía cạnh kinh tế của xã hội dân sự, nhà triết học Đức Immanuel Kant (1724-1804) nhấn mạnh tới khía cạnh pháp lý. Ông cho rằng xã hội dân sự là lĩnh vực của luật pháp, kể cả công pháp lẫn tư pháp. Ông viết trong công trình Schriften zur Rechtstheorie (Những bài viết về lý thuyết pháp quyền): "Những thành viên tập hợp trong xã hội ấy (societas civilis), nghĩa là trong đô thị, nhằm vào pháp chế, thì được gọi là công dân". Ông còn nói thêm rằng "xã hội dân sự [đảm bảo] cái của-tôi, cái của-anh, bằng các luật lệ nhà nước".[5] Còn trong quyển Kritik der Urteilskraft (Phê phán năng lực phán đoán) (1790), Kant đã mô tả như sau về xã hội dân sự: "... việc sắp xếp các mối quan hệ giữa con người với nhau, sao cho pháp quyền (gesetzmässige Gewalt) trong một cái toàn bộ - mà ta gọi là Xã hội dân sự (bürgerliche Gesellschaft) - đối lập lại sự lạm dụng của các quyền tự do đang xung đột nhau; và, chỉ trong một xã hội như thế, sự phát triển tối đa những tố chất tự nhiên mới diễn ra được."[6]

Trong thế kỷ XVIII, chính nhờ sự phát triển của các bộ luật, nên khái niệm xã hội dân sự bắt đầu có cơ sở cắt đứt sợi dây để thoát ra khỏi ý niệm nhà nước/quốc gia, và kể từ đây, người ta thấy xuất hiện cặp khái niệm đối lập dân sự/chính trị (civil/politique) – khác hẳn quan niệm về sự đồng hóa giữa xã hội dân sự với xã hội chính trị hay với nhà nước/quốc gia như trước kia. Tác giả thể hiện rõ sự đoạn tuyệt này là nhà chính trị và nhà tư tưởng người Pháp-Thụy Sĩ Benjamin Constant (1767-1830). Sự xuất hiện của xã hội dân sự trong tư thế độc lập với nhà nước chính là một trong những điểm đặc trưng nhất của xã hội theo nền kinh tế tự do. Trong quyển De la liberté chez les Modernes (Bàn về tự do nơi các nhà tư tưởng cận đại), B. Constant tin tưởng rằng xã hội dân sự hoàn toàn có thể tồn tại tự nó, và ông đề cao quyền tự do dân sự (tức là quyền "được yên ổn hưởng quyền độc lập cá nhân"), cho rằng nó quan trọng không thua kém gì so với các quyền tự do chính trị. Khác với nhiều tác giả trước, ông đảo ngược trật tự và cho rằng xã hội dân sự quan trọng hơn và có trước nhà nước xét về mặt bản thể học (ontologique). Nhà nước xuất phát từ xã hội dân sự, chứ không phải ngược lại. Constant viết: "Kể từ khi có xã hội, thì giữa con người với nhau hình thành nên một số mối liên hệ... Các luật lệ... không phải là nguyên nhân của những mối liên hệ ấy – những mối liên hệ này vốn có trước các luật lệ" (dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 21). Ông cho rằng chính sự tiến bộ của nền văn minh đã làm cho xã hội dân sự ngày càng tự trị so với nhà nước. Nhưng theo Constant, quá trình củng cố nhà nước diễn ra song song với quá trình tự trị hóa của xã hội dân sự, chứ hai quá trình này không hề loại trừ nhau, mà thậm chí còn bổ trợ cho nhau. Khác với quan điểm của nhiều nhà kinh tế theo chủ nghĩa tự do hiện nay, B. Constant cho rằng xã hội dân sự và nhà nước không phải là hai lĩnh vực đối lập nhau, mà ngược lại, còn "phối hợp" với nhau: muốn có một nhà nước mạnh, thì nhất thiết phải có một xã hội dân sự cường tráng (Rangeon, 1986, tr. 21-22).

4. Xã hội dân sự là xã hội thị dân hay xã hội tư sản

Trong số các tác giả cổ điển, chính nhà triết học Đức Georg W. F. Hegel (1770-1831) mới là người có công xác lập rõ rệt nhất khái niệm xã hội dân sự theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này. Theo Pelczynski, sự tách biệt của Hegel về mặt khái niệm giữa nhà nước với xã hội dân sự đã tạo ra một trong những thay đổi nền tảng quan trọng nhất trong ý thức Âu châu hiện đại (dẫn lại theo Babi, 1998).

Có thể nói một cách vắn tắt rằng, theo Hegel, xã hội dân sự (bürgerliche Gesellschaft) không phải được hình thành bởi sự khế ước, mà là lĩnh vực của sự khế ước, nghĩa là lĩnh vực của sự liên kết tự nguyện giữa các cá nhân. Xã hội dân sự là một khía cạnh, một giai đoạn, hay một "mô-men" của trật tự chính trị, mà khía cạnh khác của trật tự này chính là nhà nước (Scruton, 1982, tr. 66).

Ảnh hưởng bởi tư tưởng của các nhà kinh tế học thế kỷ XVIII như Adam Smith, Hegel cũng cho rằng xã hội dân sự là lĩnh vực của các nhu cầu, của sự sản xuất, và của sự phân công lao động. Tuy nhiên, phần nào tương tự như Kant, ông cũng nhấn mạnh ngay sau đó đến vị trí của luật pháp và của nhà nước trong sự hình thành nên xã hội dân sự. Hegel viết trong quyển Grundlinien der Philosophie des Rechts (Những nguyên lý của triết học pháp quyền) (1821): "Xã hội dân sự [là] một sự liên hợp của những thành viên với tư cách là những cá nhân tự lực mưu sinh [self-subsistent] trong một sự phổ quát [universality] vốn chỉ mang tính chất trừu tượng, bởi tính chất tự lực mưu sinh của họ. Sự liên hợp của họ là hệ quả phát sinh từ các nhu cầu của họ, từ hệ thống luật pháp – phương tiện đảm bảo an ninh cho con người và tài sản – và từ một tổ chức ngoại hiện [external organisation] nhằm đạt được các lợi ích đặc thù và các lợi ích chung của họ" (Hegel, 1952, §157).

Khi ra khỏi gia đình, con người trở thành một người bourgeois (hiểu theo nghĩa thị dân): Hegel ít khi sử dụng tiếng nước ngoài, nhưng ở mục §190 trong quyển sách dẫn trên, ông cố ý dùng chữ bourgeois của tiếng Pháp ("der Bürger als bourgeois") để phân biệt rõ với chữ Bürger theo nghĩa "công dân" (citizen hay citoyen) (Hegel, 1952, phần ghi chú của Hegel cho mục §190). Chính vì thế mà cụm từ bürgerliche Gesellschaft đối với Hegel gần với nghĩa "xã hội thị dân" hơn. Chữ bourgeois (thị dân) ở đây không phải là tư sản, cũng không chỉ bao gồm các nhà buôn và các nhà công nghiệp, mà là bao gồm chung mọi cá nhân chỉ quan tâm tới lợi ích riêng của mình (đối lập với "công dân", là người quan tâm tới lợi ích công cộng) (Rangeon, 1986, tr. 23).

Theo Hegel, xã hội dân sự là "giai đoạn của sự khác biệt nằm xen vào giữa gia đình và nhà nước". Sự hình thành nên xã hội dân sự là "một thành tựu của thế giới hiện đại". Xã hội dân sự là nơi bao gồm những "con người" với tính cách là những cá nhân vị kỷ vốn chỉ quan tâm tới những nhu cầu của mình mà thôi, trong đó "mỗi cá nhân là cứu cánh của chính mình, ngoài ra mọi cái khác đều vô nghĩa đối với anh ta". Thế nhưng chính là thông qua người khác, anh ta mới đạt được mục tiêu của mình, và do đó, "một mục tiêu cụ thể khoác lấy hình thức phổ quát tính thông qua mối quan hệ với tha nhân". Chính là "vì tính đặc thù [particularity] bị điều kiện hóa một cách tất yếu bởi tính phổ quát [universality], nên toàn bộ lĩnh vực xã hội dân sự là lãnh địa của sự trung giới [mediation]" (Hegel, 1952, phần ghi chú của Hegel cho mục §182).[7]

Ông còn viết một câu tóm gọn như sau: "Trong luật học, đối tượng là nhân thân [Person]; đứng trên quan điểm đạo đức, đó là chủ thể [Subjekt]; trong gia đình, đó là thành viên gia đình [Familienglied]; trong xã hội dân sự, đó là thị dân xét như là người bourgeois [der Bürger (als bourgeois)]. Ở đây, xét trên quan điểm các nhu cầu, chính là cái biểu hiện cụ thể của cái biểu tượng mà chúng ta gọi là con người [Mensch]; như vậy, trước hết ở đây và nói đúng ra thì cũng chỉ ở đây, mới nói tới con người theo nghĩa này" (Hegel, 1986, mục §190).

Theo Hegel, xã hội dân sự là mô-men (das Moment)[8] trung gian giữa gia đình và nhà nước trong tiến trình của trật tự đạo đức (Sittlichkeit); nói chính xác hơn, gia đình là mô-men thứ nhất của trật tự đạo đức, xã hội dân sự là mô-men thứ hai, và nhà nước là mô-men thứ ba – mô-men cuối cùng và hoàn chỉnh nhất của Sittlichkeit (xem thêm Dupire, 1986, tr. 33-43). Đặc điểm của xã hội dân sự là lĩnh vực bao hàm cả cái đặc thù lẫn cái phổ quát. Nhưng tính phổ quát chỉ đạt tới sự hoàn chỉnh ở mô-men nhà nước. Vì thế, theo Hegel, nhà nước mới chính là "nền tảng thực thụ" của cả gia đình lẫn xã hội dân sự, là giai đoạn, là mô-men phát triển cao nhất của trật tự đạo đức (Sittlichkeit). Nhưng Hegel không quan niệm rằng xã hội dân sự chỉ tồn tại trong mối quan hệ với nhà nước; nó vẫn mang tính độc lập tương đối so với nhà nước. Xã hội dân sự không phải là một "tình trạng tự nhiên" trong đó mọi người chống lại nhau, bellum omnium contra omnes; trong xã hội dân sự, các thị dân đã tự tổ chức với nhau và đạt được một mức độ phổ quát nhất định, bao gồm các công ty, các hiệp hội... Nhưng nó vẫn mang những nguy cơ tranh chấp và xung đột tiềm ẩn trong nội bộ do các định chế tư nhân không phải lúc nào cũng giải quyết được ổn thỏa các tranh chấp và đạt được lợi ích chung. Chỉ có nhà nước mới xứng đáng là mô-men "hòa giải" hiệu quả nhất các mối tranh chấp trong xã hội dân sự.

Khác với các nhà tư tưởng theo quan điểm khế ước xã hội của thế kỷ XVII và XVIII vốn đồng hóa xã hội dân sự với nhà nước/quốc gia, Hegel coi xã hội dân sự là lĩnh vực của nhu cầu, chủ yếu dựa trên lối tư duy giác tính (Verstand, understanding, entendement), nghĩa là tương đương với loại lương tri thông thường (common sense) vốn hời hợt, mang nhiều định kiến, chỉ dựa trên kinh nghiệm, trong khi nhà nước mới là lĩnh vực đặt nền tảng trên lý tính (Vernunft, reason, raison), tức quan năng suy luận, có vai trò cao hơn giác tính, "có khả năng phản tư về những nhận thức của giác tính và hướng dẫn nhận thức này vươn đến cái toàn bộ tuyệt đối vượt ta khỏi các giới hạn của kinh nghiệm".[9]

Nói tóm lại, Hegel vừa nhấn mạnh đến tính chất độc lập lẫn tính chất phụ thuộc của xã hội dân sự đối với nhà nước. Xã hội dân sự chỉ được hiện thực hóa bằng một cái khác với nó, đó là nhà nước. Đối với Hegel, xã hội dân sự không phải là nhà nước, nhưng đồng thời, xã hội dân sự chỉ tồn tại trong mối quan hệ với nhà nước (Rangeon, 1986, tr. 24).

Liên quan tới khái niệm xã hội dân sự, Karl Marx (1818-1883) viết như sau trong phần mở đầu cho quyển Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (1859): "Các công trình nghiên cứu của tôi đi đến kết quả này, đó là: các mối quan hệ pháp lý – cũng như các hình thái của nhà nước – không thể được giải thích nếu dựa vào chính chúng mà thôi, hay nếu dựa trên cái mà người ta cho là sự tiến hóa chung của ý thức con người, nhưng ngược lại, phải xem chúng như bắt nguồn từ trong những điều kiện vật chất sinh tồn mà Hegel, theo gương những người Anh và người Pháp ở thế kỷ XVIII, gọi chung dưới cái tên 'xã hội dân sự', và việc giải phẫu xã hội dân sự, đến lượt nó, cần được tìm thấy trong môn kinh tế học chính trị" (phần "Préface", trong Marx, 1972, tr. 18).

Marx cho rằng nếu đối chiếu quan niệm của Hegel về xã hội dân sự với xã hội dân sự và nhà nước trong thực tế, chúng ta sẽ thấy sự bất tương thích: nhà nước không phải là nơi hiện thực hóa thực thụ sự tự do và lợi ích chung, mà xã hội dân sự cũng chẳng phải chỉ phụ thuộc một cách đơn giản vào nhà nước. Marx đảo ngược lại quan niệm về xã hội dân sự của Hegel, và cho rằng nhà nước không phải là nền tảng của xã hội dân sự, mà ngược lại, chính xã hội dân sự mới là nền tảng trên đó nhà nước được thiết lập. Trong quyển Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel (1843), Marx viết như sau: "Gia đình và xã hội công dân được Hê-ghen coi là những lĩnh vực của khái niệm nhà nước, cụ thể là những lĩnh vực của giai đoạn hữu hạn của nhà nước, là tính hữu hạn của nhà nước. (...) Trên thực tế, gia đình và xã hội công dân là những tiền đề của nhà nước, chính chúng mới là những yếu tố thật sự tích cực; nhưng trong tư duy tư biện thì tất cả điều đó đều bị đặt lộn ngược. (...) nhà nước chính trị không thể tồn tại nếu không có cơ sở tự nhiên là gia đình và cơ sở nhân tạo là xã hội công dân. Chúng là conditio sine qua non - điều kiện cần thiết của nhà nước. Nhưng [ở Hê-ghen] điều kiện biến thành cái chịu điều kiện, cái quy định biến thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành sản phẩm của sản phẩm của nó" (C. Mác, 1995, tr. 312-315).[10]

Marx cũng nhấn mạnh tới nội hàm kinh tế và khía cạnh phát triển của luật pháp trong khái niệm xã hội dân sự, coi đây như một bước phát triển "văn minh" của xã hội, vì đã chuyển những "quan hệ cá nhân" sang những "quan hệ chung", đồng thời nhờ có những "quan hệ pháp luật" mới nên đã vượt qua được "những biện pháp dã man để thực hiện pháp luật". Điểm mới trong luận điểm của Marx về xã hội dân sự là nhấn mạnh tới sự xuất hiện của các "giai cấp" (Klasse) trong xã hội dân sự tư bản chủ nghĩa, xét như là một sự khác biệt căn bản so với sự tồn tại của các "đẳng cấp" (Stand) trong các thể loại cộng đồng cổ truyền tiền tư bản chủ nghĩa (Gemeinwesen). Marx và Engels viết như sau trong quyển Hệ tư tưởng Đức (1845-1846): "Với sự phát triển của xã hội công dân, nghĩa là với sự phát triển của những lợi ích cá nhân thành lợi ích giai cấp, những quan hệ pháp luật thay đổi và có một hình thức văn minh. Người ta không còn coi những quan hệ đó là những quan hệ cá nhân mà là những quan hệ chung. Đồng thời, do phân công lao động, việc bảo vệ những lợi ích của những cá nhân riêng rẽ – những lợi ích này xung đột lẫn nhau, – chuyển vào tay một số ít người cho nên biện pháp dã man để thực hiện pháp luật cũng biến mất" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr. 494).

Đồng ý với Hegel, Marx nhấn mạnh rằng sự xuất hiện của xã hội dân sự, hay nói cách khác, sự tách biệt giữa nhà nước với xã hội dân sự, không phải là một hiện tượng đương nhiên, phi thời gian, mà là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trong thời trung cổ, chưa có xã hội dân sự, cũng chưa có sự phân biệt giữa civil (dân sự/thị dân) với politique (chính trị), bởi lẽ lúc ấy tất cả mọi lĩnh vực đều thuộc về nhà nước, đều bị đồng nhất với chính trị. Marx viết trong quyển Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel: "Thời trung cổ đã có nông nô, sở hữu ruộng đất phong kiến, phường hội thủ công, hội của các học giả v.v.; nghĩa là vào thời trung cổ, sở hữu, thương nghiệp, đoàn thể xã hội, con người đều đã có tính chất chính trị; ở đây nội dung vật chất của nhà nước được quy định bởi hình thức của nhà nước. Ở đây, mọi lĩnh vực tư nhân đều có tính chất chính trị, hoặc đều là lĩnh vực chính trị; nói cách khác, chính trị cũng là tính chất của những lĩnh vực tư nhân. (...) Ở thời trung cổ, đời sống nhân dân và đời sống nhà nước là đồng nhất" (C. Mác, 1995, tr. 353).

Chỉ trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nghĩa là vào "thời hiện đại" (modernen Zeit), mới xuất hiện sự tách biệt giữa "đời sống nhà nước" với "đời sống tư nhân", nghĩa là giữa nhà nước với xã hội dân sự/thị dân. Marx viết: "Sự tách biệt [Abstraktion] của nhà nước xét như là nhà nước chỉ thuộc về thời hiện đại, vì sự tách biệt của đời sống tư nhân chỉ thuộc về thời hiện đại mà thôi. Sự tách biệt của nhà nước chính trị là một sản phẩm hiện đại."[11]

Nhưng khác hẳn với quan niệm của Hegel vốn coi xã hội dân sự là một "mô-men" của Ý niệm đạo đức, Marx quan niệm xã hội dân sự là nơi diễn ra các mối quan hệ xã hội, các mối quan hệ sản xuất, trong những điều kiện tồn tại vật chất của các cá nhân, nơi biểu hiện thực thụ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo Marx, xã hội dân sự chỉ xuất hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa, từ khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị. Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels viết như sau: "Xã hội công dân [bürgerliche Gesellschaft] bao trùm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Nó bao trùm toàn bộ đời sống thương nghiệp và công nghiệp trong giai đoạn đó và do đó, vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và dân tộc, mặc dù, mặt khác, về đối ngoại nó vẫn phải hiện ra như là một dân tộc và về đối nội nó vẫn phải tự tổ chức thành một nhà nước. Thuật ngữ 'xã hội công dân' [bürgerliche Gesellschaft] xuất hiện trong thế kỷ XVIII khi những quan hệ sở hữu thoát khỏi thể cộng đồng [Gemeinwesen] cổ đại và trung cổ. Xã hội tư sản [bürgerliche Gesellschaft] với tính cách là xã hội tư sản chỉ phát triển cùng với giai cấp tư sản [der Bourgeoisie]" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr. 51-52).[12]

Hiểu theo nghĩa đó, xã hội dân sự không phải chỉ là nền tảng của nhà nước, mà còn của toàn bộ lịch sử: "... đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr. 51). Điều này có nghĩa là, theo Marx, các sự kiện chính trị, những sự thay đổi về luật pháp, những sự phát triển về văn hóa, chỉ có thể được giải thích nếu tìm về ngọn nguồn của sự phát triển của cấu trúc của xã hội dân sự, nơi diễn ra những cuộc xung đột cũng như đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng (Abercrombie et al., 1988, tr. 34).

Tựu trung, Marx nhìn xã hội dân sự dưới hai khía cạnh: một mặt, nó là nền tảng hiện thực và vật chất của nhà nước, mặt khác, nó là mặt đối lập với nhà nước. Hay cũng có thể nói, theo lời một tác giả, rằng Marx có hai quan niệm về xã hội dân sự, hay "hai lý thuyết về nhà nước".[13] Xét về mặt kinh tế học, xã hội dân sự là cơ sở hạ tầng trên đó xây dựng nên kiến trúc chính trị nhà nước; theo nghĩa này, xã hội dân sự chính là xã hội tư sản nhìn dưới góc độ vận hành kinh tế-xã hội. Xét về mặt xã hội học, trong lịch sử nhà nước hiện đại (Marx lấy hai thí dụ là nhà nước của Bonaparte và nhà nước Phổ), xã hội dân sự chính là tổ chức xã hội vốn được hình thành từ quá trình biệt dị hóa (différentiation) của nhà nước. Như vậy, sự hình thành của xã hội dân sự xét về mặt lịch sử đã diễn ra song hành với sự hình thành của nhà nước hiện đại. Và xã hội dân sự có thể được hiểu theo hai nghĩa: một mặt là xã hội dân sự kinh tế (société civile économique), và mặt kia là xã hội dân sự chính trị (société civile politique) (Rangeon, 1986, tr. 26). Chính là thiên về nghĩa thứ hai này mà Gramsci đã khai triển khái niệm của mình về xã hội dân sự.



    Nhà triết học và nhà chính trị mác-xít người Ý Antonio Gramsci (1891-1937) phân biệt giữa "xã hội dân sự" với "xã hội chính trị", tức là nhà nước. Cho đến nay, nhiều người thường lầm tưởng rằng quan niệm về "xã hội dân sự" của Gramsci chỉ thuộc về kiến trúc thượng tầng, khác với quan niệm của Marx cho rằng xã hội dân sự chủ yếu thuộc về cơ sở hạ tầng. Nhưng theo Jacques Texier, Gramsci trong tập các luận văn viết trong nhà tù phát-xít đã có ít nhất hai cách hiểu về xã hội dân sự. Cách thứ nhất là coi xã hội dân sự như là nơi đấu tranh giành quyền "thống lãnh" (hégémonie) về văn hóa-tư tưởng, và cách thứ hai coi đây là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế của một cấu trúc kinh tế nhất định (Texier, 2000, tr. 50-51).

    Theo Gramsci, xã hội dân sự "nằm giữa cơ sở kinh tế và nhà nước với nền pháp chế và sự cưỡng chế của mình" (Gramsci, 1975, tr. 270-271). Ông coi xã hội dân sự như một "tầng" (étage) nằm trong lĩnh vực kiến trúc thượng tầng: "Người ta có thể... hình dung hai 'tầng' chính trong các kiến trúc thượng tầng, một tầng mà người ta có thể gọi là tầng 'xã hội dân sự', tức bao gồm các tổ chức thường gọi nôm na là 'tư nhân', và tầng 'xã hội chính trị' hay nhà nước; [cả hai tầng này] tương ứng với chức năng 'thống lãnh' [hégémonie] mà nhóm thống trị thực thi đối với toàn bộ xã hội, và với chức năng 'thống trị trực tiếp' [domination directe] hay chỉ huy [commandement] vốn được biểu hiện trong nhà nước và trong sự cai trị 'pháp lý'" (Gramsci, 1975, tr. 606-607).

    Ông coi xã hội dân sự là lĩnh vực bao gồm những định chế 'tư nhân' (private) về mặt pháp lý như các giáo hội, các nhà trường, các phương tiện truyền thông đại chúng và các nghiệp đoàn. Trong các xã hội tư bản chủ nghĩa, những định chế này đảm bảo sự "thống lãnh" (hégémonie)[14] hoặc "lãnh đạo" của giai cấp tư sản về mặt hệ tư tưởng, bên cạnh sự thống trị về mặt kinh tế và chính trị, bằng cách tạo ra sự "đồng thuận" (consensus) của các giai cấp bị trị trong lòng xã hội dân sự.

    Quan niệm này của Gramsci đã phát triển một cách phong phú và sâu sắc luận điểm của Marx và Engels trong quyển Hệ tư tưởng Đức (1845): "Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. (...) Chừng nào họ [tức giai cấp thống trị] thống trị với tư cách là giai cấp và quyết định quy mô và phạm vi của một thời đại lịch sử thì dĩ nhiên là họ thống trị về mọi mặt, cho nên ngoài ra, họ cũng thống trị với tư cách là những người đang tư duy, là những người sản xuất ra tư tưởng, điều tiết sự sản xuất và sự phân phối những tư tưởng của thời đại họ; bởi vậy, những tư tưởng của họ là những tư tưởng thống trị của thời đại" (C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1995, tr. 66-67).

    Định nghĩa của Antonio Gramsci về xã hội dân sự gần như luôn luôn đi đôi với, và chỉ có thể hiểu được, trong mối quan hệ với khái niệm xã hội chính trị hay nhà nước. Trong Các lá thư trong tù, Gramsci cho rằng khái niệm nhà nước, vốn thường được hiểu như là sự "chuyên chính",[15] cần được hiểu là "sự cân bằng giữa xã hội chính trị với xã hội dân sự, hay là sự thống lãnh (hégémonie) của một nhóm xã hội đối với toàn thể xã hội quốc gia, một sự thống lãnh được thực hiện thông qua các tổ chức tư nhân như giáo hội, các nghiệp đoàn, các nhà trường, v.v."[16] Nếu đối với Marx, xã hội dân sự là nơi biểu hiện tập trung nhất phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì đối với Gramsci, xã hội dân sự là nơi hiện thực hóa chức năng "thống lãnh" về hệ tư tưởng cũng như về chính trị của nhà nước. "Xã hội chính trị" (tức nhà nước) là nơi thực hiện chức năng cưỡng chế, còn "xã hội dân sự" là nơi thực hiện chức năng quyền lực về mặt hệ tư tưởng. Chính vì thế, theo ông, "nhà nước chỉ là một đường hào tiền tiêu, phía sau nó mới là một chuỗi vững chắc các chiến lũy và pháo đài" (dẫn lại theo Cot và Mounier, 1974, tr. 60). Tuy nhiên, theo Gramsci, cả xã hội chính trị (tức nhà nước theo nghĩa hẹp) và xã hội dân sự đều thuộc về nhà nước "theo nghĩa rộng", như ông tóm tắt trong câu sau: "Nhà nước/quốc gia [État] = xã hội chính trị + xã hội dân sự, nghĩa là sự thống lãnh được bọc sắt bằng sự cưỡng chế" (Gramsci, 1975, tr. 577).[17]

    Như vậy, chúng ta có thể thấy định nghĩa của Gramsci về xã hội dân sự chủ yếu là một định nghĩa triết học chính trị hay xã hội học chính trị, và ông luôn luôn phản bác quan niệm "duy kinh tế" về xã hội dân sự vốn thường thấy nơi các nhà kinh tế học theo trường phái tự do khi họ sử dụng quan niệm này để phủ nhận vai trò điều tiết hay can thiệp của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế-xã hội. Theo Gramsci, sự phân biệt giữa xã hội dân sự với nhà nước là một sự phân biệt về mặt phương pháp luận, nghĩa là trên bình diện lý thuyết trừu tượng, còn trong thực tế, xã hội dân sự và nhà nước là hai cái luôn gắn quyện với nhau, xâm nhập vào nhau. Ông viết: "Các quan điểm của trào lưu mậu dịch tự do đặt nền tảng trên một sự sai lầm lý thuyết mà người ta không khó nhận ra nguồn gốc thực tiễn của nó: [đó là dựa trên] sự phân biệt giữa xã hội chính trị và xã hội dân sự, vốn từ chỗ phân biệt mang tính phương pháp luận chuyển sang một sự phân biệt máy móc (...). Chính do vậy mà người ta khẳng định rằng hoạt động kinh tế là cái chỉ thuộc về xã hội dân sự và rằng nhà nước không được can thiệp bằng cách điều tiết nó. Nhưng, vì trong thực tế hiện thực, xã hội dân sự và nhà nước đồng hóa với nhau [s'identifient], nên chúng ta buộc phải thừa nhận rằng hệ thống mậu dịch tự do chính nó cũng là một sự 'qui định hóa' [réglementation] mang dấu ấn của nhà nước, do các luật lệ và sự cưỡng chế đưa ra và duy trì" (Gramsci, 1975, tr. 469). Với câu này, chúng ta thấy cách hiểu của Gramsci về xã hội dân sự bao hàm cả các hoạt động kinh tế, như nhận xét của Jacques Texier nói trên.

    Chúng ta có thể nhận thấy rằng, đến Gramsci, quan niệm về xã hội dân sự đã khác rất xa so với những định nghĩa ban đầu của John Locke hay Adam Smith. Thuật ngữ civil society từ chỗ mang nội hàm đồng hóa với nhà nước/quốc gia nơi Pufendorf hay Locke nhằm thoát ra khỏi sự áp chế của những chế độ quân chủ và thần quyền, chuyển sang nội hàm xã hội của những quan hệ thị trường nơi Ferguson hay Adam Smith, rồi tách ra khỏi nhà nước kể từ Benjamin Constant và Hegel, mang nội dung "xã hội thị dân" của những quan hệ kinh tế nơi Hegel, đến "xã hội tư sản" mang nội dung đấu tranh giai cấp nơi Marx, để rồi cuối cùng mang nội dung "xã hội dân sự" mang tính chất chính trị và "thống lãnh" về mặt tư tưởng của giai cấp tư sản nơi Gramsci.

    Diễn trình chuyển biến của khái niệm "xã hội dân sự" hoàn toàn không phải ngẫu nhiên hay tự phát. Có thể nói như Anil Louis-Juste rằng toàn bộ lịch sử "biến thể lý thuyết" [transsubstantiation théorique] của khái niệm "xã hội dân sự" qua các tác giả cổ điển nêu trên thực chất mang tính chất ý thức hệ [idéologique], bởi lẽ lịch sử này tương ứng với những quá trình đấu tranh chính trị: "Như vậy, người ta có thể hiểu rằng ý niệm về xã hội dân sự phản ánh những hoàn cảnh cụ thể đang tồn tại; nó biểu hiện tình hình đấu tranh xã hội diễn ra trong những thời cơ nhất định" (Louis-Juste, 2006).

    Sang thế kỷ XX, những sự chuyển hóa về nội dung của thuật ngữ này vẫn còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ cho đến tận ngày nay mà chúng tôi sẽ đề cập trong một bài khác.

    TPHCM, ngày 11-6-2009

    T.H.Q.

    * Bài viết này là một phần của bài nghiên cứu chuyên đề được thực hiện cho đề tài nghiên cứu cấp Bộ mang tên là "Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội dân sự" của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam do PGS.TSKH Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm.

    [1] Xem phần chú giải về thuật ngữ Bürger trong Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, 2008, tr. 423.

    [2] Theo Guy Berger, "La société civile et son discours" (từ bài I đến bài VI), trong Commentaire, từ số 46 đến số 52, năm 1989-1990, dẫn lại theo Jean-Joseph Régent, trong http://www.nantes-citoyennete.com/.

    [3] Z.A. Pelczynski, "The significance of Hegel’s separation of the state and civil society", in Z.A. Pelczynski (Ed.), The State and Civil Society, Cambridge University Press, 1984, dẫn lại theo Babi, 1998.

    [4] P.F. Moreau, "Société civile et civilisation", in F. Châtelet, Histoire des idéologies, Hachette, 1978, dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 16.

    [5] Immanuel Kant, Schriften zur Rechtstheorie, dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 20.

    [6] Immanuel Kant, Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức, 2006, §83, tr. 468.

    [7] Xem thêm đoạn diễn giải sau đây của Bùi Văn Nam Sơn và Nguyễn Ngọc Giao: "Trong xã hội hiện đại, quyền và hạnh phúc cá nhân đã có được vị trí chính đáng độc lập với lợi ích của toàn bộ xã hội. Việc theo đuổi lợi ích của toàn bộ xã hội này đòi hỏi một loại định chế xã hội mới mẻ, trong đó sự tham gia của cá nhân trong đời sống xã hội phải được trung giới thông qua ý chí tự do lựa chọn của cá nhân và phải diễn đạt được ý kiến chủ quan của cá nhân (Sđd, §206). Hegel gọi định chế xã hội mới mẻ ấy là bürgerliche Gesellschaft" (Nguyễn Ngọc Giao, 2009).

    [8] "Das Moment" là một chữ khó dịch và được nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn dùng chữ phiên âm là "mô-men", với lời giải thích như sau: mô-men "vừa là yếu tố bản chất hay phương diện (Seite) của một toàn bộ xét như một hệ thống tĩnh tại, vừa là một giai đoạn bản chất trong một toàn bộ xét như một tiến trình vận động biện chứng" (xem Hegel, 2006, chú thích số 8 của Bùi Văn Nam Sơn, tr. 4-5).

    [9] Bùi Văn Nam Sơn, phần chú giải về sự phân biệt giữa khái niệm "giác tính" và khái niệm "lý tính" theo Hegel (xem Hegel, 2006, tr. 563-566).

    [10] Ở đây, bản dịch của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sử dụng cụm từ "xã hội công dân" để dịch thuật ngữ bürgerliche Gesellschaft, nhưng chúng tôi cho rằng đáng lý phải dịch là "xã hội thị dân" thì mới chính xác hơn, nhất là trong dòng mạch tư tưởng của Hegel.

    [11] Karl Marx, Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel (đoạn này do chúng tôi dịch lại, T.H.Q.) (những chỗ nhấn mạnh là do Marx). Chữ Abstraktion trong câu này cũng có thể được dịch là "sự trừu xuất". Bản dịch câu này của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia là như sau: "Sự trừu tượng của nhà nước với tính cách là nhà nước chỉ là đặc trưng của thời cận đại, vì sự trừu tượng của đời sống tư nhân chỉ là đặc trưng của thời cận đại thôi. Sự trừu tượng của nhà nước chính trị là sản phẩm của thời đại ngày nay." (C. Mác, 1995, tr. 353). Việc dịch từ Abstraktion trong đoạn này là "sự trừu tượng" theo chúng tôi là không ổn và vì thế làm cho câu này trở nên khó hiểu.

    [12] Theo bản dịch của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, ở câu đầu của đoạn này, thuật ngữ bürgerliche Gesellschaft được dịch là "xã hội công dân", nhưng ở câu cuối thì lại được dịch là "xã hội tư sản", và các dịch giả chú thích thêm rằng thuật ngữ bürgerliche Gesellschaft bao hàm cả hai nghĩa này. Chúng tôi cho rằng ở đoạn này, nên dịch bürgerliche Gesellschaft là "xã hội thị dân" hoặc "xã hội tư sản" ở cả câu trên lẫn câu dưới thì mới xác đáng.

    [13] Theo B. Badie, P. Birnbaum, Sociologie de l'Etat, Le livre de poche, coll. Pluriel, 1983, tr. 15, dẫn lại theo Rangeon, 1986, tr. 26.

    [14] Thuật ngữ hégémonie (tiếng Pháp, hay hegemony tiếng Anh, egemonia tiếng Ý) lâu nay thường được dịch trong tiếng Việt là "bá quyền", nhưng trong bối cảnh tư tưởng của Gramsci, chúng tôi cho rằng nên dùng chữ "thống lãnh" thì xác đáng hơn, phân biệt với khái niệm "thống trị" (domination) hay khái niệm "lãnh đạo" (direction).

    [15] Gramsci phân biệt rất rõ giữa sự "chuyên chính" (dictature) với sự "thống lãnh" (hégémonie): chế độ chuyên chính là một chế độ mà trong đó một nhóm thực hiện sự thống trị xã hội (domination) bằng cách chiếm giữ bộ máy nhà nước, chứ không thống lãnh được xã hội bằng sự lãnh đạo (direction) về mặt ý thức hệ. Một giai cấp nắm giữ sự thống lãnh có thể đến một lúc nào đó đánh mất và để rơi sự thống lãnh này vào tay một giai cấp khác, và lúc đó nó chỉ còn duy trì sự thống trị của mình bằng sự cưỡng chế của nhà nước mà thôi; đó là trường hợp của chế độ phát-xít của Mussolini ở Ý (xem Cot và Mounier, 1974, tr. 60-61).

    [16] Antonio Gramsci, Lettres de la prison, bản dịch từ tiếng Ý ra tiếng Pháp của J. Noaro, Paris, Ed. Sociales, 1953, thư số 89, tr. 313, dẫn lại trong Gramsci, 1975, tr. 148-149.

    [17] "Etat = société politique + société civile, c'est-à-dire hégémonie cuirassée de coercition". Từ État (tiếng Pháp) hay State (tiếng Anh) cũng có nghĩa là quốc gia, nước, chứ không chỉ có nghĩa là nhà nước. Vì thế, chữ État trong câu trên đây cần được hiểu thiên về nghĩa "quốc gia" chứ không phải là nhà nước theo nghĩa hẹp.

    Tài liệu tham khảo

    1. ABERCROMBIE Nicholas, Stephen Hill, Bryan S. Turner. 1988. The Penguin Dictionary of Sociology, 2nd edition, London, Penguin Books.

    2. BABI Loghman Pireh. 1998. "Reflections on the Role of Civil Society in the Democratisation Process of Third World Countries", IDS (Phần Lan), Working Paper, 10/1998, www.valt.helsinki.fi/kmi/Julkais/WPt/1998/ WP1098.HTM.

    3. CHEVALIER Jacques et al. 1986. La société civile, Paris, Presses Universitaires de France.

    4. COT Jean-Pierre, et Jean-Pierre Mounier. 1974. Pour une sociologie politique, tome 2, Paris, Ed. Seuil.

    5. DUPIRE Philippe. 1986. "Famille, besoin, travail et société civile chez Hegel", in Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France.

    6. GRAMSCI Antonio. 1975. Gramsci dans le texte, François Ricci et Jean Bramant (Ed.), traduit par J. Bramant, G. Moget, A. Monjo, F. Ricci, Paris, Ed. Sociales.

    7. HEGEL Georg W. F. 1952. Philosophy of Right, translated by T. M. Knox, Clarendon Press.

    8. HEGEL Georg W. F. 1986. Principes de la Philosophie du Droit, traduit par Robert Derathe, Librairie Philosophique J. Vrin.

    9. HEGEL Georg W. F. 2006. Hiện tượng học tinh thần (Phänomenologie des Geistes), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Văn học.

    10. KANT Immanuel. 2006. Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft), Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức.

    11. LOCHAK Danièle. 1986. "La société civile: du concept au gadget", in Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France.

    12. LOUIS-JUSTE Anil. 2006. "La société civile hier et aujourd’hui", in Alter Presse, 12-1-2006, 16-1-2006, 20-1-2006 et 25-1-2006, http://www.alterpresse/. org.

    13. MÁC C. 1995. "Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen", trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 1, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia.

    14. MÁC C. và Ph. Ăng-ghen. 1995. "Hệ tư tưởng Đức", trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 3, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật.

    15. MARX Karl. 1972. Contribution à la critique de l’économie politique, traduit par Maurice Husson, Paris, Éd. Sociales.

    16. Nguyễn Ngọc Giao. 2009. "Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam", Tạp chí Thời đại mới, số 15, 3-2009, http://www.tapchithoidai.org/.

    17. RANGEON François. 1986. "Société civile: histoire d'un mot", in Jacques Chevalier et al., La société civile, Paris, Presses Universitaires de France.

    18. SCRUTON Roger. 1982. A Dictionary of Political Thought, London, Pan Books.

    19. TEXIER Jacques. 2000. "Une lettre de clarification de Jacques Texier", in International Gramsci Society Newsletter, No 11, December.

    20. WEBER Max. 2008. Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản, bản dịch tiếng Việt của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang, Hà Nội, Nxb Tri thức.

    27-10-09 -

    Tạp chí Khoa học xã hội, số 07 (131), 2009

Trả Lời Với Trích Dẫn Bài này nảy ra trong đầu người viết sau khi đọc một bài báo trong Le Monde vào đầu năm nay (24-2-2004) nhan đề: “Sự thức tỉnh công dân của người Trung Quốc”. Bài báo tóm tắt và bình luận một bài viết của một tác giả Trung Quốc, Qiu Feng, đăng trong một tạp chí Trung Quốc, Zinwen Zhoukan, nói về “phong trào tranh đấu mới đang xảy ra hiện nay cho dân quyền” tại láng giềng của chúng ta. “Phong trào”! “tranh đấu”! “dân quyền”! Nghe mà phát sợ! Xin minquan xingdong! Tân dân quyền hành động! Muốn đọc nguyên văn bài viết, nhưng không phải ai cũng thông như cụ Tú Xương, cống hỷ méc xì đây thuộc cả, cho nên đành dựa theo báo Tây để tóm tắt lại chuyện Tàu.

Tác giả Qiu Feng phân tích hơn chục vụ việc đã gây xôn xao trên báo chí Trung Quốc trong năm 2003. Một số những vụ việc đó chẳng có gì mới, vẫn là địa phương nhũng lạm, công an bắt người trái phép: hoặc bắt người rồi lỡ tay đánh chết, hoặc bắt người rồi giam lâu quá, con trẻ ở nhà chết đói, hoặc bắt người vì có chút tư tưởng hơi khác, chuyện quen thuộc cả. Cái mới là trước đây chẳng ai nghĩ đến việc phải làm rùm beng, bây giờ trở thành chuyện phải nói trong dư luận, trong báo chí. Một số vụ việc khác mới hơn: tranh đấu để có thêm ứng cử viên độc lập trong những bầu cử địa phương; tranh đấu để bảo vệ quyền sở hữu nhà cửa... Mới hay cũ, tất cả các vụ việc đó đều mang ba đặc tính: quy tụ được một dư luận quần chúng; kết tinh được một nhu cầu tôn trọng pháp luật; thúc đẩy được một chính quyền trung ương, lúng túng giữa mở và khép, thỉnh thoảng phải can thiệp để sửa sai các quan chức địa phương, tác giả các vụ việc gây phẫn nộ. Đó là quang cảnh mới diễn ra trước sân khấu. Đàng sau sân khấu là một tấm phông vĩ đại vẽ lên bao nhiêu dâu biển của thời thế: đô thị bành trướng, doanh nghiệp Nhà nước đang đóng hòm, nông thôn khủng hoảng, dân quê kéo nhau lên thành phố, giai cấp trung lưu áo mũ xênh xang, tầng lớp doanh nhân cất mình bay bổng ... Cái mới ngày nay là càng ngày càng đông dân chúng ý thức phải có luật lệ trong một xã hội đang quá xáo trộn. Chơi còn phải có luật chơi, huống hồ làm ăn! Giữa tấm phông đó, linh động một lớp người mới, một nghề mới: các luật gia. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một trong hai “ứng cử viên độc lập” được bầu vào ủy ban nhân dân địa phương ở Bắc Kinh là một luật gia.

Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà một luật gia khác, He Weifang, giáo sư luật ở Đại học Bắc Kinh (Beida), cầm đầu chiến dịch đòi hủy bỏ các trại giam nhốt các cô cậu bụi đời. Gọi là tạm giam hành chánh, có người bị ngược đãi đến chết trong đó. Ai tố cáo những vi phạm đó nếu không phải là luật sư? Cho nên “kinh tế gia thống trị trong giai đoạn những năm 90; luật gia sẽ thống trị trong những năm 2000”. Mạnh Đức Tư Cưu đâu, hãy sống lại để nghe tác giả bài báo Trung Quốc tuyên bố như vậy. Lột xác qua kinh tế thị trường, xông xáo hết mình vào toàn cầu hóa, chơi nhanh và chơi trội trong WTO, Trung Quốc định tăng gấp đôi số luật sư hiện có (150.000) vào năm 2010. Từ 1999, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” được đưa vào Hiến pháp, tuy là cốt lập kỷ cương trong địa hạt kinh tế, nhưng ai biết lúc nào thì biên giới kinh tế mở ra đón nhận những chuyện chính trị lôi thôi? Thật ra “Nhà nước pháp quyền” cũng chẳng mới gì; nó đã được khai sinh từ thời Đặng Tiểu Bình, nhưng không phát triển nổi vì báo chí bị kẹt. Cái mới của ngày hôm nay là khái niệm an ninh luật pháp được mạng lưới internet hỗ trợ. Internet! 80 triệu con chuột! Mèo nào bắt cho hết!

Trong các vụ việc nêu lên ở trên, phẫn nộ ào ào thổi trên mạng lưới. Cũng như nhiều vụ việc khác xảy ra về sau: một phu nhân lái xe BMW cán chết một phụ nữ nông thôn; một trùm mafia được tòa án xử khoan hồng... Internet đi trước, báo chí lội nước đi sau, bất công không thể dìm được như trước. Khác với những năm 80, cao trào phản đối vi phạm dân quyền mang nhiều hình thức mới: khỏi cần mất công phối hợp, tổ chức; xuất nhập thiên biến vạn hóa; khỏi cần phất cờ ý thức hệ, cũng khỏi tạc tượng nữ thần Tự Do. Ý thức hệ làm quái gì? Chỉ cần hô to: áp dụng pháp luật! Bởi vì pháp luật đã có sẵn rồi! Đầy tràn trong Hiến pháp! Cái gì ta chẳng có? Chỉ thiếu thực hiện thôi! Cho nên đây không phải là đối lập. Đây là tuân thủ luật pháp. Chỉ có luật, luật và luật, ngoài ra không có gì khác. Tri pháp uý pháp! He Weifang tuyên bố với Le Monde: “Chúng tôi chuộng kỹ thuật và có tinh thần trách nhiệm hơn hồi 1989”.

Tôi không biết phong trào của những He Weifang có tương lai gì không, chỉ thấy rằng đó là cách hành động ít không tưởng nhất. Cái mới ở đây là họ bám sát vào những tranh đấu xã hội cụ thể - xã hội chứ không phải chính trị - và lựa chọn lĩnh vực xã hội để hoạt động chứ không phải lĩnh vực Nhà nước. Thay đổi bộ máy Nhà nước ở trên cao là chuyện lấp biển vá trời, họ không màng. Họ quét dọn rác rưởi ở cấp cuối cùng của bực thang. Ấy cũng là áp dụng chính sách của Mao trước đây: trí thức phải đi vào quần chúng. Ngày trước họ bị “đi vào” để được quần chúng cải tạo. Ngày nay họ huýt gió đi vào, với cái mộng cải tạo xã hội. Một “cách mạng nhung lụa” đang diễn ra ở Trung Quốc, như Le Monde viết? Một phong trào xã hội có thể làm thay đổi “sinh thái chính trị” như Xinwen Zhoukan tuyên dương? Trong lịch sử - tờ báo viết - những phong trào xã hội lớn thường chẳng bắt đầu như thế sao, khởi thủy đâu mấy ai để ý?

Tác giả Qiu Feng nêu lên một kinh nghiệm sống của vấn đề thời sự được mệnh danh trong học thuyết và thực tiễn chính trị là “xã hội dân sự” hoăc “xã hội công dân”. Vấn đề có từ lâu, từ lâu lắm rồi, từ trước thế kỷ 18, Hegel và Marx kế tiếp đào sâu, rồi trở nên thời sự từ những năm 80, khi các phong trào chống đối ở Đông Âu tập hợp các đoàn thể - nghề nghiệp, tôn giáo, trí thức, nhân quyền, môi trường ... – nhân danh khái niệm đó để đả kích các Nhà nước áp bức, đòi dân chủ. “Xã hội dân sự “, được hiểu như một tác nhân lịch sử mới, đối nghịch với Nhà nước, lan tràn khắp thế giới sau đó. Trung Quốc 2004 là một mô hình đơn sơ nhất, “hòa bình” nhất, hiền lành nhất, hiền lành quá, em hiền hơn cả ma xơ. Tôi mượn chuyện Trung Quốc làm nhập đề để lướt nhìn qua những kinh nghiệm khác, không có tham vọng đi sâu vào vấn đề và xin hạn chế vào hai khía cạnh thôi, hai mối liên hệ: liên hệ giữa xã hội dân sự và các hội đoàn phi chính phủ; liên hệ giữa xã hội dân sự và Nhà nước trong ước mơ cải tổ. Tất nhiên Việt Nam cũng đang có kinh nghiệm sống này; tôi nói chuyện người để rút cái hay cái dở.

***

Bức tường Bá Linh sụp đổ, ngọn gió “xã hội dân sự” từ Đông Âu thổi ào qua Phi Châu, rồi qua Trung Á, nơi Liên Xô đang gặp khó khăn ở Afghanistan, qua Trung Đông, mang theo, trong khái niệm đó, hồi kèn thắng trận của chủ nghĩa tự do. Phi Châu là xứ của nghèo đói, lạc hậu, lệ thuộc, áp bức, độc tài, bóc lột, thối rữa, hút máu. Nhà nước do thực dân để lại chỉ là tài sản của người cầm quyền. Luồng gió Đông Âu làm họ run. Bỗng dưng “xã hội dân sự” đến với họ như một đe dọa cụ thể. Phủ định của Nhà nước, khái niệm đó trở thành khẩu hiệu đầu môi của mọi phong trào chống lại Nhà nước, nhất là của các tổ chức viện trợ quốc tế, chính phủ cũng như phi chính phủ. Họ nói với các nhà cầm quyền Phi Châu: ông phải sửa đổi thì tôi mới cấp tiền; ông không good govermance thì tôi cấp tiền thẳng cho các tổ chức xã hội, nghĩa là cho “xã hội dân sự ”. Đi với “xã hội dân sự” là chính sách não tủy của các tổ chức “nhân đạo” Tây phương, ở Phi châu cũng như ở Trung Á, Trung Đông. Nhất loạt, họ chỉ trích Nhà nước, xem như khái niệm nhập cảng từ Tây phương, chỉ xã hội mới là thực thể. Đúng quá, nhưng “xã hội dân sự” không phải là xã hội: đó cũng là khái niệm nhập cảng từ Tây phương và chính Tây phương cũng chưa định nghĩa được là gì, bao gồm những ai. Thế thì phải tìm cách định nghĩa trong môi trường hoạt động mới. Ai định nghĩa? Làm sao định nghĩa một khái niệm khi nó vừa là khái niệm trừu tượng vừa là khí giới cụ thể, vừa là chiến lược lại vừa là ý thức hệ? Đây là công việc của đầu não tư tưởng, nghĩa là của các Quỹ, các Foundations quốc tế lo về phát triển: Ford, Carnegie, Rockefeller, Endowment for Democracy, kể cả Agribusiness Volunteers Program for the Citizen Network for Foreign Affairs được công đoàn nông dân bự của Mỹ tài trợ. Họ tài trợ các chương trình nghiên cứu. Họ tài trợ các hoạt động tại chỗ của các tổ chức phi chính phủ. Nghiên cứu đại học đi đôi với hoạt động chính trị-xã hội: viện Ibn Khaldoun ở thủ đô Ai Cập là một ví dụ. Liên Hiệp Âu Châu, theo gót Chương Trình Phát Triển của LHQ (UNDP) và của Ngân Hàng Thế Giới, cũng tài trợ các tổ chức phi chính phủ địa phương. Hình ảnh của các tổ chức phi chính phủ thường được gắn liền với các hoạt động nhân đạo, nhưng nếu nhìn kỹ tại chỗ thì số lượng các Phi Chính Phủ thuần túy nhân đạo và y tế xấp xỉ số lượng các Phi Chính Phủ hoạt động cho những dự án xã hội. Hơn nữa, các Phi Chính Phủ nhân đạo thường mở ra thêm một hoạt động song song nhắm “tạo ra” xã hội dân sự: cấp học bổng qua Âu châu, giúp xuất bản báo chí, khuyến khích suy nghĩ về dân chủ, nhân quyền... Trên đường hướng đó, Médecins Sans Frontières đã sáng tạo ra Fondation Liberté Sans Frontières. Người tài trợ, tác nhân lịch sử, và lắm khi người sáng tạo ra khái niệm chỉ là một. Vô ra thằng cha khi nãy ...

Các Phi Chính Phủ được khai sinh như thế ở Trung Á hoạt động trên ba điểm: tư hữu hóa, như giúp các nông dân độc lập; tạo không gian “công”, như giải phóng phụ nữ, mở mang báo chí; lần mò vào hang cọp chính trị, như dân chủ hóa, huấn luyện bầu cử. Kết quả là họ cũng tạo được một vài tủ kính trưng bày thành tích dân chủ, nhưng đàng sau tủ kính thường là một thực tế trái ngược. Các chương trình tư hữu hóa nông trường tập thể (kolkoze) chẳng đưa đến đâu, mà nếu có đến thì lại tái lập một giai cấp đại địa chủ gồm các cựu chủ tịch kolkozes: các vị này là kẻ hưởng lộc, hoặc nhờ giữ nguyên khuôn khổ hoạt động kỹ thuật cũ ( kiểm soát đất đai, nước, hạt giống, phân bón, dụng cụ nông nghiệp...), hoặc biết lợi dụng địa vị để được cấp đất đai thượng đẳng với những điều kiện tối hảo, biết móc ngoặc với chính quyền để hưởng tín dụng, giảm thuế má. Chính họ, chứ không phải nông dân: nông dân vẫn là kẻ làm thuê, là tá điền trên đất nhỏ hơn trước. Ai là xã hội dân sự?

Tình trạng trí thức làm việc cho các Phi Chính Phủ đó cũng là vấn đề. Họ được lương cao hơn dân bản xứ, gặp lôi thôi với các chính quyền sở tại thì được làm rùm beng, được chuyển đi nơi khác, nghĩa là họ góp phần vào việc làm chảy máu chất xám. Nhiều trí thức đánh mất luôn cả thiên chức trí thức khi được tuyển để làm những việc thừa hành, như viết báo cáo, dù là báo cáo về tình trạng dân chủ, nhân quyền. Họ là cộng tác viên bản xứ của các mạng nhện liên quốc gia, không phải là nhân tố nội tại của một nền dân chủ đích thực, sao gọi là xã hội dân sự được? Nhiều Phi Chính Phủ nuôi chính trị gia tập sự chờ ngày thay thế độc tài trong viễn ảnh dân chủ hóa. Họ nuôi như nuôi gà đá, quên mất rằng gà đá thì phải ra sân thường xuyên, nuôi mãi trong lồng nó đá hết nổi, chạy thôi.

Khi quốc tế xen vào như thế để làm bà mụ cho “xã hội dân sự ”, hơn thế nữa, để cho hài đồng mượn bụng từ trứng của mình, họ cũng cho mượn luôn cả tư tưởng về Nhà nước. Nhà nước bị chỉ trích như là một định chế. Một định chế vô ích, vô dụng, cái gì “công” là hỏng bét, sáng kiến là “tư “, năng nổ là “tư ”, tinh hoa là các hội đoàn ở gốc ngọn cỏ, grass-root là đỉnh cao của trí tuệ mới, xã hội dân sự là gốc của phát triển. Nói thế không sai hẳn, chỉ lồ lộ trong ngọc trắng ngà hệ ý thức tân tự do: Nhà nước là hiện thân của cưỡng bức, xã hội dân sự là hiện thân của tự do, bên này lớn thì bên kia nhỏ. Ôi Phi Châu hỡi Phi Châu, dẹp độc tài, dẹp bất lực, đâu có phải là vất Nhà nước vào sọt rác? Trái lại ấy chứ! Ví thử dùng xã hội dân sự để chống Nhà nước độc tài, để dân chủ hóa: đến một giai đoạn nào đó của tiến trình tranh đấu, làm sao xã hội dân sự làm trọn vai trò dân chủ của mình nếu không tham gia vào bầu cử, vào sinh hoạt chính đảng, vào đời sống chính trị, nghĩa là vào xã hội chính trị? Cho rằng xã hội dân sự cứ tồn tại ở mức tự túc, tự quản là tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc người, nếu không phải là nuôi ý định xây dựng quốc gia trong quốc gia như các tổ chức tôn giáo vẫn có trong đầu. Xã hội dân sự có thể tự chủ, nhưng giữa nó và xã hội chính trị phải có qua có lại nếu muốn nói dân chủ. Tình trạng xã hội nuốt trọn Nhà nước là tình trạng gì, các ông Phi Chính Phủ biết rõ hơn ai hết: ấy là tình trạng vô chính phủ. Ấy là Somalie, là Libéria, là Sìerra Leone, là Rwanda, là Congo, là Hutu-Tutsi, là người giết người như ngoé. Hễ Nhà nước yếu thì xã hội dân sự cũng yếu, không đủ sức chế ngự, kiểm soát, vận động tiến lên dân chủ một tập thể bát nháo, hỗn loạn. Ngược lại, hễ xã hội dân sự mạnh, nó tham gia chính trị, nó làm vững chắc Nhà nước, nó tạo tính chính đáng cho Nhà nước, nó thúc đẩy Nhà nước dân chủ. Hình như Ngân Hàng Thế Giới, tổng hành dinh của chủ thuyết tự do, đã thấm bài học Phi Châu rồi. Biểu lộ qua sách vở, tác giả Th. Skocpol hô hào khẩu hiệu mới: Bringing the State back in! Trả lại Nhà nước cho Phi Châu! Họ chỉ no độc tài thôi và ai cũng đói Nhà nước dân chủ.

***

Trong các nước Hồi giáo, khái niệm xã hội dân sự lại còn rắc rối hơn nữa vì ngoài cách nhìn của tự do chủ nghĩa mà ở đâu cũng có người chủ trương, còn cách nhìn của các lực lượng Hồi giáo, và trong lòng các lực lượng này, có phe cực đoan hơn, có phe phóng khoáng hơn, càng nhiều phe phái càng lắm trường ốc, tuy tất cả đều lấy danh nghĩa xã hội truyền thống. Như vậy là có thêm phân biệt nữa: xã hội truyền thống không phải là xã hội dân sự hay công dân.

Nói chung, và để đơn giản hóa vấn đề, theo cách nhìn cực đoan, xã hội truyền thống đã có sẵn phương pháp để giải quyết tranh chấp và tạo dựng một không gian chính trị khác với các chế độ độc tài hiện hữu. Vậy thì Nhà nước không cần can thiệp. Một ví dụ: luật Hồi giáo charia. Charia đã có sẵn rồi, đâu cần Nhà nước, đâu cần có cái gọi là Nhà nước, đâu cần biết đến khái niệm Nhà nước! Đâu cần phải có Nhà nước làm ra luật để áp dụng charia. Ăn cắp, ngoại tình (đàn bà thôi) ... đã có charia trừng trị; chặt tay, hành quyết đã được minh định hẳn hoi, các đoàn thể - gia đình, xã hội ... - cứ thế mà áp dụng. Cách nhìn này củng cố vị thế tự quản của xã hội truyền thống chống lại Nhà nước, hay ít nhất cũng hạn chế Nhà nước, xem như đáng nghi.

Phóng khoáng hơn, cách nhìn thứ hai vừa chống độc tài vừa chống cực đoan. Cũng nhấn mạnh vị thế tự trị của tôn giáo, khuynh hướng này muốn đúc kết và phát triển một hạt nhân Hồi giáo trong lòng xã hội truyền thống, xã hội truyền thống và “xã hội Hồi giáo” không nhất thiết đồng nhất. Cái mới của khuynh hướng này là nêu cao sự lựa chọn tự ý của tín đồ trong lĩnh vực công dân khi phải tham gia vào chính trị. Lòng tin tôn giáo là nền tảng của xã hội và của cả tự do cá nhân; xã hội đoàn kết, củng cố là nhờ xây dựng trên lòng tin. Cũng vậy, hễ có lòng tin dẫn đường chỉ lối thì sự tham gia vào chính trị của tín đồ sẽ không còn tính cách ràng buộc nữa mà thành ra tự ý, tự do. Trong xã hội, lòng tin còn khiến cho tính tôn giáo tách ra khỏi những ràng buộc truyền thống của gia đình, bộ tộc, chức sắc. “Xã hội dân sự Hồi giáo” là một xã hội gồm những công dân mà tương quan với Nhà nước không còn phải đi qua trung gian của các chức sắc tôn giáo, tuy họ là những công dân có tín ngưỡng và khi bầu phiếu lấy tín ngưỡng làm gốc, dập tắt các đam mê khác, kể cả đam mê ý thức hệ. Nước Mỹ đã xây dựng trên các công dân Tin Lành Puritains, tại sao các nước Hồi giáo không xây dựng được trên những công dân Hồi giáo?

Dựa trên cam kết cá nhân như thế, khuynh hướng này nhắm phát triển những tổ chức liên đới, những mạng lưới hoạt động dệt bằng tham gia tự nguyện tương tự như những tổ chức tôn giáo của Mỹ. Trên thực tế, khi các người Hồi giáo ngày nay nói “xã hội dân sự “, họ nghĩ đến những mạng lưới, những không gian chống đối tự quản, tự chủ, trong đó tương quan phe cánh, bộ tộc không thiếu vắng. Fis, Rafah, Hezbollah được tổ chức như vậy. Đây cũng là một thứ xã hội dân sự chống lại Nhà nước, không đi xa hơn trong việc tổ chức chính trị thành quốc gia. Một quốc gia có bao giờ chỉ bao gồm thuần nhất những người tự nguyện mà thôi đâu! Sinh hoạt chính trị có những quy luật rộng hơn, ít nhiều cưỡng bức chứ không phải chỉ tự nguyện, và mang một nội dung khác với nội dung “sống theo Hồi giáo” mà khuynh hướng này chủ trương.

Đó là những cách nhìn khác nhau về xã hội dân sự, khác nhau vì chiến lược đối với các Nhà nước hiện hữu không giống nhau. Nhưng dù định nghĩa xã hội dân sự như thế nào đi nữa, khí giới để xông trận đều cùng một thứ, toàn là xe pháo mã Phi Chính Phủ. Các nhà quan sát trố mắt ngạc nhiên trước sự bành trướng nhanh chóng của hiện tượng phi chính phủ ở các nước Hồi giáo Trung Đông, Trung Á. Ba loại hội đoàn có mặt khắp nơi. Thứ nhất là các advocacy NGO, khỏi cần nói ai cũng biết, can thiệp trong lĩnh vực nhân quyền, dân chủ, môi trường, phụ nữ ... Thứ hai là các hội đoàn kinh tế-xã hội. Toàn cầu hóa và tự do kinh tế khiến các chính quyền phải xoay vần theo tình thế, thả lỏng một số lĩnh vực hoạt động cho các đối tác phi chính phủ - quốc gia và quốc tế - để nhận tiền từ bên ngoài mà vẫn được tiếng là tín đồ thuần thành của good governance. Các Phi Chính Phủ này lãnh thầu các dự án phát triển: nước ở nông thôn, nhà cửa, y tế, tín dụng nhỏ ... Họ tập hợp được một số dân ai giúp thì theo, tiếp tay với chính quyền hoặc thay thế chính quyền mà giúp, tham gia vào cai quản hay cai quản bằng cách tham gia, tiếng Pháp gọi là gouvernance participative. Thứ ba là các hội đoàn tôn giáo – nghĩa là Hồi giáo. Họ kết hợp những hoạt động tương trợ, những sinh hoạt tôn giáo và những dự án chính trị để mệnh danh, và được xem là những hội đoàn “xã hội toàn diện", khác với hai loại trên chỉ nhắm những hoạt động đặc thù. Trên điểm này, họ tự cho là đã vạch ra đường nét của một “tập thể song song”, một xã hội công dân được quan niệm như giải pháp thay thế cho trật tự chính trị hiện hữu. Họ cho là có cơ sở để nói như vậy, vì mạng lưới của họ khá dày, quần chúng khá đông, quy tụ trong những tổ chức cổ truyền khá lớn, dự án chính trị “tân tiến”.

Đó là sơ lược về khái niệm và chiến lược xã hội dân sự. Bây giờ là kết quả. Các “xã hội dân sự” đó có giúp gì được vào công cuộc dân chủ hóa chăng? Có hai cách trả lời. Cách thứ nhất lạc quan: thế giới Ả Rập có vẻ đi vào một tiến trình tích cực của hai phát triển song song, về xã hội dân sự và về dân chủ. Tuy đang còn phôi thai, khi lên khi xuống, khi nắng khi mưa tùy thời tiết chính quyền, xã hội dân sự đã sống lại, đời sống chính trị đã mở ra, các đảng phái chính trị mọc thêm, bầu cử được tổ chức, Quốc hội không phải chỉ có một thành phần, cạnh tranh bắt đầu có, ít nhất cũng giữa bảo thủ và tiến bộ trong lòng các lực lượng Hồi giáo, phụ nữ được bầu vào các cơ quan dân cử. Trong vài nước, cuộc chơi tay ba Nhà nước / xã hội dân sự / xã hội tôn giáo cổ truyền đã loại ra khỏi vòng chiến xã hội dân sự, nhưng trong vài nước khác, như Jordanie, Koweit, Yémen, Liban, con đường dân chủ hóa sáng sủa hơn, xã hội dân sự thương thuyết với Nhà nước để làm cải cách và đọ sừng với quá khích không cho lấn tới.

Cách trả lời thứ hai thận trọng hơn. Tính cách đa nguyên vừa nói rất hạn chế, bị kiểm soát chặt chẽ, hữu danh vô thực. Đây chưa phải là dân chủ hóa mà chỉ là mở dây thòng lọng cho dễ thở, libéralisation. Cũng chẳng phải xã hội dân sự là đầu mối của thay đổi; thay đổi phát xuất từ chính sách của nhà cầm quyền dù ở Ai Cập, ở Jordanie, ở Koweit, ở Tunisie hay ở Maroc, tùy lúc mà thắt hay mở: cái thòng lọng mở ra chính là để tránh dân chủ hóa. Nếu so sánh với chính sách mở thòng lọng tương tự trước đây ở các nước Nam Mỹ - Brésil, Uruguay, Chili - tiến trình đang diễn ra ở các nước Ả Rập cũng giống như cô gái đẹp ngủ trong rừng dụi mắt thức dậy nhưng bàng hoàng chẳng biết có ai hôn chưa.

 Bây giờ, tôi nói về xã hội dân sự ở một nước gần chúng ta hơn, cũng Hồi giáo nhưng ở Đông Nam Á với chúng ta: Indonesia. Ai cũng còn nhớ, nước này lật đổ Suharto năm 1998, vẫy tay từ giã độc tài, hồ hởi bước vào con đường dân chủ hóa. Trong suốt giai đoạn quyết liệt đó, bốn chữ xã hội dân sự được thêu trên lá cờ tiên phong của phe xung kích, nỏ thần bắn vào Nhà nước độc tài và con mãng xà Thị Trường. Kinh nghiệm sau đó cho thấy anh hùng dân tộc xã hội dân sự có cái tên để gọi mà không có cái mặt rõ ràng để chụp hình: ông gồm những ai? Ai là các nhóm xã hội cầm đầu cải tổ?

Suharto lên cầm quyền năm 1965, sau một cuộc đảo chánh tắm máu. Đảng Cộng sản đang mạnh thế kia bị đứt phứt cái đầu. Ai bênh vực hai bàn tay sắt của ông có thể nêu thành tích kinh tế thực hiện được sau 33 năm ròng chuyên chế: Tổng sản lượng quốc nội (GDP) tăng trưởng trên 7% mỗi năm, lợi tức đầu người tăng lên mười lần, số lượng người nghèo giảm từ 60% xuống 11%. Tăng trưởng kinh tế đưa đến những thay đổi cấu trúc trong toàn thể xã hội, nhất là sự lớn mạnh của khu vực tư. Lúc đầu, phát triển dựa trên tư bản Nhà nước và các nhà kinh doanh kề cận chính quyền; sau, Nhà nước cho phép các tập đoàn lớn hoạt động, do người Hoa điều khiển, làm ăn chung với giới quân nhân và với một nhúm thế lực gân cốt trong đó có gia đình Suharto. Tuy vậy, cùng với phát triển kinh tế, các nhà kinh doanh nhỏ cũng được dịp phất lên - một cách lương thiện hơn - và khu vực tư, từ phía dưới, vươn lên, trổ nhánh, đa dạng. Một thị trường xuất hiện, mức tự chủ càng ngày càng cao.

Song song với việc lớn mạnh của khu vực tư, Nhà nước thu hẹp bớt lĩnh vực của mình, không phải chỉ vì cái luận lý hễ “tư” lớn thì “công” nhỏ, mà còn vì sức ép của các tổ chức tài chánh quốc tế mà thánh kinh là chủ nghĩa tự do. Toàn cầu hóa đòi hỏi phải giới hạn các biện pháp bảo vệ thương mại, rút bớt các trợ cấp, mở toang cửa ngỏ, buồng the.

Tư hữu hóa và cách mạng ngân hàng làm thay đổi bộ mặt kinh tế: kể từ 1988, ngân hàng tự do sáng lập, sinh sản rất nhanh. Nhưng tham nhũng sinh con đẻ cái còn nhanh gấp bội, làm yếu Nhà nước. Đồng thời, các tập đoàn kinh tế gốc Hoa, trước đây nằm dưới quyền sinh sát của Suharto, bây giờ mình đồng da sắt, trở mặt đương đầu chủ cũ ở khúc ngoặc 1997-98, giữa cơn khủng hoảng Á châu, lúc đồng roupie trượt giá như bôi mỡ, thị trường chứng khoán hối hả trụt theo.

Về mặt xã hội, chính sách phát triển kinh tế từ phía trên Nhà nườc cũng đưa đến nhũng thay đổi rộng lớn, nhất là sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là giai cấp tư sản: tiểu tư sản quan chức hành chánh, tiểu tư sản quan chức chính trị, tư sản kỹ nghệ, tư sản tài chánh ... Kỹ nghệ hóa làm phát sinh giai cấp công nhân càng ngày càng đông; cách mạng xanh làm mọc ra những tầng lớp nông dân mới. Tất cả các tầng lớp xã hội mới đó làm thay đổi tương quan lực lượng giữa giới công chức và giới “dân sự”. Dân chúng không còn bị thôi miên nữa vì hào quang của binh phục hoặc của chức tước bàn giấy, bây giờ ngoảnh mặt nhìn về phía xu hào rổn rảng của các nhà kinh doanh tư. Xã hội nói chung chiếm được một vị thế tương đối tự chủ đối với Nhà nước nhờ bước chân đi lên của thị trường cùng lúc với bước chân đi xuống của những thế lực địa phương cổ truyền. Nhà nước độc tài Suharto làm nảy ra nhiều nhóm xã hội có khuynh hướng, nếu không phải là dân chủ thì ít ra cũng tự do phóng khoáng. Nhưng đó có phải thực sự là xã hội dân sự không?

Đúng hơn, cảnh sắc xã hội mới ở Indonesia vẽ ra một xã hội tư sản trong đó hoạt náo nhất là các tân phú gia, les nouveaux riches, sống trong các đô thị được chia khu vực tùy mức giàu sang, tùy kiểu sống mới. Khái niệm căn bản được nói nhiều trong những năm 80 là “giai cấp trung lưu”. Tranh luận diễn ra trên thái độ của giai cấp then chốt đó: họ sẽ ngả theo ai, theo gió dân chủ phiêu lưu hay theo quạt nồng ấp lạnh yên ổn của Suharto?

Giữa lúc trung lưu đang lừng khừng như thế giữa hai hấp lực thì sự biến Đông Âu bùng lên, lan ảnh hưởng đến tận bàn giấy của tổng thống. Dù chỉ là hình thức thôi, Suharto mở dây thòng lọng: trí thức Indonesia nhanh chóng so sánh xứ sở của mình với tình trạng Đông Âu, thấy sao chẳng đẻ sinh đôi mà giống nhau, cũng Nhà nước béo phệ, cũng xã hội dân sự xương bọc da. Nhưng ảnh hưởng chẳng phải chỉ đến từ phía Đông Âu mà còn từ phía Hồng Mao, từ các đại học Mỹ, lò xuất thân của các trí thức mới, cậu ấm cô chiêu trung lưu, đầu óc đầy lý tưởng trong sáng và đầy tam tự kinh “civil society”. Tay trong tay, lòng bên lòng với các Phi Chính Phủ Anh-Mỹ, Hà Lan, Đức, Đan Mạch-Na Uy-Thụy Điển, họ khám phá thiên đường tưởng tượng của chủ nghĩa tân tự do, đánh cuộc trên khả năng sáng tạo của các tập thể quần chúng ở gốc ngọn cỏ. Họ buộc ông vua Nhà nước phải trở về nằm đúng chỗ mà ông phải nằm trên long sàng, nhường chỗ mà ông phải nhường cho bà hoàng hậu thị trường. Tư hữu hoá và phi điều tiết (dérégulation) phải đóng khung Nhà nước vào nhiệm vụ giữ nước, giao phó cho xã hội dân sự - nghĩa là các đoàn thể - những nhiệm vụ quản lý khác. Nhà nước tốt là Nhà nước tý hon, tức là Phù Đổng Thiên Vương lúc chưa vươn vai.

Nhập cảng nguyên si, khái niệm civil society chẳng có gì là Nam Dương Quần Đảo cả lúc khởi thủy. Nhưng toàn cầu hóa tạo tính phổ thông cho nó và gắn cho nó tiếng còi ò e của xe cứu thương lúc Nhà nước Suharto lâm trọng bệnh. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, các tổ chức tài chánh quốc tế buộc tổng thống đã mất hai bàn tay sắt áp dụng chương trình tân tự do của họ - nghĩa là tạo chất sống cho xã hội dân sự và hạn chế Nhà nước. Từ 1998 đến 2001, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế không những bắt Indonesia phải nuốt trôi những biện pháp cải tổ cấu trúc cực kỳ khó nuốt mà còn buộc giải tỏa cả chính sách bảo vệ thương mại. Indonesia phải há họng ra mà nuốt nhục ba tháng một lần vì cứ mỗi ba tháng phải ký thỏa ước lại với Quỹ về những thực hiện cam kết, nếu không thì Quỹ cúp viện trợ tài chánh.

Lắp ghép từ ngoại quốc, khái niệm xã hội dân sự tuy vậy cũng dần dần thích ứng với hoàn cảnh địa phương, rồi được dùng như một khẩu hiệu tranh đấu. Trí thức, Phi Chính Phủ, chính trị gia tập sự, sinh viên, lãnh tụ tôn giáo, nghiệp đoàn bất hợp pháp... tất cả những lực lượng chống đối đó bỗng tạo ra được một khả năng thay thế với sự xuất hiện của các chính trị gia tên tuổi, lãnh đạo các đảng tôn giáo (Abdurrahman Wahid, Amien Rais) và của bà Magawati Sukarno rất được lòng dân. Danh từ xã hội dân sự bây giờ được dùng để chỉ tất cả những gì không phải là Nhà nước. Ngay cả trong Nhà nước, quân đội trở thành hạt nhân cứng đối nghịch với công chức bây giờ được xem là “dân sự ”, gần gũi với civil society. Trong ngôn ngữ chống đối, xã hội dân sự được cố ý đồng hóa với xã hội của dân sự, nghịch với xã hội của nhà binh. Mục tiêu của phe xã hội dân sự là tóm cổ Nhà nước để “dân sự hóa” nó, nghĩa là “văn minh hóa” nó, và dùng nó để... đẻ ra nó theo kiểu vòng tròn đẻ ra vòng tròn. Chế độ tương lai sẽ là dân chủ tự do, xây dựng trên good governance để dẹp cái nạn tam đa tham nhũng - phe cánh - họ hàng. Xã hội dân sự sẽ là tác nhân, đầu tàu cho cải tổ, do đó phải được tăng cường sức mạnh bằng một nội lực mà tôi không biết phải dịch thế nào: empowerment.

Trên cội rễ đó, cây xã hội dân sự có thể chia ra nhiều nhánh mà hai nhánh chính là “thế tục” và “Hồi giáo dấn thân”. Nhánh thứ hai chủ trương không thể phân biệt tôn giáo và chính trị; nhánh thứ nhất cho rằng được và nên phân biệt. Khác nhau giữa hai nhánh, do đó, là vị thế của Hồi giáo trong lòng xã hội dân sự. Giới Hồi giáo muốn Hồi giáo hóa xã hội dân sự, tẩy bớt ảnh hưởng Tây phương trong đó. Họ nói: thay vì civil society, ta hãy gọi masyarakat medina - xã hội lý tưởng ở Médine, kinh đô của Giáo Chủ. Ở đây, cũng như ở các nơi khác, khái niệm xã hội dân sự vẫn mờ mờ ảo ảo, vừa là phương tiện để đi đến dân chủ chưa rõ nội dung, vừa là trạng thái lý tưởng của xã hội. Masyarakat medina vừa là cứu cánh vừa là phương tiện.

Mờ ảo, vậy mà ai cũng nói, ai cũng nghĩ như là một dự án chính trị mà thành phần chủ lực là giai cấp trung lưu. Rồi nói giai cấp trung lưu, ai cũng nghĩ đến trí thức, nhà báo, nghề nghiệp tự do, doanh nhân, nhất là bộ ba đặc biệt tích cực trong cuộc tranh hùng với Suharto: các đảng phái chính trị dân sự, sinh viên, Phi Chính Phủ. Còn một thành phần nữa, chẳng nghe ai xếp vào xã hội dân sự tuy là giai cấp trung lưu chính hiệu bà lang trọc: các chú Ba Tàu. Được tuyên dương như vĩ nhân của thời đại dân chủ, các Phi Chính Phủ bao gồm đủ loại: nhân đạo, y tế, xã hội, bênh vực phụ nữ, môi trường, advocacy nhân quyền, chính trị, và thường do giới trẻ điều khiển, vì lý tưởng. Nhưng không phải ai cũng lý tưởng, không thiếu gì PCP lập ra để làm bàn đạp cho các NGO Tây phương ráo riết săn lùng tay chân trên khắp địa cầu.

Quan tài của chế độ Suharto được hạ huyệt tháng 5-1998. Kèn thắng trận của xã hội dân sự thổi lên lúc các chính đảng lớn nhất, Nahdatul Ulama và Mahammadiyah, tự xếp mình vào hàng ngũ xã hội dân sự, bên cạnh các Phi Chính Phủ. Với cả chục triệu quần chúng, với tên tuổi chính trị lâu đời, lại thêm được chính nghĩa Hồi giáo yểm trợ, các chính đảng đó chở Wahid và Rais trên xe tăng, húc vảo chiếc gậy ba toong của tổng thống, làm ngài té.

Xã hội dân sự chiến thắng! Than ôi, khó khăn đầy rẫy. Quân đội chống lại cải tổ, gây ra bế tắc, làm yếu Nhà nước đang lúc mà nó phải mạnh để giữ trật tự. Xã hội xáo trộn, bất chấp kỷ cương, đốt nhà, chém giết, cướp bóc, loạn lạc, đang lúc mà dân chủ cần yên ổn để mọc rễ. Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, thất nghiệp ... gây thêm căng thẳng dân tộc, tôn giáo, đưa đến đòi hỏi tự trị lãnh thổ, ly khai Thế là xã hội dân sự? Thế là xã hội công dân ?

Kết luận gì đây trong trường hợp Indonesia? Không thể có xã hội công dân nếu không có Nhà nước xứng đáng với tên gọi. Cũng như thị trường cần phải có nguyên tắc, cơ chế điều tiết để hoạt động đàng hoàng, xã hội công dân cần một Nhà nước ổn định, vững chắc. Mặt khác, thay đổi chế độ đòi hỏi một giai đoạn chuyển tiếp có trật tự, nếu không thì chỉ có thay đổi từ cái xấu này qua cái xấu khác. Dân chủ hóa phải là một sự cộng tác thực lòng giữa Nhà nước và xã hội dân sự.

***

Đó là kết luận riêng cho một trường hợp cá biệt. Bây giờ kết luận chung. Khởi thủy của vấn đề là sự phân biệt, ở đâu cũng thấy, bao giờ cũng thấy, giữa hai lĩnh vực công và tư trong đời sống con người. Nhưng thế nào là công thế nào là tư, đâu là biên giới giữa công và tư, là chuyện tranh luận liên miên, không dứt, cùng với diễn tiến của tư tưởng chính trị, nghĩa là bao giờ cũng nhuốm đậm màu sắc ý thức hệ. Từ câu hỏi đó, học thuyết kinh tế và chính trị ở phương Tây phát triển ra, đồng hóa tình trạng lưỡng phân công / tư với lưỡng phân Nhà nước / xã hội dân sự hoặc công dân. Chủ nghĩa tư bản tràn vào câu hỏi đó để tách biệt hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại ra khỏi lĩnh vực công, lĩnh vực Nhà nước, và tuyên bố: lĩnh vực kinh tế không phải là lĩnh vực của Nhà nước, đó là lĩnh vực của tư nhân, do đó thị trường thuộc vào xã hội dân sự. Song song với xác quyết đó, chủ nghĩa tự do đưa ý thức hệ vào ngay, quả quyết rằng tự do cạnh tranh mang lại cho xã hội dân sự khả năng tự điều tiết - với điều kiện là không được có một can thiệp nào ngoài can thiệp kinh tế vào những trao đổi kinh tế. Nghĩa là Nhà nước không được can thiệp. Nói như vậy, các lý thuyết gia của chủ nghĩa tự do mô tả đúng một thực trạng mới, khuynh hướng mới, diễn ra trước mắt mọi người, nhưng họ không phải chỉ mô tả, họ còn nâng sự mô tả lên thành nguyên tắc, quy luật, như thử phát xuất từ bản chất của sự vật, của thiên nhiên, của chân lý muôn đời. Từ đó, Nhà nước là xấu, vì cưỡng bức; xã hội dân sự là tốt, vì tự do. Nhà nước toàn trị xít-ta-lin góp phần đắc lực vào tín xác đó, vun bón cho mầm mống chống đối ở Đông Âu mọc lên cành lá vào những năm 80, tạo hứng cho những phong trào chống đối khác trên thế giới, phô trương xã hội dân sự như phe kháng chiến, như giải pháp thay thế, như “cuộc đời độc lập ”, như “cuộc đời thứ hai ”, như “lãnh địa song song” nói theo văn chương của Vaclav Havel, tổng thống Tiệp kiêm cựu tù nhân ly khai.

Đứng về mặt nhận thức khoa học, không có gì lầm lẫn cho bằng, bởi vì không thể vạch ra biên giới giữa Nhà nước và xã hội dân sự cũng như không thể vạch ra biên giới giữa chính trị và phi chính trị. Chỉ vì chế độ toàn trị chủ trương cái gì cũng là chính trị cả, nghĩa là cái gì cũng phải do Nhà nước kiểm soát, cho nên phe đả kích vẽ vòng đai xã hội dân sự phi chính trị để chống lại. Nhưng ai mà chẳng thấy chính trị xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả đời sống thường ngày? Làm gì có một xã hội chính trị thuần túy nằm cạnh một xã hội dân sự thuần túy? Lấy đâu ra những tổ chức chính trị, khi phong trào tranh đấu lên cao, nếu không phải từ xã hội dân sự? Cái này từ cái kia mà ra, hai bên qua lại lưu thông với nhau, nếu không, làm sao ông Vaclav Havel lên được tổng thống? Từ đó, đứng về mặt hành động chính trị, nói rằng tôi tranh đấu cho xã hội dân sự mà thôi là “nói vậy mà không phải vậy”. Trong đầu người nói, có hình ảnh một Nhà nước đáng ghét và hình ảnh một Nhà nước đáng ưa. Đối tượng tối hậu của người nói là Nhà nước, không phải xã hội dân sự, dù người đó là con châu chấu He Weifang giương hai càng trước cổ xe tăng một cách nực cười.

Ước mơ của người viết bài này là chẳng ai đá ai cả. Tới một mức phát triển kinh tế xã hội nào đó, chế độ chính trị không thể cưỡng lại được quy luật tự nhiên là thay đổi theo. Chẳng lẽ thể xác thanh niên mười tám mà cứ bận hoài quần áo mười ba? Đừng để bên ngoài can thiệp, cũng đừng bị động nay mở mai khép, Nhà nước hãy chủ động nắm tương lai dân chủ cùng với sự hợp tác tích cực của xã hội dân sự. Giữa Nhà nước tham nhũng với xã hội dân sự vô đạo đức, liên hệ nhân quả xoáy vòng tròn, đây là nhân mà đây cũng là quả, cái này cắt nghĩa cái kia và ngược lại. Thì cũng vậy giữa Nhà nước dân chủ và xã hội dân sự dân chủ: chỉ một Nhà nước dân chủ mới tạo ra được một xã hội dân sự dân chủ; chỉ một xã hội dân sự dân chủ mới tạo ra được một Nhà nước dân chủ. Hãy như thế với nhau để tiến lên dân chủ, từng bước, thực lòng, thay vì đàn áp, chống đối, hạ bệ, thay thế nhau. Phải chăng Hội Thảo này là một hình ảnh ?

Chú thích :

Tài liệu về civil society quá nhiều, xin tóm lược vài sách chính cần tham khảo, không phân biệt quan điểm:

Về định nghĩa và lịch sử khái niệm trong học thuyết ở phương Tây, bài viết sáng tỏ nhất, theo tác giả, vẫn là: Danièle Lochak: La socìété civile: du concept au gadget, trong: La socìété civile, CURAPP/PUF 1986. Tác giả là giáo sư luật có tiếng của Pháp, dạy tại đại học Amiens và Paris X-Nanterre. Xem các bài khác trong sách đó.

Về Phi châu, xem René Otayek: Identité et démocratie dans un monde global, Paris, Presses de Science Po, 2000.

Câu nói của Th. Skocpol (“Bringing the State back in”) lấy trong quyển sách cùng tên xuất bản cùng với các tác giả khác, Cambridge, CUP, 1985.

Về các nông trường tập thể (kolkhoz) ở Trung Á, xem Olivier Roy: Kolkhoz and civil Society in the Independant States of Central Asia, trong: H. Ruffin § D. Waugh (eds): Civil Society in Central Asia, University of Washington Press, 1999.

Về chuyện “đơn đặt hàng”, chỉ đưa ra một ví dụ: dự án khổng lồ Civil Society in the Miđle East Project, do Augustus Richard Norton điều khiển, kéo dài trong suốt 3 năm, được Ford và Rockefeller Foundation tài trợ và sau đó được xuất bản thành một chuỗi sách, mỗi quyển dành cho mỗi nước. Kể thêm một ví dụ nữa: trung tâm Center for Civil Society International do Carnegie tài trợ đã điều khiển xuất bản nhiều sách trong đó có thể kể quyển Civil Society in Central Asia. Xem trong sách này danh sách các Tổ chức Phi Chính Phủ (NGO) hoạt động tại Trung Á.

Tôi dùng từ “Phi Chính Phủ” một cách miễn cưỡng, vì ai cũng biết thường thường đàng sau các “Phi Chính Phủ” ấy là các chính phủ. Bởi vậy tôi gọi đùa là Phi Chính Phủ cho gọn, thay vì dài dòng “tổ chức phi chính phủ”.

Về Viện Ibn Khaldoun ở Ai Cập: Viện này do Saad Eddin Ibrahim, giáo sư tại Đại Học Mỹ ở thủ đô Le Caire, sáng lập và điều khiển. Tên của Viện là Trung Tâm nghiên cứu về phát triển Ibn Khaldoun. Viện xuất bản một tạp chí tam cá nguyệt lấy tên là Civil Society. Hoạt động của Ibrahim tất nhiên là nhắm đả kích chính quyền hiện hữu. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là trí thức Ai Cập, tả cũng như hữu, không hưởng ứng bao nhiêu hành động của ông vì họ chống lại việc nhập cảng những giá trị từ Tây phương. Ngoài ra, vì Viện do Mỹ tài trợ và độc lập tài chánh đối với chính quyền Ai Cập, trí thức bản xứ, sống với đồng lương thấp kém, không khỏi có chút tỵ hiềm. Ngày 21-5-2001, Ibrahim bị Tòa Án An ninh quốc gia kết án 7 năm tù vì tội hoạt động nghiên cứu về dân chủ và xã hội dân sự. Bản án bị Tòa Phá Án hủy bỏ ngày 6-2-2002. Trong khi chờ đợi xử lại, Ibrahim được “tự do”.

Câu bình luận lạc quan “civil society in the Arab world has revitalised itself in the last two decades” là của Ibrahim. Về quan điểm của ông này, có thể xem một bài viết trong International Political Science Review 19 (4) 1998, nhan đề: The Troubled Triangle: Populism, Islam and Civil Society.

Về xã hội dân sự và Hồi giáo, xem A.R Norton (ed) đã nói ở trên, Civil Society in the Midđle East, vol I, Leiden, E.J Brill, 1995. Xem thêm S. Mardin, Civil Society and Islam, trong: J.A Hall (ed), Civil Society, Theory, History, Comparison, Cambridge, Polity Press, 1995.

Cuối cùng, tạp chí Revue Internationale de Politique Comparée, Vol 9, n° 2, Eté 2002, ra một số đặc biệt về: Démocratie et socìété civile, une vue du Sud.

Nguồn: Thế giới quanh ta - NXB Đà Nẵng

 Tháng trước, nước Đức đã huy động tới 50 cảnh sát thực hiện vụ trục xuất đồng loạt lớn nhất 10 năm nay đối với 104 người Việt bị từ chối cư trú, bằng chuyến bay dành riêng, số hiệu AB1130 của hãng Air Berlin, cất cánh tại sân bay Schönerfeld, Berlin về Hà Nội.

Trước giờ cất cánh, hàng trăm người Đức ùn ùn kéo tới sân bay biểu tình, phản đối dữ dội; cảnh sát phải chật vật làm hàng rào chống đỡ, mới ngăn được họ tràn vào phòng chờ. Tổ chức mang tên “Sáng kiến giúp người lánh nạn” lý giải cuộc biểu tình phản kháng rằng, trục xuất hàng loạt đã đánh đồng mọi đối tượng, bỏ qua những trường hợp đặc biệt lẽ ra phải chiếu cố nhân đạo; hơn nữa, chuẩn mực nhân đạo tối thiểu dành cho con người dù họ là ai phải được bảo đảm, công luận giám sát.

Bằng những câu chuyện có thực vừa xảy ra tại Cộng Hòa Liên bang Đức, TS Nguyễn Sĩ Phương luận bàn về các giá trị xã hội.

"Bàn tròn Thu Nga"

Tổ chức sáng kiến trên chỉ là một trong 280.000 hiệp hội ở Đức, thu hút số thành viên chiếm tới trên 60% của hơn 80 triệu dân số họ, chưa kể vô số các tổ chức sáng kiến, phong trào xuất hiện thời điểm, như tổ chức “Bàn tròn Thu Nga” là một điển hình, từng chấn động nước Đức một thời. Năm 2004 trong lúc đang theo học lớp 8d trường chuyên ở Peine, thì Thu Nga bị nước Đức trục xuất cùng cả gia đình về Việt Nam do không được quyền ở lại.

Tổ chức trên lập tức được thầy cô giáo thành lập, nhằm mục đích đưa bằng được Thu Nga trở lại trường. Số phận 1 em học sinh 14 tuổi học giỏi, sang Đức từ lúc lên 2 không hề biết đến Việt Nam, bị đuổi ra khỏi Đức, được tài tử nổi tiếng bậc nhất Đức Günter Jauch truyền hình tới công chúng đã làm thổn thức bao trái tim người Đức.

Chỉ trong vòng 6 tháng, với nỗ lực vô bờ bến, họ đã đón Thu Nga trở lại Đức học tập, sau khi tập hợp được tới hàng nghìn chữ ký ủng hộ, gửi trên 600 thư từ tới các cơ quan công quyền, phóng viên về tận Việt Nam gặp gỡ Thu Nga, mở tài khoản quyên góp được 6500 Euro ủng hộ em đợt đầu, tiếp tục bảo đảm tài chính cho em đến tốt nghiệp, trong đó có phần quyên góp của cả Tổng thư ký đảng SPD đang cầm quyền, tìm gia đình nhận em làm con nuôi đón sang Đức, tìm trường tư nhập học cho em.

Những hiệp hội, tổ chức sáng kiến, bàn tròn, tổ chức phi chính phủ, các phòng trào độc lập với nhà nước như trên thuộc phạm trù xã hội dân sự, hay xã hội công dân, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “politiké koinonia”, sau này chuyển ngữ sang tiếng La Tinh “societas civilis”, được hiểu là tập hợp các công dân tự do. Lý luận về xã hội công dân coi vùng hoạt động của xã hội dân sự là khoảng không gian công cộng nằm giữa nhà nước (hoạt động bằng quyền lực), thị trường (hoạt động bằng trao đổi, tiền bạc, kinh tế) và gia đình (hoạt động bằng tình cảm, quan hệ riêng tư).

Như vậy nếu thừa nhận có khoảng không gian công cộng nằm giữa 3 vòng tròn nhà nước, thị trường và gia đình, thì xã hội dân sự là tồn tại tất yếu của xã hội loài người hiện đại. Một khi xã hội dân sự đã là tất yếu, mà lại thiếu hoặc vắng trên thực tế, thì hệ lụy toàn xã hội phải gánh chịu là không tránh khỏi, con người sống trong đó may nhờ rủi chịu rất lớn, bởi cả nhà nước, cả nền kinh tế thị trường, lẫn gia đình đều không có chức năng bù đắp khoảng trống đó.

Có thể hình dung số phận của 104 người Việt bị trục xuất đồng loạt ở trên khó tránh khỏi bị đánh đập (vì nhiều người cưỡng chống), bỏ đói khát, thiếu tư trang, bị nhục mạ, còn Thu Nga đành chấp nhận số phận trục xuất, nếu Đức không phải là xã hội dân sự, phó mặc cho nhà nước định đoạt mọi chuyện. Bao người Việt cả trong lẫn ngoài nước được hưởng tính ưu việt của xã hội dân sự trên thế giới không nhỏ, ví như “Quỹ vì trái tim em” gửi về ủng hộ trong nước rất lớn hiện nay, chính do các hội người Việt khắp thế giới quyên góp. Dạy tiếng Việt giữ gìn văn hoá Việt cho con em không ai khác ngoài hội, đoàn, tác động đến chính quyền sở tại xin kinh phí trả lương giáo viên, như ở Leipzig tới hàng chục nghìn Euro/năm.

Phần đa 3 triệu người Việt khắp thế giới hiện nay khó có thể hoà nhập vào xã hội sở tại, đừng nói gì đến giúp đỡ trong nước, nếu nước họ định cư không phải là một xã hội dân sự cưu mang họ bước đầu, bởi chẳng chính quyền nào muốn và có thể “bao” hết công dân nước khác tới.

Ưu việt của xã hội dân sự ở chỗ trước hết nó đáp ứng bất cứ nhu cầu lợi ích nào của công dân nảy sinh, mà nhà nước, thị trường, gia đình không thể thoả mãn. Ở Đức, người thuê nhà có thể viện đến Hiệp hội những người thuê nhà, ngược lại người cho thuê nhà có thể viện đến hiệp hội những người cho thuê nhà khi có vấn đề, mà không cần mình là thành viên.

Tương tự như vậy người nhận việc có công đoàn, người thuê việc có hội thuê việc, doanh nghiệp có hội doanh nghiệp, kinh doanh bán lẻ có hội bán lẻ, bán buôn có hội bán buôn, đóng thuế có hội những người đóng thuế, khai thuế có hội những người khai thuế, ô tô hỏng dọc đường có hội kéo xe hỏng, mua bán có hội bảo vệ người tiêu dùng, phụ nữ bị chồng bạo hành có thể tìm đến nhà của Hội Cứu giúp phụ nữ, ăn ở bất cứ lúc nào, tàn tật có hội giúp đỡ tàn tật, trẻ em có hội bảo vệ trẻ em, người già có hội bảo vệ người già..., chưa kể các hội thời điểm được thành lập khi có bức xúc, nhất là liên quan đến môi trường, thiên tai, chết nhiều người, đe doạ số phận, như trường hợp điển hình “Bàn tròn Thu Nga”.

Từ đó, nếu tính con số hội đoàn ở ta chẳng là bao so với 280.000 hiệp hội họ, sẽ cho thấy khoảng trống hội đoàn nước ta hiện nay, và mức độ thiệt thòi giữa người dân nước mình và nước họ trong thụ hưởng tính ưu việt của một xã hội dân sự đem lại.

Ðã thiếu, ở ta trong một số tình huống liên quan đến hội viên của mình, hoặc lĩnh vực mình hoạt động, không ít hội chưa quan tâm, hoặc ngược lại thậm chí hành xử nhầm lẫn với chức năng của cơ quan công quyền, chưa phát huy được vai trò riêng cần có của một xã hội dân sự.

Trên thế giới, xã hội dân sự được xác lập ở những nước phát triển trên nền tảng một nhà nước dân chủ, pháp trị lẫn truyền thông độc lập. Số phận 104 người Việt bị trục xuất nói trên sẽ bị bỏ rơi chẳng ai đoái hoài, nếu nước Ðức cấm biểu tình, truyền thông cấm đưa tin hoặc đưa sai lệch hoặc chỉ ủng hộ chính phủ, hoặc bài xích người nước ngoài. Hội người Việt Leipzig sẽ không thể tổ chức nổi lớp học tiếng Việt cho các cháu nếu nhà nước Ðức không tài trợ hàng chục nghìn Euro/năm. Quỹ "Vì trái tim em" không thể gửi về nước nhiều tiền đến vậy, nếu luật pháp Ðức không cho phép khấu trừ tiền quyên góp đó vào thu nhập tính thuế...

Ngay cả khi được xác nhận quyền và hỗ trợ ưu đãi tài chính, thì hội đoàn cũng bất lực, nếu thiếu vắng một cơ chế tài phán độc lập để phân xử, khi chẳng may họ rơi vào tình huống cá nhân được nhà nước giao trách nhiệm hành xử không còn muốn nghe.

Trước đây 5 tháng, vụ Đức trục xuất bất thành bé Giang, sinh ở Đức, 14 tuổi, đẩy em đang là học sinh giỏi lớp 8 trường chuyên Wirtemberg, Stuttgart phải vào viện tâm thần, đã làm dư luận Đức sôi sục phản đối; hiệp hội bảo vệ trẻ em được viện tới can thiệp.

Tuy nhiên chính quyền vẫn khăng khăng mình đúng luật, buộc luật sư của bé phải đe doạ khởi kiện quan chức ra lệnh trục xuất tội cố ý gây thương tích, nếu vụ việc xảy ra lần nữa, đệ đơn đòi bác lệnh trục xuất của chính quyền kèm bản giám định sức khoẻ bé Giang và ý kiến của hiệp hội bảo vệ trẻ em lên toà án hành chính tối cao. Toà chấp thuận.

Mục tiêu dân chủ

Xã hội dân sự nằm giữa các vòng tròn nhà nước, thị trường và gia đình, làm cho người ta dễ liên tưởng đến công thức toán học, khi xã hội dân sự lớn lên thì các vòng tròn sẽ bé đi, đe doạ quyền lực nhà nước, mà không biết rằng tổng 3 vòng tròn cùng xã hội dân sự không nằm trong một khung giới hạn, cái này lớn cái kia sẽ bé, mà ngược lại chúng tương tác nhau cùng tăng lên theo sự phát triển nhu cầu xã hội.

Tổ chức Sáng kiến giúp người lánh nạn trong vụ trục xuất 104 người Việt không nhằm gây khó khăn hay lật đổ nhà nước do họ dựng nên, mà chính nhờ bảo vệ quyền lợi tối thiểu 104 người này, lại bảo đảm cho nhà nước họ được thế giới tôn trọng, hành xử nhân đạo không đụng chạm đến nhân phẩm và quyền tối thiểu của con người như hiến pháp họ đã thừa nhận.

Chính nhờ họ, mà tại phi trường Hamburg, nhà nước đã cho đặt màn hình ngoài nhà chờ cho phép quan sát hành vi của nhà chức trách trong trục xuất, giúp minh bạch hóa việc thực thi hiến pháp của mình trước dư luận.

Cách đây 4 tháng, một văn phòng luật sư ở Frankfurt đã đệ đơn lên toà án Đức kiện Bộ Ngoại giao, Quốc phòng, Nội vụ, và Tư pháp Đức đã giao 9 tên cướp biển Kenia bị Hải quân Đức bắt, cho toà án Kenia xét xử, vi phạm luật Đức cấm dẫn độ nghi phạm vào những nước không nhân quyền. Điều đó không có nghĩa luật sư ủng hộ cướp biển mà ngược lại thực hiện chức năng giám sát bảo đảm uy tín cho nhà nước luôn tuân thủ pháp luật do chính mình ban hành.

Xã hội công dân hiểu theo nghĩa rộng còn được coi là dấu hiệu về mức độ dân chủ hoá xã hội, đòi hỏi mỗi công dân, ngoài việc tự tập hợp giải quyết những vấn đề nằm ngoài phạm vi nhà nước, thị trường và gia đình, còn phải tham gia trực tiếp vào các quyết định của nhà nước và hoạt động của thị trường.

Trên phương diện đó có thể thấy ở ta hàng núi vấn đề bức xúc xã hội được kêu cứu trên báo chí tồn đọng, đang thiếu bàn tay giải quyết của xã hội dân sự, nhưng hạn hữu mới tìm thấy công dân hay nhóm công dân kêu gọi hay bắt tay hành động.

Đã có tính toán thống kê cho thấy mức sống nước ta phải hàng chục năm nữa mới đuổi kịp các nước đứng đầu khu vực và chắc phải nhiều lần hơn thế mới bằng Mỹ, Tây Âu. Thành quả các nước đó hoàn toàn không phải do nhà nước họ thay dân làm ra, mà chính xuất phát từ tập hợp các công dân họ, tức xã hội dân sự.

Không thế mà Philipp Rösler, gốc Việt, 35 tuổi, hiện phó Thủ hiến, Chủ tịch Đảng FDP tiểu bang Niedersachsen, Đức, đang được coi là tương lai của đảng FDP toàn nước Đức, tuyên bố chủ trương: “Phải xây dựng một xã hội mạnh thay vì một nhà nước mạnh... Trật tự, pháp luật, nhà nước, chỉ là công cụ, phải phục vụ cho các giá trị xã hội, chứ không phải ngược lại!” rốt cuộc cũng nhằm tới một xã hội dân sự.

Nguồn: Tuần Việt Nam

 Trần Tuấn Phong, Thạc sĩ, Phó trưởng phòng Triết học Chính trị, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Tạp chí Triết học

Bài viết phân tích tư tưởng của Arixtốt về cộng đồng chính trị - một khái niệm được coi là khởi thuỷ của khái niệm xã hội công dân/xã hội dân sự sau này. Đồng thời, phân tích tư tưởng về xã hội dân sự trong thời cận đại qua một số đại biểu điển hình. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ sự kế thừa và phát triển của Hêghen đối với quan điểm của Arixtốt về xã hội công dân. Theo tác giả, tư tưởng của Hêghen về xã hội dân sự và nhà nước tuy mang tính duy tâm, song những luận điểm của ông đóng vai trò nhất định trong sự hình thành tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về xã hội dân sự, về vai trò của nhà nước.

Có thể nói, khái niệm xã hội dân sự bắt nguồn từ phương Tây. Thuật ngữ Civil society được dịch sang tiếng Việt là xã hội công dân hoặc xã hội dân sự. Xung quanh các thuật ngữ này có rất nhiều nhận định và bàn luận khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chính các cách kiến giải khác nhau về nội hàm của khái niệm xã hội công dân/xã hội dân sự đã đem đến những cách hiểu khác nhau về mối liên hệ giữa xã hội công dân/xã hội dân sự, gia đình, thị trường và nhà nước. Theo quan điểm của chúng tôi, nội hàm của khái niệm này mang tính lịch sử cụ thể, nó biến đổi theo từng thời kỳ phát triển khác nhau của lịch sử phương Tây. Trong phạm vi nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày một cách khái quát về sự biến đổi của khái niệm xã hội công dân/xã hội dân sự trong lịch sử tư tưởng triết học chính trị phương Tây giai đoạn từ Arixtốt đến Hêghen.

1. Arixtốt và cộng đồng chính trị

Về mặt thuật ngữ, khái niệm xã hội công dân/xã hội dân sự chưa xuất hiện trong tư tưởng của các nhà triết học cổ Hy Lạp. Thuật ngữ “Koinonia politike” mà Arixtốt dùng để miêu tả đời sống chính trị của Hy Lạp cổ đại thường được dịch là cộng đồng chính trị có thể được coi là “tiền thân” của khái niệm xã hội công dân/xã hội dân sự về sau này. Cộng đồng chính trị chính là hình thức tổ chức đời sống chính trị xã hội của Hy Lạp cổ, nó cũng được hiểu là polis (thành - bang). Khái niệm cộng đồng chính trị được Arixtốt dùng để phân biệt với đời sống gia đình, để phân biệt lĩnh vực công (public) với lĩnh vực tư (private) trong cách tổ chức đời sống con người.

Lĩnh vực tư của con người, hay gia đình, theo Arixtốt, là lĩnh vực đời sống được tổ chức để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu nhất của con người nhằm đảm bảo sự tồn tại về mặt sinh học của cá thể và duy trì sự tồn tại của giống loài. Sự tồn tại này đòi hỏi sự liên kết giữa các cá thể một cách tự nhiên, liên kết tiêu biểu nhất là hình thức sống chung trong gia đình giữa đàn ông và đàn bà. Trong hình thức tổ chức của gia đình thì người đàn ông đóng vai trò là ông chủ cai trị và điều hành cuộc sống của người vợ, các con và nô lệ. Đời sống kinh tế của Hy Lạp cổ đại chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp và vì thế, được bó gọn trong lĩnh vực tư của gia đình. Kinh tế được hiểu là điều hành gia đình (Oikos) (1) và nằm trong “vương quốc thiết yếu” mà ở đó, cuộc sống của con người bị chi phối bởi các nhu cầu thiết yếu. Ở đây không có sự bình đẳng, người đàn ông là chủ có quyền quyết định hầu hết mọi việc quan trọng trong gia đình mà không cần tham vấn các thành viên khác trong gia đình, anh ta điều hành gia đình thông qua mệnh lệnh và sự cưỡng ép đối với vợ con và nô lệ. Trong quan điểm của Arixtốt, hình thức liên kết cộng sinh ở dạng gia đình này của con người không khác mấy so với đời sống của động vật, của xã hội hoang dã bầy đàn.

Tuy nhiên, ngoài đời sống tư trong gia đình (Oikos), người Hy Lạp còn có đời sống công, đời sống chính trị (bios politikos) của những công dân dưới dạng thành - bang (polis). Nếu như sự cần thiết của liên kết gia đình là để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống và thuộc về “vương quốc của thiết yếu” thì liên kết thành - bang, (cộng đồng chính trị) xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu tự hoàn thiện cao cả của con người và thuộc về “vương quốc của tự do”. Arixtốt nêu rõ sự hình thành của thành - bang không phải chỉ là sự mở rộng của gia đình, của đời sống tư (kinh tế), mà là liên kết có sự khác biệt rõ ràng về mục đích: trong khi gia đình được lập ra để duy trì cuộc sống mang tính sinh học (life) thì mục đích của thành - bang (hay cộng đồng chính trị) là để nhắm đến cuộc sống phúc lành, hạnh phúc (good life), để tự do hoàn thiện những tiềm năng trí tuệ và đạo đức của con người (2).

Khác với lĩnh vực tư được hiểu như đời sống kinh tế gia đình - nơi mà các cá nhân theo đuổi cái tư lợi cho riêng mình và gia đình mình, lĩnh vực công hay đời sống chính trị là nơi các công dân cùng nhau theo đuổi sự phát triển chung của cả cộng đồng, khi mà họ hoàn toàn bình đẳng với nhau, cùng nhau thảo luận và tham vấn để tìm ra cách thức tổ chức và phát triển cộng đồng hợp lý nhất có thể. Cái chính trị, trong quan điểm của Arixtốt, cũng chính là cái chung, bởi Koinonia có hàm nghĩa chứa đựng cái chung (cái công) trong khi Oikos chỉ giới hạn trong gia đình, trong lĩnh vực của cái kinh tế, cái tư (cái riêng). Cũng cần phải hiểu là cái chung trong quan niệm của Arixtốt không phải là cái chung mang tính trừu tượng, đứng tách biệt với cái riêng. Cái chung ở đây không phải đơn giản là cái tổng thể, một tập hợp cơ học của các cá thể, mà là cái toàn thể mang tính hữu cơ. Tập hợp các hộ gia đình một cách cơ học thôi thì chưa đủ để tạo ra cộng đồng chính trị hay thành-bang. Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng (cái tư) cần được hiểu trên cơ sở quan niệm của Arixtốt về sự khác biệt biện chứng giữa trình tự lôgíc và trình tự hiện hữu, bởi học thuyết chính trị - xã hội của Arixtốt được thiết lập trên cơ sở siêu hình học của ông.

Cái chung “có trước” cái riêng theo trình tự lôgíc, với tư cách là mục đích hay điều kiện khả thể cho sự tồn tại của cái riêng. Tuy nhiên, cái chung này không tồn tại một cách độc lập, đứng bên ngoài cái riêng, mà nó hiện thể (hiện thân) qua cái riêng. Vậy nên, theo trình tự hiện hữu, chỉ khi xuất hiện cái riêng thì cái chung mới được phát lộ ra. Tiến trình phát lộ cái chung được trung gian hóa qua sự xuất hiện của cái riêng hạn định và cũng chỉ thông qua các cái riêng này mà cái chung mới hiện hữu. Với tư cách mục đích và điều kiện khả thể cho cái riêng, cái chung là cái đem lại ý nghĩa cho sự hiện hữu của cái riêng, là cấu trúc tổ chức, một hình thức thiết lập trật tự các mối quan hệ của các cái riêng. Mối liên hệ giữa các cái riêng cá biệt không nảy sinh từ tập hợp ngẫu nhiên của chúng, mà được chế định bởi cái chung, chỉ trong mối liên hệ với các cá thể khác và tồn tại với tư cách là hiện thể của cái chung, cái riêng mới nhận được đầy đủ ý nghĩa sự tồn tại của nó.

Từ góc độ về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng như vậy, chúng ta có thể hiểu vì sao Arixtốt, trong Chính trị học, đã tuyên bố con người là động vật chính trị (politikon zoon)(3). Chỉ tham dự vào cộng đồng chính trị, nơi mà cái chung hiện hữu, con người mới thực sự có điều kiện hoàn thiện được bản chất người của mình, tìm được ý nghĩa đích thực về sự tồn tại của mình. Cái chung, hay cái chính trị, chỉ tồn tại trong cộng đồng chính trị (polis) thông qua sự tham dự tích cực và chủ động của các công dân bình đẳng và tự do. Cộng đồng chính trị ấy có thể hiểu là xã hội công dân, bởi chính cái chung hiện hữu như một thiết chế lịch sử cụ thể ở dạng Ethos (có thể hiểu là đức lý hay nền đạo đức) là cái nền tảng mà dựa vào đó, bản chất người của mỗi cá nhân ở dạng tiềm thể (tiềm năng) được triển khai và định hướng. Vì vậy, Ethos có thể được hiểu là truyền thống văn hóa, ngôn ngữ hay sinh thức (form of life) của một cộng đồng người. Cũng chính vì thế mà khi nói rằng, về bản chất, con người là động vật chính trị, Arixtốt còn tuyên bố con người là sinh thể hữu ngôn (zoon logon ekhon). Tuy nhiên, cái Ethos đó không phải là những khuôn mẫu xơ cứng, mà nó luôn được đổi mới thông qua hoạt động của công dân trong cộng đồng chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà trong tiến trình tư tưởng của Arixtốt thì điểm kết thúc của Đạo đức học của Nichomachus lại là điểm xuất phát của Chính trị học. Cái chính trị, hay cái công, dựa trên nền tảng của cái đạo đức, quy định bản sắc (identity) của công dân trong cộng đồng, đồng thời chỉ có thể tồn tại, duy trì và phát triển thông qua thực tiễn (praxis) của những công dân đó.

Cộng đồng chính trị hay polis, không những bao gồm các hoạt động chính trị của công dân, mà còn là một chỉnh thể hữu cơ bao trùm lên mọi khía cạnh khác của cuộc sống của công dân Hy Lạp cổ. Như Heidegger đã nhận xét, polis bao gồm cả “các vị thần và đền miếu, các lễ hội và trò diễn, các vị lãnh đạo chính trị và hội đồng các trưởng lão, hội đồng công dân và quân đội, các tướng lĩnh bộ binh và hải quân, các nhà thơ và nhà tư tưởng…”. Vì vậy, “chúng ta không thể quy polis là một nhà nước dân sự như thường thấy ở thế kỷ XIX được” (4). Như Andrew Lookyer đã giải thích rằng, từ gốc từ polis, người Hy Lạp còn có politeia (hiến pháp), polites (công dân), politeuma (cơ quan điều hành) và politicos (chính trị gia). Hiến pháp chính là “linh hồn của polis” (5), vì nó quy định các tổ chức của polis, chỉ ra đường lối cụ thể để đạt đến cuộc sống toàn thiện, đồng thời định đoạt ai là công dân của polis và quy định quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng theo hiến pháp mà điều hành polis, giúp mọi người hoàn thiện và đạt đến cuộc sống phúc lành. Như vậy, có thể hiểu polis là một xã hội được tổ chức theo hiến pháp (hay một cách chính trị, có sự tham gia tích cực của các công dân). Ở đây, dường như khái niệm nhà nước và xã hội hiện đại không tách rời nhau.

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong xã hội Hy Lạp cổ đại không phải tất cả mọi người đều là công dân, mà công dân chỉ bao gồm những người đàn ông trưởng thành, có giáo dục và thường là người chủ trong gia đình. Phụ nữ, trẻ em, nô lệ và người nước ngoài không phải là công dân của thành -bang. Họ bị giới hạn trong lĩnh vực kinh tế (gia đình), lĩnh vực tư và chịu sự cai quản của người đàn ông chứ không có quyền được tham gia vào đời sống chính trị, lĩnh vực công của cộng đồng. Đây cũng chính là những nét hạn chế của quan niệm cộng đồng chính trị Hy Lạp cổ bị các nhà triết học nữ quyền phê phán mạnh mẽ.

2. Tư tưởng về xã hội dân sự thời cận đại

Nếu như trong đời sống của Hy Lạp cổ đại kinh tế chỉ được coi là lĩnh vực tư, bó hẹp trong gia đình thì cùng với sự phát triển của lịch sử, kinh tế đã vượt ra khỏi lĩnh vực tư trong gia đình và thâm nhập vào lĩnh vực công của đời sống xã hội. Từ chỗ kinh tế là nghệ thuật điều hành gia đình và chỉ nhằm mục đích đảm bảo cung cấp và thỏa mãn các nhu cầu thiết của con người hoạt động kinh tế đã hướng tới sản xuất hàng hóa để trao đổi và làm giàu. Kinh tế đã dần dần trở thành “kinh tế xã hội” và “kinh tế chính trị”, một nghệ thuật quản lý đời sống kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt, sự ra đời và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ở phương Tây đã dẫn đến sự thay đổi quan niệm về quan hệ gia đình, xã hội và nhà nước: cái tư đã dần dần lấn át cái công. Các khía cạnh chính trị, tôn giáo, văn hóa và kinh tế được tách biệt ra. “Cộng đồng chính trị” được thay thế bằng các lĩnh vực đời sống văn hóa, chính trị, tôn giáo và kinh tế khá tách bạch trong xã hội trung và cận đại ở phương Tây. Trong bối cảnh đó, khái niệm dân sự được hình thành. Theo cách nhìn thuần túy về mặt kinh tế thì xã hội dân sự là một hình thức “khế ước xã hội”, được lập ra để bảo vệ quyền tư hữu và lợi ích tư của các cá thể theo đuổi các lợi ích tư của mình.

Trong quan niệm của J.Locke, xã hội dân sự (civil society), hầu như đồng nghĩa với xã hội chính trị (political society), là hình thức tổ chức xã hội văn minh và đối lập với trạng thái tự nhiên dã man. Trong Lá thư bàn về khoan dung, J.Locke đã nói rằng xã hội (dân sự) không chỉ là lĩnh vực theo đuổi các lợi ích kinh tế mang tính cá nhân một cách hòa bình và có pháp luật, mà còn là lĩnh vực bao gồm nhà thờ và dư luận mà nhà nước chỉ có thể điều hành hay can thiệp vì mục đích “lợi ích công”. Những ý tưởng về xã hội dân sự của Locke đã được A.Smith và A.Ferguson phát triển và lý giải theo 2 cách khác nhau.

Phát triển tiếp khái niệm về xã hội như một lĩnh vực tự chủ của các hoạt động kinh tế và hợp tác dân sự của J.Locke, trong Của cải của các dân tộc, A.Smith đã đưa ra luận thuyết về liên kết xã hội thông qua các hoạt động kinh tế của các cá nhân. Theo A.Smith, trong một xã hội định hướng theo thị trường có sự phân công lao động hợp lý các hoạt động kinh tế theo đuổi các mục đích tư lợi sẽ dẫn đến sự hợp tác xã hội và làm tăng của cải xã hội, các hoạt động kinh tế tư lợi này dường như được điều khiển bởi một ‘bàn tay vô hình”. Ở đây, A.Smith muốn nhấn mạnh đến tính độc lập của lĩnh vực kinh tế so với các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và văn hóa. Tư tưởng của A.Smith về xã hội dân sự nhấn mạnh đến tính độc lập của hoạt động kinh tế và giảm thiểu vai trò của nhà nước là cơ sở cho học thuyết tự do và tân tự do về xã hội dân sự. Theo quan điểm này thì vai trò của nhà nước và cộng đồng, các yếu tố văn hóa và chính trị trở thành thứ yếu. Quan điểm này khẳng định thị trường có đặc tính điều tiết tự nhiên (bàn tay vô hình) nên các lĩnh vực khác của xã hội, trước tiên là chính trị, phải tôn trọng, phục tùng quy luật của thị trường tự do. Cũng cần phải thấy rằng, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa là sự ra đời của tầng lớp tư sản và xuất hiện nhu cầu bảo vệ tài sản của tầng lớp đó. Các quyền lợi kinh tế cá nhân được đề cao dẫn đến việc đời sống cá nhân được coi trọng hơn đời sống công dân. Cộng đồng chính trị, nơi mà trước kia trong xã hội Hy Lạp cổ đại các hoạt động chính trị và văn hóa đóng vai trò chủ đạo, con người chỉ quan tâm đến lợi ích công của cả cộng đồng, đã bị xã hội dân sự tư sản, vốn chỉ coi trọng lợi ích, quyền lợi và tài sản cá nhân (tư sản), lấn lướt. Quan điểm về xã hội dân sự mang nặng tính kinh tế này chính là cơ sở để nhiều người đồng nhất xã hội dân sự (civil society) với xã hội tư sản (bourgeois) hơn là “xã hội dân chính” hay “xã hội công dân” (civic or civilis).

Tuy nhiên, quan điểm của A.Smith đã bị A.Ferguson phản đối. Trong Luận về lịch sử xã hội dân sự viết năm 1767, A.Ferguson nêu rõ rằng xã hội dân sự, với tư cách là một xã hội văn minh của các công dân, không thể thịnh vượng được nếu như các nhu cầu và lợi ích thuần túy về thương mại và kinh tế lấn át đức hạnh cá nhân và “tinh thần công” (public spirit). Theo A.Ferguson, xã hội là một lĩnh vực văn hóa đạo đức nơi mà công dân quyết định vận mệnh của cộng đồng chính trị của họ, đó cũng là nơi những đức hạnh thiết yếu cho tự do được phát triển. Quan điểm này được Montesquieu chia sẻ trong Tinh thần pháp luật viết năm 1748. Theo Montesquieu, xã hội dân sự là lĩnh vực trung giới giữa quyền lực chính trị (nhà nước) và công dân. Nhà nước và luật pháp ra đời không phải chỉ để bảo vệ các lợi ích tư và tài sản của cá nhân, mà là nhằm tạo điều kiện cho công dân hoàn thiện và phát triển. Công bằng xã hội không phải là kết quả do sự phát triển tự do của phát triển kinh tế (thị trường) đem lại, mà nó được thiết lập bởi các yếu tố và yêu cầu đạo đức cũng như những mục tiêu chính trị của cả cộng đồng trong sự phát triển lịch sử của mình. Chỉ khi công dân ý thức được rằng điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện của mình, quyền lợi của mình được quy định bởi bối cảnh tự nhiên, văn hóa và xã hội của cộng đồng nơi họ sinh ra thì công dân mới sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân (private interests) của mình vì phúc lợi công của cộng đồng (the public good). Trong nhà nước cộng hòa như vậy, luật pháp không phải là ý muốn tùy tiện của nhà cầm quyền, mà nó phải dựa vào tập quán (moeurs), môi trường xã hội, tôn giáo, thương mại… cụ thể của đất nước (6).

3. Hêghen và xã hội dân sự

Có thể thấy, một bước tiến rất đáng ghi nhận về khái niệm xã hội dân sự trong hệ thống triết học chính trị của Hêghen. Trong Triết học pháp quyền, Hêghen coi xã hội dân sự như một mắt xích trong cấu trúc hữu cơ của đời sống đạo đức (ethical life). Đời sống đạo đức bao gồm 3 yếu tố là gia đình, xã hội dân sự và nhà nước. Đây cũng là 3 giai đoạn thiết yếu trong sự phát triển của tự do. Khái niệm đời sống đạo đức của Hêghen chính là sự kế thừa khái niệm Ethos của Arixtốt nhưng được phát triển và mở rộng hơn với việc thừa nhận vai trò của kinh tế trong đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của con người.

Trong tư tưởng của Arixtốt, kinh tế thuộc về lĩnh vực tư, trong phạm vi gia đình và bị chi phối bởi các nhu cầu thiết yếu cũng như các lợi ích cá nhân (đồng nghĩa với lợi ích kinh tế), còn đời sống chính trị của cộng đồng (polis) là lĩnh vực công, lĩnh vực của các công dân tự do. Khi tham gia vào đời sống chính trị (lĩnh vực công), các công dân của cộng đồng (polis) vừa “tự do” trước những nhu cầu thiết yếu của lĩnh vực tư, vừa nhận được cơ hội để “tự do” hoàn thiện nhân cách của mình và cùng nhau vươn tới một cuộc sống phúc lành (good life). Tuy nhiên, Hêghen nhận thấy những hạn chế mang tính lịch sử(7) của mô hình cộng đồng chính trị của các triết gia Hy Lạp cổ đại trong việc loại trừ vai trò của hoạt động kinh tế trong đời sống chính trị của cộng đồng(8). Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - nền kinh tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, lợi ích cá nhân đóng vai trò động lực cho sự phát triển này.

Xã hội dân sự hay xã hội tư sản được hiểu là một tập hợp của các cá nhân độc lập liên kết với nhau chỉ bởi các lợi ích cá nhân của riêng mình thôi thì chưa đủ; vì, như Hêghen đã chỉ rõ, xã hội dân sự cần thiết phải có một tính thống nhất cụ thể do nhà nước đem lại (9). Đây cũng là cơ sở để ông phê phán luận thuyết tự do về xã hội dân sự và vai trò của nhà nước. Theo Hêghen, trật tự và sự thống nhất của xã hội dân sự không phải là một cái gì tự thiết lập hay tự điều hành có được qua các hoạt động kinh tế của các cá nhân độc lập, mà phải cần đến sự can thiệp tích cực của nhà nước. Ông không chấp nhận quan điểm của luận thuyết tự do cho rằng phúc lành chung của xã hội (common good) sẽ xuất hiện một cách tự nhiên và khách quan từ sự tác động của các hoạt động kinh tế trong xã hội dân sự. Hêghen đồng ý với A.Smith rằng sự theo đuổi các lợi ích cá nhân sẽ dẫn đến việc thiết lập một trật tự xã hội và sự lệ thuộc lẫn nhau nào đấy, nhưng ông không tán thành một trật tự kiểu như vậy là cái phúc lành chung của xã hội. Phúc lành chung đó, trật tự xã hội đó chỉ có thể có được nếu các hoạt động kinh tế, các lực lượng kinh tế của xã hội dân sự được kiểm soát và điều hành bởi nhà nước(10). Hêghen viết: “Xã hội dân sự là một con thú hoang cần phải được thuần hóa nghiêm ngặt và thường xuyên” (11).

Xã hội dân sự ra đời đánh dấu bước phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hêghen coi xã hội dân sự hay xã hội tư sản chỉ là một giai đoạn phát triển của tự do, là nơi đề cao quyền của chủ thể hay tự do cá nhân, là nơi con người có quyền theo đuổi lợi ích cá nhân của mình, được tự do trao đổi (mua và bán) hàng hóa thông qua cơ chế thị trường. Nhưng những tự do này, theo Hêghen, mang tính trừu tượng và hình thức bởi vì nó chứa đựng những mục đích cá nhân, mà phần lớn những mục đích này vẫn bị chi phối bởi những nhu cầu và ham muốn mang tính tự nhiên của con người như một sinh vật. Tự do đích thực là tự do bao gồm cả năng lực giúp con người thoát khỏi những ham muốn bản năng và hành động theo các nguyên lý lý tính. Mặc dù tự do đích thực như vậy chỉ tồn tại trong đời sống đạo đức trong giai đoạn nhà nước nhưng xã hội dân sự là một phần quan trọng, đóng vai trò giáo dục và định hướng con người đến giai đoạn tiếp theo của đời sống đạo đức, giai đoạn nhà nước. Xã hội dân sự là nơi con người bắt đầu ý thức được những nhu cầu của mình, dần biết “thuần phục” và “giải thoát” khỏi những ham muốn bản năng để vươn tới tự do đích thực.

Xã hội dân sự được Hêghen đặt giữa gia đình và nhà nước trong tiến trình thực thi tự do đích thực. Nó bao gồm cả đời sống kinh tế của cộng đồng cùng với các thể chế pháp luật và cảnh sát, liên hội (12) để đảm bảo sự hoạt động có trật tự và ổn định. Nếu trong gia đình các thành viên liên kết với nhau bởi tình thương yêu và sự tin cậy, thì trong xã hội dân sự, các thành viên liên kết với nhau bởi lợi ích cá nhân. Các lợi ích cá nhân tạo nên sự phụ thuộc của cá nhân với nhau, nhưng sự khác biệt của các lợi ích cá nhân cũng có thể dẫn đến xung đột; vì vậy, trong đời sống của xã hội dân sự còn có sự hiện diện của đại diện của các thể chế cảnh sát và liên hội (cooporation) như là lực lượng “thứ ba” để dàn xếp và điều hành xã hội dân sự. Ở đây, trong xã hội dân sự, Hêghen cũng cố gắng tìm ra mức độ hợp lý giữa trao quyền tự do cho xã hội dân sự và việc điều hành giám sát. Nếu xã hội dân sự có quá nhiều tự do thì có thể dẫn đến sự bất bình đẳng, nhưng nếu các cơ quan quyền lực can thiệp quá nhiều thì sẽ dẫn đến mất tự do và kìm hãm phát triển kinh tế. Vai trò của các thiết định xã hội ở đây là nhằm đảm bảo mọi công dân có cơ hội có việc làm đủ để duy trì các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Vì vậy, Hêghen tuyên bố rằng, xã hội dân sự bao gồm cả quyền lợi và nghĩa vụ. Nó có nghĩa vụ đảm bảo cho mọi công dân có quyền được làm việc và có thể nuôi sống được bản thân họ. Quan trọng hơn, nó có nghĩa vụ đảm bảo mọi công dân có quyền hưởng tự do và phát triển tiềm năng của mình (13). Sự phát triển và hoàn thiện của công dân cũng chính là điều kiện để xã hội thịnh vượng và tiến bộ.

Kết luận

Chúng ta thấy rằng, trong khi cộng đồng chính trị của Arixtốt là một chỉnh thể hữu cơ bao trùm lên các khía cạnh văn hóa, chính trị, xã hội và tôn giáo của cuộc sống của công dân Hy Lạp cổ đại nhưng loại trừ hoạt động kinh tế vốn bị coi là lĩnh vực tư giới hạn trong đời sống sinh hoạt của gia đình thì, theo quan niệm của Hêghen, cùng với sự phát triển của lịch sử, hoạt động kinh tế đã mở rộng ra rất nhiều. Đặc biệt, cùng với sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hoạt động kinh tế đã đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của xã hội phương Tây. Cộng đồng chính trị có thể được coi là một xã hội của các công dân Hy Lạp, nơi mà hầu như không có sự phân biệt giữa “nhà nước” và “xã hội” đã dần dần phân hóa rạch ròi thành các lĩnh vực riêng rẽ. Xã hội dân sự ra đời đánh dấu sự mở rộng của hoạt động kinh tế và của sự phân tầng xã hội, đặc biệt là sự xuất hiện của giai cấp tư sản, kinh tế không còn là kinh tế gia đình nữa mà trở thành “kinh tế chính trị”.

Trong quan niệm của Hêghen, mối liên hệ giữa gia đình và nhà nước được trung giới qua sự xuất hiện của xã hội dân sự trong tiến trình hiện thực hóa của tự do. Xã hội dân sự không chỉ giới hạn trong mọi hoạt động kinh tế của các cá nhân, mà còn là lĩnh vực để bước đầu đảm bảo quyền tự do của cá nhân và góp phần quan trọng trong việc giáo dục và hình thành nên nhân cách của con người, là giai đoạn quan trọng góp phần chuẩn bị cho sự hiện thực hóa của tự do trong sự phát triển của nhà nước. Mặc dù quan niệm của Hêghen về tự do cũng như vai trò của xã hội dân sự và nhà nước mang tính duy tâm, nhưng những luận điểm của ông về xã hội dân sự đã đóng vai trò nhất định trong sự hình thành tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội dân sự, về vai trò của nhà nước và quan niệm duy vật về sự phát triển của lịch sử.

--------------------------------------------------------------------------------

(1) Theo nguyên từ học thì kinh tế trong tiếng Hy Lạp (oikonomia ) có nghĩa là quản trị, điều hành gia đình, được hình thành từ hai từ gia đình, nhà (oikos) và quản trị, điều hành (nemein). Xem tại: http://www.wordinfo.info/words/index...age=1&letter=E

(2) Aristotle. Politics. 1252b 29-30 and 1253a 31-37. The Complete Works of Aristotle, Vol. 2, Princeton, 1984

(3) Aristotle. Politics 1352a7-18, 178b 15-30

(4) M.Heidegger. Holerdin’s hymn “The Ister”. Translated by W.McNeill and J.Davis. Indiana University Press, 1996, p.82

(5) The Political Classics. Oxford University Press. 1992. pp. 56-57

(6) Annelien de Dijn. French Political Thought from Montesquieu to Tocqueville . Cambridge University Press 2008, p. 21

(7) Bởi vì kinh tế thời Hy Lạp cổ chỉ là nền kinh tế gia đình tự cung tự cấp chứ chưa trở thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa thời Hêghen.

(8) G.W.F.Hegel. Philosophy of Right. Translated by S.W Dyde. Kitchener, Ontario 2001, p.157.

(9) G.W.F.Hegel. Ibid., pp. 155, 156.

(10) G.W.F.Hegel. Ibid., pp. 157, 165, 185,186.

(11) F.Beiser. Hegel. Routledge, New York, 2005. p.249.

(12) Theo M.Inwood thì cảnh sát (polizei có gốc Hy Lạp là politeia) có nghĩa rộng hơn khái niệm “cảnh sát” ngày nay hiểu vì nó bao gồm cả việc điều hành và quản lý công xã hội, là chính quyền đảm đương cả những công việc về bảo vệ trật tự và an ninh đến việc định đoạt giá cả thị trường những mặt hàng thiết yếu, giám sát chất lượng hàng hóa, cung cấp các dịch vụ y tế… Xem trong M. Inwood. A Hegel Dictionary. Blackwell Publishers, USA, 1992, pp.54-55.

(13) G.W.F. Hegel. Philosophy of Right. Translated by S.W Dyde. Kitchener, Ontario 2001, p.188.

Nguồn: Tạp chí Triết học
Cái phổ biến bao giờ cũng tồn tại thông qua cái đặc thù, cái đặc thù nào cũng gắn liền với cái phổ biến, không có cái nào tồn tại thuần túy tự nó. Nghiên cứu cái đặc thù bao giờ cũng phức tạp, khó phân định hơn. Điều đó cũng đúng với trường hợp xã hội dân sự (XHDS).

XHDS ở Việt Nam cả lý thuyết, đường lối và thực tế đang đặt ra nhiều câu hỏi phải trả lời.

Đúng là ngày nay, XHDS có tính phổ biến, tinh toàn cầu, dù rằng các dân tộc tiến đế nó một cách nhanh chậm khác nhau và phát huy nó khác nhau. XHDS nói chung là sự tự tổ chức của nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của mình, vì lợi ích của chính mình, ngoài phương thức nhà nước và thị trường. Trong quan hệ với nhà nước và thị trường, nó có cả hợp tác, đối tác và đối lập biện chứng hay nói đúng hơn là đối trọng, dù có thể mặt nào là chính là tùy theo từng chế độ chính trị và truyền thống văn hóa, tương quan lực lượng. Chủ thể quyền lực không chỉ là nhà nước mà có cả quyền lực xã hội dân sự và quyền lực thị trường.

Nhưng XHDS là sản phẩm cụ thể của từng dân tộc, nó có tính phổ biến và cả tính đặc thù.

XHDS là sản phẩm của cái gì?

Phải chăng XHDS chỉ là sản phẩm của nhà nước pháp quyền? Đúng nhưng không đủ. XHDS ra đời trước hết là do kinh tế thị trường đòi hỏi quyền tự do kinh doanh và được bảo vệ lợi ích của mình. Nhưng thị trường chỉ lo kinh tế, lo lợi nhuận là chính, ít quan tâm và không lo được các vấn đề xã hội, lợi ích dân sinh. Đồng thời, nhà nước cũng chỉ lo được những vấn đề lớn, nguồn lực, năng lực cũng có hạn, nên các tổ chức xã hội do dân lập ra phải tự lo lấy và giải quyết các vấn đề của mình. Xã hội tự nó cũng có nhu cầu tự tổ chức, tự thể hiện và tự vệ. Hơn nữa nhờ có XHDS đó mà tránh được phần nào sự lạm quyền từ cả kinh tế thị trường và nhà nước. Các tổ chức xã hội ở nước ta trước đây, có khi xuất hiện còn do cảc nhu cầu vận động nhân dân chống ngoại xâm, hay tự vệ. Hiến pháp năm 1946 cũng cho phép nhân dân tự lập Hội. Nhưng ngày nay với nền kinh tế mới, nhà nước pháp quyền nên dân chủ của nhân dân, thì dân tự do lập hội, để thể hiện và bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. XHDS vì vậy tạo nên một mạng lưới tổ chức rộng khắp và đa tầng.

Đúng là XHDS không chỉ bị chi phối bởi kinh tế thị trường, mà cả nhà nước pháp quyền. Nhưng chưa đủ, mà nó còn bị chi phố khá mạnh về truyền thống văn hóa nói chung và văn hóa chinh trị nói riêng, và phụ thuộc vào cả sự tương quan lực lượng xã hội của nó.

XHDS không chỉ tồn tại ở phương Tây mà cả phương Đông và không chỉ trong chủ nghĩa tư bản mà cả trong chủ nghĩa xã hội. Các xã hội tiền tư bản cũng có những hình thức thấp hay manh nha XHDS.

Không có XHDS nói chung trong thực tế mà bao giờ nó cũng tồn tại một cách đặc thù.

Ở Việt Nam ta XHDS trong qua trình hình thành của nó sẽ thể hiện thể hiện khá rõ mạnh

1) thấm nhuần về mặt văn hóa cộng đồng, tính đoàn kết, tương trợ và tính đồng thuận xã hội, có mầm mống trong xã hội làng xã xưa.

2) Trong xã hội thực dân phong kiến cũng hình thành nên những tổ chức xã hội, hoặc để đấu tranh chính trị hoặc để bảo vệ các quyền lợi xã hội trong đời sống bình thường trước các thế lực cường quyền.

3) Nhưng XHDS ở VN ngày nay còn là xã hội trong thể chế một đảng cầm quyền, nhất nguyên chính trị nên XHDS ở đây có thể cơ cấu tổ chức chính trị xã hội trong XHDS và trong hệ thống chính trị sẽ mang tính trung gian 2 mặt.

4) XHDS ở VN ngày nay sẽ là dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần cả công và cả tư, định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải XHDS mang tính chất tư bản chủ nghĩa.

5) XHDS ở VN cơ bản không mang tính đối kháng trong nó và với nhà nước. Tính đồng thuận và đoàn kêt xã hội của XHDS khá cao, nhưng các tiổ chức hoạt đỘng còn phân tán, tính pháp lý chưa đủ và cần thiết.

Những tiêu chí cơ bản của XHDS. Cơ cấu XHDS và tính độc lập của XHDS. Những tổ chức nào trong XHDS?

Những tiêu chí. Trước hết cần thống nhất tiêu chí của tổ chức XHDS. Theo chúng tôi, có thể có các tiêu chí như sau:

1) Tính tự nguyện cộng đồng tự tổ chức,

2) Không bị chi phối bởi tổ chức lợi nhuận, hay vì mục tiêu lợi nhuận;

3) không bị chi phối trực tiếp bởi đảng cầm quyền, hay trực tiếp liên quan tới vấn đề đảng cầm quyền, hoạt động vì sự ràng buộc trực tiếp của đảng cầm quyền là chính;

4) không mang tính chất quyền lực nhà nước, không mhằm mục đích giành quyền lực hay vì quyền lực nhà nước.

Đó là 4 tiêu chí cơ bản quan trọng. Nhưng tiêu chí thứ 2 và thứ 4 là quan trọng hơn tiêu chí (1) dân tự tổ chức và tự nguyện, không bị áp lực nào. Vì theo nghĩa nào đó nhà nước ở nước ta cũng do nhân dân tổ chức nên. Nhưng ở đây, nhà nước ấy có sự chi phối của đảng cầm quyền. Còn về sự có mặt của đảng cầm quyền trong tổ chức thì xem xét xem nó có chi phối tổ chức hay không. Ví dụ các doanh nghiệp tư nhân có lập chi đảng bộ của đảng cầm quyền nhưng họ vẫn hoạt động theo nguyên tắc lợi nhuận và vẫn nằm trong phạm trù kinh tế thị trường. Hoặc công đoàn là tổ chức của công nhân chứ không phải tổ chức đảng phái và không phải tổ chức nhà nước, thì nói chung nó vẫn thuộc về XHDS, dù trong tổ chức công đàn ở nước ta cũng có nhân tố đảng cầm quyền. Đó là điều đáng lưu ý nhất. Vì theo chúng tôi, XHDS là tổ chức phân biệt với nhà nước chứ không phải phân biệt với tổ chức chính trị.

Về tính độc lập hay không của XHDS cũng liên quan tới các tiêu chí cơ bản nói trên. Tài chính của tổ chức chỉ là một nhân tố chi phối nhưng không cơ bản, vấn đề và mục tiêu, cương lĩnh của tổ chức. Tính độc lập của tổ chức không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách tài chính ở đâu. Phải chăng không độc lập tài chính thì không phải XHDS. Nước ngoài, có nhà nghên cứu và hoạt động thực tế cho biết là, có tổ chức như vậy nhưng vẫn ở trong XHDS. Kinh phí chỉ là một tiêu chí phụ. Mục đích phục vụ mới là tiêu chí là chính. Có thể được tài trợ hay cấp về tài chính nhưng tài chính ấy không mang tính chi phối, ràng buộc hay gây áp lực đối với mục tiêu hoạt động của tổ chức. Cơ bản là ở cương lĩnh tổ chức của nó.

Những tổ chức nào trong XHDS?

Đây là vấn đề khá khó, nhất là khi xã hội ta đang thời kỳ chuyển đổi và đang hình thành dạng thức mới và ngày xã hội chúng ta cũng có đăc trưng mới, khác xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy cần nêu lên những câu hỏi, những giả thuyết để nghiên cứu.

Có người nêu câu hỏi, với XHDS thì tổ chức kinh tế tư nhân nằm ở đâu, kinh tế nhà nước nằm ở đâu? Theo chúng tôi, ở nước ta, nó nằm trong kinh tế thị trường. Nhưng các hiệp hội của nó thì lại thuộc về XHDS. Nhóm lợi ích vận động hành lang ở các nước có ở trong XHDS không? Có. Nhưng nó cũng có mặt không hoàn toàn như vậy nếu nó hướng tới giành chính quyền hay hoạt động trong chính quyền. Có những nhóm lợi ích, nhất là ở VN, không nhằm tới hoạt động chính trị và chính quyền dù có thể tác động đến chính quyền. Những nhóm như vậy nằm trong xã hội dân sự. Các hội doanh nhân nó liên quan tới thị trường, nhưng Hội là phi lợi nhuận, dù có khi nhờ tác động của nó mà danh nghiệp thu lợi, nhưng đó là hai góc độ khác nhau.

Phải chăng khái niệm XHDS, nó bao hàm cả lĩnh vực kinh tế. Trong XHDS, thì mỗi cá nhân tự do giao tiếp với nhau (không quan hệ với nhà nước) kể cả trong lĩnh vực kinh tế. Trong luật Dân sự, có giao dịch kinh tế, công ty quốc doanh cũng ở trong XHDS, truyền thông cũng vậy. Đúng như vậy không khi nói về XHDS?

Thật ra Luật dân sự là so sánh với Luật hình sự, nghĩa là quan hệ khác, nên nó bao hàm lĩnh vực kinh tế. Còn khi nói XHDS là trong quan hệ với nhà nước và kinh tế thị trường, nó phi thị trường và phi nhà nước nhưng không phi quan hệ. Ở đây không thể lầm lẫn về nội dung khái niệm, cùng khái niệm nhưng quan hệ khác thì nó có nội hàm khác. Các quan hệ kinh tế dù có tính dân sự nhưng không thuộc phạm trù XHDS. Đa số các nhà khoa học và các nước đều hiểu như vậy.

Ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) do Đảng lập ra. Nếu Đảng tổ chức thì trong con mắt thế giới thì nó không nằm trong xã hội dân sự. Nhưng theo chúng tôi nó cũng có thể vẫn có mặt thuộc về XHDS. MTTQ không có mục tiêu giành chính quyền, mặc dù nó có thể có nhiệm vụ bảo vệ chính quyền của nhân dân nhưng trước hết nó phải bảo vệ quyền lợi của tổ chức của mình, những tổ chức xã hội ở lĩnh vực dân sự. Công đoàn ở các nước nói chung thuộc XHDS. Trừ trường hợp có lúc công đoàn nào đó được đảng phái hóa, chính trị hóa và nhằm mục tiêu giành chính quyền, là không còn thuộc về XHDS. Ở nước ta Công đoàn do Đảng lập ra, và đồng thời cũng do công nhân tự tổ chức, vậy nó có thể có cả hai mặt nhị nguyên, vừa có tính chất XHDS, vừa không hoàn toàn như vậy? Thực ra thì công đoàn nằm trong mạng lưới XHDS, vì nó không thuuộc nhà nước.

Phải chăng các đảng phái nằm trong XHDS?

Chế độ nhiều đảng thì đảng chính trị nhằm theo đuổi quyền lực chính trị- nhà nước thì không ở trong xã hội dân sự. Nhưng nếu đảng phái, khi không nằm trong cơ cấu quyền lực nhà nước thì có thể tạm thời tham gia vào XHDS, hay thuộc về XHDS. Tuy nhiên sự phân biệt này rât tương đối vì vấn đề là có trở thành tổ chức nhà nước hay không, chứ trên thực tế khi trở thành đảng cầm quyền thì đảng ấy vẫn còn duy trì hình thức tổ chức đảng phái phi chính quyền, tức không mang tính chất nhà nước, thì sao lại không phải XHDS?

Các cơ quan truyền thông nằm ở đâu? Truyền thông là quyền lực thứ 4. Truyền thông cũng vậy. Cơ quan ngôn luận của nhà nước thì nằm trong nhà nước. Cơ quan truyền thông phi nhà nước, chỉ là của các tổ chức XHDS, thì nằm trong XHDS. Phải chăng Tạp chí Cộng sản ở ta thì không nằm trong XHDS, nhưng tạp chí Xưa và Nay thì nằm trong XHDS. Có phải như vậy không? Nhưng báo Nhân Dân, hay báo các đảng bộ trước đây chỉ là cơ quan của Đảng nhưng sau này sửa lại nó vừa là thể hiện tiếng nói của đảng, nhà nước và vừa là của nhân dân thì quả là khó phân biệt, nhưng XHDS vẫn có thể đăng đàn. Có lẽ tính “nhị nguyên” một số tổ chức như thế là có thật. Nhưng một số tổ chức khác thì đứng hẳn về XHDS, hay về nhà nước, hay về kinh tế thị trường (các doanh nghiệp). Như vậy, có những tổ chức có Đảng lãnh đạo và có những tổ chức không cần thiết có sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng. Nhưng ở nước ta không nên chỉ bó hẹp XHDS chỉ gồm các tổ chức phi đảng, phi chính trị, theo nghĩa xã hội thuần túy. XHDS thì mục tiêu xã hội dân sinh, tính nghề nghiệp, tính tôn giáo, tính giai tầng, nhóm xã hội là chính. Tuy vậy thực tế xã hội không có ranh giới quá rạch ròi như vậy. Có thể có những tổ chức mang tính trung gian 2 mặt, hai vai trò, vai trò kép, tùy lúc vào trò nào là chính. Đây là vấn đề mới và khó, cần nghiên cứu tiêu chí và phân định một cách tương đối.

Cơ cấu XHDS hay khu vực XHDS ở nước ta như thế nào?

Như vậy ở nước ta có loại thuần túy thuộc về xã hội dân sự như các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội – hội - nghề nghiệp (như hội làm vườn, hội doanh nhân,…), tổ chức tương thân tương ái (hội đồng hương,…).

Nhưng cũng có loại vừa thuộc xã hội dân sự vừa gắn với hệ thống chính trị, đó là những tổ chức chính trị xã hội. Nước ta có 6 tổ chức mà đảng cầm quyền và tuy nhà nước chi phối trực tiếp (qua đường lối và kinh phí tài chính) như Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội nhà báo nhưng nó vẫn thuộc XHDS.

Còn một số tổ chức chính trị xã hội mà đảng cầm quyền không chi phối trực tiếp, hay chỉ một phần, nó vẫn thuộc về xã hội dân sự (Liên hiệp Hội văn học nghệ thuật, Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật).

Nhưng cũng có thể đặt vấn đề là cần cơ cấu lại và phân định các tổ cức về XHDS, dứt khoát về phía nào, không nên nửa dươi nửa chuột, khó làm việc, khó thực hiện chức năng của mình?

Theo nhóm tác giả “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta hiện nay” (TS.Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương, đồng chủ biên, Nxb.Chính trị quốc gia, 2007) thì kết cấu cộng đồng XHDS với phổ rất rộng bao gồm cả tổ chức quần chúng trong hệ thống chính trị và tổ chức thuần tùy xã hội khác (tr.54). Do vậy Mặt trận tổ quốc VN thuộc xã hội dân sự , mà trong đó có đảng là thanh viên Mặt trận thì đảng vẫn là ở trong xã hội dân sự (tr. 73), Mặt trận làm nòng cốt trong XHDS (tr.71) vừa mang tính chính trị vừa mang tính xã hội. Nhưng đảng khi là đảng cầm quyền thực thi quyền lãnh đạo qua nhà nước (tổ chức đảng trong tổ chức nhà nước) thì nó lại không thuộc XHDS chỉ theo nghĩa ấy thôi.

Nhà nước không tham gia Mặt trận nhưng ban hành luật về Mặt trận thì không phải vì vậy mà Mặt trận không phải là thuộc XHDS. Có điều ở nước ta các tổ chức thuộc hệ thống chính trị trừ nhà nước vẫn thuộc XHDS nhưng nó lại vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền.

Việt Nam ta có xã hội dân sự chưa?

XHDS là dân tự tổ chức. Phải chăng trên một ý nghĩa như vậy thì VN đã có XHDS rồi. Thời Bác Hồ đã có quy định về lập hội. Nhà nước của dân… là thừa nhận có XHDS. Nhưng chúng tôi cho rằng nếu hiểu XHDS theo nghĩa đây đủ, hiện đại thì chúng ta mới có ở mức sơ khai, còn khi nào có nhà nước pháp quyền thật sự thì XHDS mới phát triển. Không có nhà nước pháp quyền mạnh không có xã hội dân sự mạnh và ngược lại. Cũng nên hiểu như vậy giữa XHDS và kinh tế thị trường.

Trong lịch sử thế giới ta cũng thấy: Xã hội La Mã dân tự ti63 chức, tập hợp nói lên chính kiến của mình như vậy là có XHDS, nhưng cũng có thể là dạng tiền XHDS hiểu theo nghĩa hiện đại. Đúng là XHDS cùng với sự phát triển xã hội tư bản chủ nghĩa thì sau này các nhà tư tưởng mới tổng kết lên lý luận về XHDS ở Tây Âu... và nước Mỹ đã áp dụng theo cách của họ.

Ở ta, quá trình xây dựng XHDS còn nhiều bất cập, tự phát. Dúng như phân tích ở trên, có tổ chức xã hội còn lai giữa XHDS và Nhà nước. Nên mới có nhận xét rằng, dân sự mà không hoàn toàn dân sự, dân chủ mà không dân chủ, không độc quyền mà độc quyền. Phải chăng chúng ta vẫn còn trong trạng thái quá độ của sự chuyển đổi xã hội?

Từ nhà nước, kinh tế thị trường với những nhược điểm của nó mà xuất hiện XHDS. Nhưng XHDS ở VN đã xuất hiện tự phát. Chúng at chưa có đủ khung pháp lý và không gian cho xã hội dân sự hình thành tự giác. Cho nên có tổ chức XHDS ở ta, có mặt, có tổ chức còn làm chui, nghĩa là chưa có cơ sở pháp lý chính thức nhưng nhờ nó mà ta trụ được, như có người nhận xét.

Tự hình thành hay xây dựng XHDS?

Có quan niệm sợ Đảng đứng ra xây dựng XHDS, chứ không phải dân tự nguyện. Đúng là Đảng không nên và không thể dứng ra lập nên các tổ chức XHDS. Thật ra XHDS đã và đang hình thành, vấn đề là Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện, và rất cần tạo điều kiện, nhất là chủ trương, pháp lý thì nó mới bớt tính tự phát, chứ không phải áp đặt. Và tất nhiên, không nên và không thể áp đặt cho XHDS. Không thể nhà nước hóa hay đảng hóa, chính trị hóa XHDS, nhưng đồng thời cũng không nên hiểu cực đoan rằng, XHDS là thuần túy xã hội không liên quan gì đến chính trị và kinh tế. Nhưng nó vẫn cần đăng ký và cần sự công nhận của nhà nước và hoạt động trong khuôn Hiến pháp và khổ pháp luật.

Chúng ta mong muốn có XHDS lành mạnh, khỏe mạnh, cũng như cần nhà nước pháp quyền và một thị trường lành mạnh, khỏe mạnh. Nhưng phải chăng không cần xây dựng XHDS, mà để cho nó tự hình thành và khi có NNPQ thì nó ắt hình thành?

Thật ra khi chúng ta nói xây dựng vẫn là chủ động về mặt pháp lý, tạo một không gian dân chủ, một môi trường dân chủ và định hướng chung về mục tiêu, nếu không chủ động xây dựng như thế thì nó tự phát. Xây dựng và sự hình thành là 2 mặt thống nhất, xét cả góc độ quản lý xã hội và góc độ thực tiễn, góc độ khách quan và chủ quan.

XHDS đúng nghĩa chỉ có khi có NNPQ, nhưng nó phải được xây dựng bởi tạo nên môi trường pháp quyền cho nó. Xã hội pháp quyền thay chế độ thần quyền, thế quyền, thay cho “chế độ toàn trị”,nếu có. Pháp quyền là quyền lực tối thượng thì đứng trên cả nhà nước. Nó là tập trung quyền lực của nhân dân. Cho nên phải có luật về XHDS, chứ không chỉ về Hội.

Hoạt động xã hội là có ý thức, và có luật pháp, nên càng phải có khung pháp lý. Nhà nước cần có khung đó cho XHDS hình thành và hoàn thiện, để nó tự phát triển, Nhà nước công nhận. XHDS là dân tự tổ chức. Thời Hậu hiện đại, XHDS hiện nay không còn dựa vào quyền cá nhân nữa mà chủ yếu dựa vào tổ chức xã hội. Xã hội khi xã hội hóa càng cao thì càng cần XHDS và sẽ chủ động hình thành XHDS. Nhân dân tự do tham gia Hội không bị sức ép nào. XHDS là quyền tự do phát biểu và lập hội của công dân. XHDS là cầu nối trung gian giữa cá nhân và nhà nước… Nhưng không phải vô chính phủ mà là phải có luật. Vấn đề hiện nay là ở đó. Tuy vậy, phải nghiên cứu về mặt khoa học và mặt kinh nghiệm ở các nước đi trước.

Nhưng liệu có XHDS mang bản chất tư bản và XHDS mang bản chất XHCN không?

Chúng tôi cho rằng là có vì nó là một bộ phận trong hình thái kinh tế xã hội cụ thể, nên không thể không mang bản chất của hình thái ấy. Nó cũng như kinh tế thị trường. Do vậy có thể có XHDS định hướng XHCN, như trường hợp VN hiện nay. Tuy nhiên, nó vẫn có những nguyên tắc, phương thức tổ chức và đặc trưng chung mang tính phổ biến, như đã trình bày.

Nói định hướng XHCN là XHDS hình thành hoạt động vì lợi ích hợp pháp của công dân và cùng với nhà nước xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh và hạnh phúc. Nhưng điều đó phải thể hiện và định hướng bằng công cụ chính sách và pháp luận cùng dư luận xã hội.

TS. Hồ Bá Thâm, Viện nghiên cứu phát triển tp. HCM - Tạp chí Sinh hoạt lý luận (Số 1/2009) 
Khái niệm xã hội dân sự từ lâu đã trở thành một khái niệm quan trọng và ngày càng trở nên quan trọng khi quá trình toàn cầu hoá đang làm thế giới xích lại gần nhau hơn. Và khi các giá trị cá nhân ngày càng được khẳng định thì một xã hội dân sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con người ngày càng trở nên cần thiết.

Thế kỷ Khai Sáng với nhiều tác phẩm bất hủ của các nhà triết học nổi tiếng như Rousseau hay Montesquier tuy chưa thực sự nhắc đến một xã hội dân sự nhưng những tư tưởng về chủ quyền nhân dân và sự phủ định vai trò tuyệt đối của nhà nước đã góp phần tạo nền tảng cho sự hình thành khái niệm xã hội dân sự. Từ đó đến nay, xã hội dân sự không còn là một khái niệm mới song cũng chưa đủ cũ để người ta thôi luận bàn về nó. Nói cách khác, hơn 300 năm sau Thế kỷ Khai Sáng, gần 300 năm sau khi "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, loài người đã có một bước tiến dài về phía xã hội dân sự nhưng vẫn còn sự nhận thức khác nhau giữa các cộng đồng dân tộc. Xã hội dân sự, ở một số nơi, chưa được thừa nhận và tôn trọng, do đó, nó không phát huy được vai trò của mình trong tiến trình phát triển. Vậy xã hội dân sự là gì? Vai trò của nó cũng như tương quan giữa nó và sự phát triển của con người là gì? Sự thiếu vắng hay không được thừa nhận xã hội dân sự ở một số quốc gia đang phát triển có ảnh hưởng thế nào đến quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ của các quốc gia này? Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu và thảo luận một cách rất nghiêm túc.

1. Xã hội dân sự và đặc điểm của nó

Xã hội dân sự là xã hội phi nhà nước

Tôi cho rằng, xã hội dân sự, hiểu một cách đơn giản nhất là xã hội phi nhà nước, ở đó, mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên sự tự thảo luận và tạo ra sự đồng thuận trên các vấn đề của cuộc sống mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. Xã hội dân sự là xã hội tự cân bằng. Nó có các tổ chức do xã hội lập ra để thể hiện những loại hình ý chí khác nhau của cộng đồng. Nói cách khác, tự bản thân xã hội dân sự sẽ điều chỉnh, hạn chế tất cả những sự cực đoan, những hành vi không phù hợp với lợi ích cộng đồng bằng các quy tắc bất thành văn mà không cần sự tham gia của các yếu tố nhà nước. Có thể nói tính tự lập là bản chất của xã hội dân sự, tức là xã hội tự giải quyết các vấn đề của nó. Xã hội dân sự là xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó không có khả năng để tự quản nữa thì phần còn lại rơi vào nhà nước. Rất nhiều quốc gia chậm phát triển đã không nhận thức được điều này. Người ta luôn cho rằng nhà nước phải có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống mà không biết rằng nhà nước là bộ phận nối dài của xã hội dân sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội không tự giải quyết được. Thực ra, nếu chúng ta thừa nhận sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước nhằm dung hoà lợi ích của các cộng đồng người trong một xã hội hay nếu chúng ta thừa nhận nhà nước được hình thành từ sự góp vốn tự do của con người thì chúng ta sẽ thấy rằng, rõ ràng xã hội dân sự có trước nhà nước. Nhà nước là bộ phận thượng tầng của xã hội, là nơi giải quyết những vấn đề xã hội đòi hỏi, hay nói cách khác, con người tạo ra nhà nước để giải quyết những vấn đề mà tự nó không giải quyết được. Còn nếu chúng ta quy lịch sử phát triển loài người vào lịch sử phát triển các nhà nước, tức là nếu chúng ta cho rằng, con người chỉ trở thành con người xã hội khi có nhà nước thì chúng ta sẽ biến nhà nước trở thành kẻ sinh ra xã hội. Và như thế, chúng ta sẽ không thừa nhận tình trạng không có con người nằm ngoài nhà nước, và nó dẫn đến một logic là Xã hội = Nhà nước.

Hầu hết các nước chậm phát triển hay đang phát triển đều nhận thức chưa đúng về vai trò của nhà nước. Sự phong cho nhà nước một quyền lực quá lớn đã dẫn đến một logic ngược lại, nhà nước không phải là nơi giải quyết những vấn đề xã hội đòi hỏi mà xã hội là nơi để nhà nước áp đặt những đòi hỏi của mình. Sự phủ bóng quá lớn của nhà nước xuống xã hội đã khiến đời sống dân sự của con người bị thu hẹp lại thậm chí trở thành bất hợp pháp. Pháp luật ở một số quốc gia không thừa nhận tình trạng không có nhà nước trong một loạt các khu vực khác nhau của đời sống và làm mất đi những yếu tố của xã hội dân sự. Ví dụ, nhà nước không thừa nhận vai trò làm chứng của một luật sư cho các cam kết dân sự của khách hàng mà chỉ thừa nhận sự làm chứng của các cơ quan công chứng nhà nước. Nhận thức sai lầm về vai trò của nhà nước, con người cũng nhận thức sai lầm về địa vị xã hội. Một số người luôn quan niệm là phải làm việc ở cơ quan nhà nước mới có địa vị xã hội và danh dự. Do đó, con người bằng mọi giá phấn đấu để được vào biên chế, để được bao cấp, được bảo vệ bởi nhà nước. Con người mất tự tin khi bị tách khỏi nhà nước và con người bơ vơ về tinh thần khi ra khỏi nhà nước. Trạng thái này kéo dài ở một số quốc gia, làm hình thành nên một nền văn hóa không có dấu hiệu dân sự. Nền văn hóa mà người ta lấy tất cả những ưu thế trong hệ thống nhà nước làm thước đo của giá trị thì không còn đời sống dân sự, tức là con người không có quyền lợi nào nếu không gắn với một nhà nước cụ thể. Nhưng trong hàng trăm hành vi của con người hàng ngày, có bao nhiêu phần trăm là hành vi mang chất lượng nhà nước và bao nhiêu hành vi mang chất lượng tự nhiên? Và con người lành mạnh là con người hành động tự giác hay con người hành động trong sự giục giã, giám sát và điều chỉnh của nhà nước? Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận vai trò điều chỉnh và giám sát của nhà nước vì rõ ràng, có những vấn đề mà nếu nhà nước không đảm nhiệm, xã hội dân sự không thể giải quyết nổi.

Ở đây, phải nói thêm một khía cạnh là trong một quốc gia bao giờ cũng có nhiều cộng đồng dân sự, có nhiều quy tắc và điều này đã khiến một số người nhầm lẫn giữa các quy tắc dân sự của cộng đồng với hương ước, lệ làng. Họ tưởng rằng đó là thể hiện cơ bản của xã hội dân sự. Phải khẳng định rằng hương ước hay lệ làng thực chất là những quy tắc phản ánh một xã hội khu trú và chậm tiến bộ. Nó là những thói quen văn hóa rất chậm thay đổi, lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, con người mặc nhiên chấp nhận nó như một quy ước. Còn những quy tắc trong xã hội dân sự được hình thành dựa trên cơ sở sự đồng thuận xã hội, tức là con người trực tiếp tham gia vào quá trình thương thảo về những quy tắc và đấy là biểu hiện của trình độ phát triển cao, trong đó mỗi người dân đều ý thức được vai trò, quyền và lợi ích của mình. Những quy tắc này có thể biến đổi theo thời gian tùy thuộc vào trạng thái phát triển của xã hội.

Sự khác biệt giữa xã hội dân sự và xã hội công dân

Các cuộc tranh luận giữa các học giả còn xoay quanh khái niệm xã hội công dân hay xã hội dân sự. Ban đầu, ý tưởng về "xã hội dân sự" và "xã hội công dân" gần như đồng nhất, nhưng dần dần hai khái niệm ấy tách khỏi nhau vì trong tiến trình phát triển, con người ngày càng thấy rõ mỗi công dân đồng thời cũng là con người với tất cả những đặc tính phong phú của mình. Cho nên, không thể quy toàn bộ tính phong phú ấy vào trong khái niệm công dân. Vậy xã hội công dân là gì? Tôi cho rằng, xã hội công dân là một xã hội mà các thành viên của nó là công dân theo đúng nghĩa. Vấn đề đặt ra là công dân là gì? Công dân là các thành viên của một xã hội hiện đại, ở đó mọi quyền của con người đều được tôn trọng, tức là mỗi một con người trở thành chủ sở hữu xã hội và có các quyền hiến định và pháp định rành mạch. Nói cách khác, nếu xã hội dân sự là xã hội nằm ngoài nhà nước, không cần đến nhà nước thì xã hội công dân là pháp chế hóa xã hội dân sự. Như vậy, xã hội dân sự rộng lớn hơn và cũng căn bản hơn nhiều so với xã hội công dân.

Có thể nói, 80-90% hành vi hàng ngày của mỗi con người là hành vi tự nhiên, phi nhà nước. Thử tưởng tượng con người sẽ sống, sinh hoạt như thế nào nếu hàng ngày, hàng giờ, hàng phút anh ta mang trong mình ý niệm là một công dân? Con người làm sao có đủ cảm hứng sáng tạo khi luôn phải mang nặng nghĩa vụ này, nghĩa vụ kia. Tuy vậy, một con người khi sống với cộng đồng dân sự của mình, họ cũng có những thỏa thuận, có những sự cân bằng tự nhiên của mình. Nói cách khác, xã hội dân sự đó phải nằm trong một nhà nước cụ thể hay các cộng đồng dân sự phải nằm trong một thể chế nhà nước cụ thể, và tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau trước pháp luật bởi tư thế công dân của mình. Xã hội công dân là xã hội cần đến nhà nước và nhà nước phải tuân thủ các quy luật của xã hội công dân để hành xử. Còn xã hội dân sự là xã hội không lệ thuộc vào nhà nước. Nói cách khác, nói đến xã hội dân sự là nói đến nhân quyền còn nói đến xã hội công dân là nói đến dân quyền. Tuy nhiên, ở các quốc gia chậm phát triển, người ta thường đề cao xã hội công dân thay vì xã hội dân sự, người ta cho rằng chỉ cần xã hội công dân là đủ bởi vì họ không muốn thừa nhận nhân quyền, họ muốn khoả lấp nhân quyền vào trong dân quyền. Xã hội dân sự là xã hội mà ở đó nhân quyền thống trị còn dân quyền là mảnh đất chung nhau giữa con người tự nhiên với con người xã hội. Dân quyền là cơ sở của việc hình thành nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ công dân thì con người mới có quyền đòi hỏi quyền làm chủ nhà nước tức là quyền tạo ra nhà nước. Quyền tạo ra, cải tạo và cấu trúc lại nhà nước là quyền công dân, là kết quả của việc thực thi các nghĩa vụ công dân. Ví dụ, đóng thuế là biểu hiện cơ bản của dân quyền, còn các quyền tự nhiên thuộc về cá nhân con người là biểu hiện của nhân quyền. Như vậy, xã hội công dân là xã hội có liên quan chặt chẽ với nhà nước, với pháp luật còn xã hội dân sự là xã hội tự nó, không lệ thuộc vào nhà nước. Vậy xã hội dân sự lệ thuộc vào cái gì? Bởi nếu pháp luật là công cụ điều chỉnh mối quan hệ trong xã hội công dân thì cái gì điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội dân sự? Tôi cho rằng, đó là văn hoá. Văn hoá giúp con người xử lý các quan hệ với nhau, với cộng đồng, xử lý với những khái niệm thiêng liêng trong đời sống dân sự, đời sống tinh thần. Và những quy tắc bất thành văn mà con người sử dụng để điều chỉnh, để hạn chế tất cả sự cực đoan, những hành vi không phù hợp với lợi ích công cộng chính là văn hoá. Vì thế, trong nhiều nghiên cứu về pháp luật và nhà nước, tôi đã cho rằng mọi khế ước xã hội nếu không được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hoá hay có khả năng biến thành văn hoá thì những khế ước xã hội ấy chắc chắn sẽ thất bại. Do vậy, xã hội dân sự rộng hơn và cũng cơ bản hơn nhiều so với xã hội công dân.

2. Những hệ quả của việc xã hội dân sự không được thừa nhận

Một xã hội lành mạnh là Xã hội = Nhà nước + Xã hội dân sự. Nhưng ở những quốc gia mà nhà nước được trao cho quyền lực quá lớn thì xã hội dân sự sẽ biến dạng và trở thành đối tượng bất hợp pháp. Phải khẳng định rằng xã hội dân sự là một không gian sống tất yếu của con người. Vì thế, việc không thừa nhận xã hội dân sự ở một số quốc gia chậm phát triển đã gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng.

Các giá trị cá nhân của con người không được tôn trọng

Một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của con người là vào thế kỷ XV, XVI, XVII, con người bỗng nhận ra mình là một cá nhân. Chính vì nhận thức được nguyên lý ấy mà phương Tây đã phát triển mạnh mẽ chỉ sau vài trăm năm. Rất đáng tiếc rằng cho đến bây giờ rất nhiều dân tộc ở phương Đông vẫn chưa thức tỉnh, chưa thức tỉnh một thực tế, một chân lý, một sự thật vô cùng quan trọng đối với tiến trình phát triển của nhân loại là: mỗi con người là một cá nhân. Các xã hội phương Đông nói chung vẫn không tôn trọng các giá trị cá nhân, giá trị con người, không xem giá trị con người là một trong những chiến lược phát triển. Họ vẫn xem các giá trị chính trị, giá trị lãnh đạo, giá trị thủ lĩnh quan trọng hơn các giá trị con người mà không biết rằng cơ sở khoa học của mọi chính sách chính là để phục vụ con người với tư cách là một cá nhân chứ không phải với tư cách là một khái niệm.

Phải nói rằng, khi không thừa nhận các các giá trị cá nhân và đồng nhất nó với cá nhân chủ nghĩa là con người đã sai. Cá nhân chủ nghĩa cũng là một thuật ngữ sai hoàn toàn về mặt triết học. Không có cá nhân chủ nghĩa mà chỉ có trạng thái cực đoan của mỗi cá nhân. Trạng thái cực đoan của mỗi cá nhân là trạng thái hàng ngày của đời sống, do vậy mới cần nhà nước để điều chỉnh. Con người ai cũng có khuyết điểm, nếu không có khuyết điểm thì nhà nước sẽ không tồn tại, khuyết điểm của mỗi cá nhân là tiền đề khách quan để nhà nước tồn tại, bởi nhà nước điều chỉnh các sai lầm của mỗi cá nhân.

Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại mà quá trình tương tác và cạnh tranh giữa các nền kinh tế ngày càng quyết liệt, bản thân con người hàng ngày cũng phải tham gia vào cuộc cạnh tranh ấy thì mỗi con người buộc phải mài sắc nhất khả năng của mình để có thể giành chiến thắng. Và khả năng mài sắc năng lực của mỗi con người được quyết định bởi các giá trị cá nhân của họ. Nói cách khác, giá trị cá nhân là sức cạnh tranh và sức cạnh tranh chính là nhân tố quan trọng nhất của một quốc gia. Do vậy, các quốc gia phải tìm mọi cách huy động hay giải phóng nhân tố này một cách tối đa. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần phải củng cố địa vị nhân quyền, tôn trọng nhân quyền, xây dựng không gian pháp luật và chính trị để bảo vệ các quyền con người. Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thì con người không thể có cuộc sống dân sự lành mạnh được. Con người hành động, sáng tạo theo lẽ phải của tâm hồn. Khi con người luôn luôn có những yếu tố nhắc nhở rằng họ là công dân thì con người không còn cuộc sống dân sự nữa. Vì thế, một hệ thống chính trị hợp lý là con người tự giác nghĩ đến công dân, đến quyền, đến trách nhiệm công dân của mình chừng nào cuộc sống đòi hỏi. Do đó, xã hội phải tồn tại xã hội dân sự với tất cả tính chất tự quản của nó để hạn chế đến mức tối đa sự cần thiết phải huy động sự can thiệp của nhà nước vào các vấn đề của đời sống của người dân. Cần nhận thức rằng, tỷ lệ lệ thuộc hành vi hàng ngày của xã hội vào nhà nước càng ít bao nhiêu thì xã hội càng lành mạnh bấy nhiêu vì xã hội bao gồm những con người biết tự quản, tự lo và biết tự giác. Một xã hội mà con người biết tự quản, tự lo và tự giác là một xã hội đòi hỏi chi phí ít tốn kém nhất cho các quản lý hành chính. Hơn nữa, khi "tiết kiệm" nhân lực cho việc quản lý hành chính nhà nước là chúng ta làm cho xã hội có thêm lực lượng lao động, xã hội có thêm lực lượng lao động nghĩa là có thêm lực lượng dân sự và làm mạnh hơn khu vực sản xuất, khu vực kinh doanh...

Con người không có không gian tái xác lập trạng thái cân bằng

Người ta thường nói nhiều đến vai trò chính trị của xã hội dân sự như là vai trò tiên quyết nhưng tôi cho rằng, vai trò quan trọng nhất của xã hội dân sự chính là nó tạo ra một không gian sống của con người, nơi con người tái xác lập lại sự cân bằng sau những quá trình tìm kiếm và chinh phục. Bởi dường như vẫn tồn tại một nghịch lý là sự phát triển của con người đồng nghĩa với việc phá vỡ tỷ lệ cân bằng tự nhiên. Làm thế nào để duy trì được tỷ lệ hợp lý mà con người vẫn phát triển là một vấn đề cực kỳ khó bởi theo tôi, con người vẫn phải trả giá. Tuy vậy, con người phải kiên nhẫn tìm kiếm ra tỷ lệ hợp lý. Không có cách nào khác cả, không thể xây dựng lý thuyết để đưa ra một đáp số có tính chất định lượng và chỉ ra sự hợp lý. Con người thận trọng là con người không lao đầu vào sự mất cân bằng, con người xác lập được, tìm thấy được sự cân bằng trong sự bừng tỉnh của mình trong quá trình phát triển. Còn khi con người lấn lướt tự nhiên, con người ào ào chiến thắng, con người đi lên một cách bất kể thì con người không tìm thấy, không nhận ra các giới hạn hợp lý. Nhưng không phải tất cả mọi người đều đi tìm tỷ lệ hợp lý, tỷ lệ hợp lý bao giờ cũng do bộ phận tinh khôn nhất, tinh túy nhất, có tầm nhìn nhất của cộng đồng con người phát hiện. Cần phải có một đội ngũ chuyên nghiệp như vậy và đó chính là đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là đội ngũ sinh ra để xác lập tỷ lệ hợp lý giữa tự nhiên và phát triển. Nếu như chính trị lấn át đời sống trí tuệ, chính trị trở thành yếu tố chỉ huy vô điều kiện đời sống trí tuệ thì thực chất con người đã phá vỡ khả năng kiểm soát tốc độ để tìm kiếm các giới hạn của sự cân bằng. Cho nên, khi con người đi tìm một tỷ lệ hợp lý giữa phát triển và tự nhiên thì đấy chính là đi tìm tỷ trọng của nhà nước chính trị, nhà nước ở quy mô nào thì còn giữ được đời sống dân sự. Đời sống dân sự là cách thể hiện tập trung nhất của cái gọi là thái độ đi tìm sự cân bằng của con người. Xã hội dân sự là công cụ duy nhất, là cấu trúc duy nhất mà con người duy trì trạng thái bình tĩnh, trạng thái cân bằng trong quá trình phát triển. Do vậy, nếu trả lại cho đời sống con người trạng thái phát triển tự nhiên và nó tự cân bằng thì bản thân sự tự cân bằng đó đã là sự phát triển vì nó hạn chế sự sai của quá trình phát triển. Còn ở một quốc gia mà xã hội dân sự không được thừa nhận thì Xã hội = Nhà nước. Khi Xã hội = Nhà nước thì tất cả mọi người đều phụ thuộc vào nhà nước, đều trông chờ vào nhà nước và khi chính phủ có vấn đề thì xã hội không hoạt động được nữa, thậm chí rối loạn và dẫn đến tan rã.

Con người không có nơi trở về sau một chu trình chính trị

Con người, dù là người lao động bình thường hay một nhà lãnh đạo cấp cao thậm chí cả tầng lớp hoạt động chính trị chuyên nghiệp, sau công việc, bao giờ cũng là sự trở về với cuộc sống dân sự bình thường của mình. Đời sống dân sự là nơi năng lực và phẩm hạnh của con người được tái tạo lại hàng ngày sau một chu trình làm việc, tuy nhiên, không phải ai cũng nhận ra điều ấy, và chính vì gán vào cho nhà nước quá nhiều công việc nên con người đã vô tình co xã hội dân sự của mình. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến một đối tượng "nhạy cảm" là nhà chính trị và những nhà quản lý hoạt động nhà nước. Bởi nhà nước cũng bao gồm những con người, cũng có những lúc họ rời khỏi địa vị của người cầm quyền. Cùng với lý thuyết về nhiệm kỳ thì mọi người đều trở thành dân, cho nên, phải có một xã hội dân sự để nhà chính trị quay trở về làm người bình thường. Nếu không có một xã hội dân sự đủ hợp pháp, không có một cơ sở tạo ra nguồn sống hợp pháp cho họ thì họ quay về đâu? Trong tác phẩm "Chiến tranh và hòa bình", tôi nhớ đoạn người ta tả về công tước Nikolai Bolkonski, bố của Andrei Bolkonski, khi về ông ta có một trang trại, ông ta có một xưởng cơ khí, ông ta làm thợ tiện, ông ta dạy con gái làm toán giải tích.... Hiện nay, ở rất nhiều quốc gia chưa đạt đến trạng thái ấy. Có rất nhiều nhà lãnh đạo không hiểu, thậm chí không ủng hộ khái niệm xã hội dân sự, cho nên con người không có chỗ hạ cánh, không có chỗ quay về khi rời khỏi nhà nước.

Cùng với xã hội dân sự, phẩm hạnh và năng lực của con người được tái tạo lại hàng ngày đồng nghĩa với việc con người có thể trở thành nguyên liệu tốt của các chu trình chính trị khác. Nói cách khác, khi phẩm hạnh và năng lực của con người được tái tạo lại hàng ngày, con người có thể trở thành đầu vào cho một chu trình làm việc, chu trình chính trị khác. Nhưng quan trọng hơn cả, chỉ với xã hội dân sự, sau mọi chu trình chính trị, con người vẫn còn là chính nó.

Không có nguồn các giải pháp cho tương lai

Tại sao ở rất nhiều quốc gia lạc hậu, các chính sách chính phủ đưa ra thường không đạt hiệu quả như mong muốn thậm chí còn mang tính rủi ro cao? Đó là vì chúng thường được hoạch định một cách chủ quan bởi bộ máy cầm quyền chứ không phải bằng sự thảo luận giữa nhà nước và nhân dân, tức là nhân dân không có cơ hội thể hiện sự phản biện nhằm làm hợp lý hóa các chính sách. Và sự không có cơ hội để thực hiện phản biện xã hội lại bắt nguồn từ việc xã hội dân sự không được thừa nhận.

Một trong những vai trò chính trị quan trọng nhất của xã hội dân sự là nó là đối tác bình đẳng của nhà nước, là không gian mà ở đấy mỗi người dân được thực sự tham gia vào việc hoạch định, thực hiện và quan trọng hơn là phản biện lại các chương trình hành động của Nhà nước. Càng ngày người ta càng thấy rõ hơn những ý nghĩa tích cực của phản biện xã hội bởi nó tạo ra sự tương tác, sự hợp tác của các lực lượng xã hội và từ đó, nảy sinh ra các nguồn của các giải pháp, nguồn của các ý kiến, nguồn của các sáng kiến để tăng cường chất lượng của sự sáng suốt của những người lãnh đạo đất nước. Phản biện xã hội còn là sự tự cân bằng về các ý kiến giữa các lực lượng xã hội khác nhau và làm cho các hành vi của các lực lượng xã hội trở nên cân bằng hơn, hợp lý hơn. Do vậy, nếu không có xã hội dân sự hay ở những quốc gia chậm phát triển, xã hội dân sự chưa được thừa nhận thì xã hội đã thiếu đi một nguồn, một kênh các giải pháp để có thể điều chỉnh hoặc làm hợp lý các chương trình hành động xã hội.

Sự bế tắc của các chính sách phát triển có thể dẫn đến sự sụp đổ của một số nhà nước nhưng không phải lúc nào sự bế tắc của nhà nước đồng nghĩa với sự bế tắc của xã hội bởi xã hội luôn tiềm ẩn những nhân tố mới, những giải pháp bất ngờ và vô cùng duyên dáng. Và chính xã hội dân sự là vườn ươm những yếu tố mới để phục vụ cho sự phát triển trong tương lai. Nguồn của việc phát triển các lực lượng phục vụ nhà nước là từ xã hội dân sự, nếu không lấy được từ xã hội dân sự những nguồn để thay thế các lực lượng phục vụ nhà nước thì nhà nước sẽ thoái hoá. Đầu tiên là thoái hóa về chính trị, sau đó là thoái hóa về trí tuệ và cuối cùng là thoái hóa về đạo đức.
 3. Thừa nhận xã hội dân sự như là điều kiện cơ bản của quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ

Một số người cho rằng chúng ta cần phải xây dựng một xã hội dân sự nhưng tôi cho rằng nhà nước không thể xây dựng được xã hội dân sự, bởi xã hội dân sự tự nó hình thành, còn nếu chúng ta xây dựng hay phổ biến nó thì đó lại là sản phẩm của sự áp đặt. Trên thực tế, cho dù không được thừa nhận thì xã hội dân sự vẫn và đang tồn tại, nó tồn tại vì nhu cầu của con người. Bên cạnh đó, xã hội dân sự là đặc trưng của quá trình dân chủ bởi chỉ có quá trình dân chủ mới tạo ra được xã hội dân sự và chỉ có xã hội dân sự mới tạo ra được sự yên tĩnh tự nhiên của con người với đầy đủ các quyền của mình. Vì thế, hợp pháp hoá hay thừa nhận xã hội dân sự trở thành một đòi hỏi và trở thành điều kiện quan trọng của việc tổ chức và rèn luyện nền dân chủ ở các quốc gia đang phát triển trong quá trình hội nhập toàn cầu.

Thừa nhận quyền sở hữu là tạo nền tảng vật chất cho xã hội dân sự

Có thể nói, quyền sở hữu là một trong những điều kiện cơ bản và cần thiết nhất của một xã hội dân sự. Ở đây, tôi muốn nói đến trạng thái thấp nhất của sở hữu, là sở hữu cái anh dùng chứ tôi không nói đến sở hữu tư liệu sản xuất. Tôi không muốn cường điệu vai trò của tư liệu sản xuất. Nếu như 100 năm trước đây sở hữu tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng thì bây giờ trong thời đại của chúng ta sở hữu tư liệu sản xuất không còn quan trọng như thế nữa. Lý do là người ta bán rao sở hữu tư liệu sản xuất thông qua thị trường chứng khoán, thông qua các công ty cổ phần… Do sự cường điệu vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, người ta cho rằng chế độ sở hữu quyết định toàn bộ, tức là thể chế kinh tế quyết định đời sống chính trị, nên người ta xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân và tư liệu sản xuất mà không biết rằng quyền sở hữu là một phát minh vĩ đại xác lập xã hội con người. Có sở hữu thì con người mới có nhu cầu lập ra các khế ước xã hội, nhà nước và pháp luật nhằm bảo vệ sở hữu của mình. Sở hữu chính là một vùng tinh thần mà con người có quyền làm mọi thứ trên đấy. Nếu không công nhận quyền sở hữu của con người đối với những đối tượng cụ thể thì chúng ta đã tước bỏ một phần quan trọng để con người có thể có kinh nghiệm ban đầu về các quyền của mình đồng thời người ta đã tiêu diệt ý thức về đời sống xã hội dân sự.

Theo tôi, không bao giờ được xem quyền sở hữu như một khái niệm kinh tế mà phải xem đó là một khái niệm đạo đức, một khái niệm văn hoá, một khái niệm tinh thần. Toàn bộ nhân cách của con người hình thành xung quanh sở hữu. Không có sở hữu thì con người không biết đi đâu, về đâu, không biết chăm sóc cái gì, không có chỗ để hình thành nhân cách. Có sở hữu thì con người sẽ có ý thức về quyền sở hữu của mình, con người bắt đầu thức tỉnh về các giá trị của xã hội dân sự và người ta sẽ đòi hỏi phải có luật pháp, phải có một nhà nước văn minh để bảo vệ sở hữu của mình. Để bắt đầu có sở hữu, con người phải được quyền tự do kinh tế. Tự do kinh tế tạo tiền đề cho sở hữu, tạo ra một số đông những người có sở hữu và vì có sở hữu nên họ biết đòi hỏi quyền tự do chính trị, đòi hỏi nền dân chủ để đảm bảo cho các quyền sở hữu của mình. Do vậy, sự tự do về kinh tế là động lực đầu tiên và quan trọng nhất để xúc tiến sự tự do về chính trị vì xã hội dần dần nhận thức được rằng nếu không có tự do về chính trị thì tất cả sự cố gắng lao động, sự tích luỹ của họ không được đảm bảo và không tạo ra được giá trị gia tăng. Chính sự không tự do về chính trị đã xâm phạm vào các quyền lợi lâu dài của họ vì thế họ bắt đầu đòi quyền tự do chính trị để đảm bảo cho quyền lợi của chính họ và cũng là quyền lợi của xã hội.

Thừa nhận quyền tự do văn hoá là tạo nền tảng tinh thần cho xã hội dân sự

Như phần trên đã phân tích, văn hoá là đối tượng điều chỉnh, hạn chế sự cực đoan hay các hành vi không phù hợp với lợi ích công cộng trong xã hội dân sự, do vậy, để có một xã hội dân sự lành mạnh thì các giá trị văn hoá phải được hình thành một cách tự nhiên. Văn hoá là kết quả của hình ảnh tự nhiên, kinh nghiệm hoặc thói quen của đời sống con người trong sự tương tác của cộng đồng nó với chính nó, và sự tương tác của cộng đồng nó với các cộng đồng khác, thậm chí còn là sự tương tác của các cộng đồng con người với thời gian. Nếu áp đặt, tác động lên đời sống tinh thần của con người thì sẽ hình thành một nền văn hoá phản tự nhiên.

Đại bộ phận các nhà cầm quyền ở các quốc gia lạc hậu có xu hướng tác động vào văn hóa và biến văn hóa trở thành công cụ hỗ trợ việc cầm quyền mà không biết rằng khi biến văn hoá trở thành công cụ chính trị, là người ta đã nhổ rễ cả một dân tộc, làm cho dân tộc ấy trở thành kẻ vất vưởng về mặt tinh thần. Nhưng nếu con người nhận thức được rằng tương lai của một nền văn hoá là nghĩa vụ của nó trong đời sống phát triển thì ở các quốc gia này, trước khi nói đến việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, cần phải khôi phục lại trạng thái tự do và phi chủ quan của việc áp đặt các giá trị văn hóa. Nói cách khác phải trả lại quyền tự do cho con người trong việc nhận thức các giá trị văn hóa hay làm cho tự do trở thành công nghệ chủ yếu để hình thành các giá trị văn hoá tiên tiến. Có như thế, văn hóa mới trở thành công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội dân sự, đảm bảo tính chất tự quản của xã hội dân sự.

Thừa nhận sự đa dạng của đời sống tinh thần của mỗi con người là đảm bảo cho một xã hội dân sự phát triển lành mạnh

Để có một xã hội lành mạnh, chúng ta cần tôn trọng sự đa dạng của đời sống tinh thần của mỗi con người. Một trong những yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã hội là tính đa dạng của sự sáng tạo mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng của năng lực cá nhân là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Như vậy, có thể nói, xã hội dân sự bắt nguồn từ sự phát triển của con người. Sự phát triển của xã hội dân sự gắn liền với sự phát triển ngày càng phong phú với các quyền cá nhân, tức là nhân quyền. Sự phát triển của các quyền cá nhân, đến lượt nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự.

Tôn trọng và đảm bảo sự đa dạng tinh thần của con người chính là coi con người là một đối tượng khách quan và là một đối tượng phát triển tự nhiên. Nếu chúng ta bảo tồn hay giữ gìn sự đa dạng của quá trình tự nhiên, tức là sự đa dạng sinh học của thế giới thì chúng ta phải xem nhận thức cũng là một quá trình sinh học thuộc về con người. Do đó, việc nhận thức cái đúng sai phải là từ chính mỗi con người. Nếu chúng ta cưỡng bức con người phải nhận thức cho được, phải theo bằng được cái mà một ai đó muốn hoặc cái mà một ai đó cho rằng có lý thì vô tình chúng ta đã tiêu diệt sự đa dạng trong nhận thức của con người và do đó, tiêu diệt năng lực thích nghi của nhân loại trước những rủi ro có thực mà nhân loại luôn gặp phải trong quá trình phát triển.

Kết luận

Xã hội dân sự là mục tiêu của tất cả các quốc gia, các cộng đồng trong quá trình phát triển bởi chỉ với xã hội dân sự, con người mới tìm thấy không gian yên tĩnh tự nhiên để sáng tạo và phát triển. Bản chất của sự phát triển hay sự thịnh vượng ở mọi quốc gia là sự phát triển, sự thịnh vượng của xã hội dân sự. Xã hội dân sự chỉ có thể được hình thành và phát triển trên cơ sở một nền dân chủ về mặt chính trị, tức là con người tự do trong việc lựa chọn các khuynh hướng chính trị, quan điểm chính trị, còn không, các xã hội cho dù có ngụy trang cho mình bằng những cái tên núp bóng dưới những khái niệm thiêng liêng của nhân loại thì đó cũng chỉ là vỏ hình thức mà thôi.

Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult - Chungta
 Đã có những bài viết về quá trình nhận thức xã hội dân sự về mặt lý luận. Bài này chủ yếu nghiên cứu sự hình thành xã hội dân sự trong thực tiễn về mặt những điều kiện, tiền đề khách quan và chủ quan. Lĩnh vực này ở còn rất ít bài nghiên cứu, khảo sát (dù đã có một dự án nghiên cứu điều tra thực trạng về các tổ chức xã hội dân sự ở VN do phối hợp với tổ chức nghiên cứu nước ngoài mấy năm trước đây).

Bài viết này tập trung làm rõ các khíạ canh ở góc nhìn triết học, như: 1-Bộ ba trong xã hội hiện đại; 2- Cần hiểu rõ thực chất xã hội dân sự ở VN hiện nay, có số lượng hoành tráng thiếu thực chất. Vấn đề “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”?; 3-Sự hình thành, phát triển; 4-Những tiền đề, điều kiện cần tạo ra có nhiều nhưng chung quy lại là gì: 5-Đâu là lực cản của các giai đoạn của quá trình hình thành? Rõ ràng có tiền đề từ xã hội truyền thống và văn hóa truyền thống.

1-Bộ ba trong xã hội hiện đại

Hiện nay khi nói về xã hội dân sợ vẫn có người sợ. Theo Nguyễn Ngọc Giao hơn mười năm đã trôi qua, xã hội công dân, rồi xã hội dân sự xuất hiện trên báo chí, có bài còn nói lên tại sao có người sợ nó… Trên các cuốn sách, bìa 1 vẫn mang tên Nhà xuất bản, còn tên của “Công ti X” hay “Trung tâm Y” mà ai cũng biết mới thực là người xuất bản, mới chỉ ở bìa 4 – đôi lần nó leo lên bìa 1 nhưng đã bị huýt còi ngay (Nguyễn Ngọc Giao, Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Thời đại, Chungta.com). Còn Nguyễn Qaung A thì nhận xét: Hơn hai chục năm trở về trước ít người dám nói đến cơ chế thị trường, đến khu vực kinh tế tư nhân: những điều cấm kỵ và đáng sợ. Số ít người dám nói và dám (liều) làm, thì bị loại bỏ, bị sa cơ lỡ vận. Rồi người ta hiểu dần, chấp nhận và ngày nay chúng không những không đáng sợ mà còn được coi trọng (Xã hội dân sự đâu có đáng sợ, Lao Động Cuối tuần).

Xã hội dân sự là một bộ phận cơ bản của đời sống xã hội. Nó cùng với kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền tạo nên tam giác, bộ ba trong thiết chế cơ bản của xã hội hiện đại.. Do vậy, xã hội dân sự hình thành cùng với các bộ phận tương quan cơ bản ấy.

Xã hội dân sự là loại hình xã hội dân chủ, nhung là dân chủ pháp quyền. Trong nghi quyết đại hội X của Đảng ta có nêu mục tiêu va nhiệm bị xây dựng “xã hội dân chủ”. Nhưng xã hội dân chủ nay tất nhiên là hướng đến dân chủ xã hội chủ nghĩa, hay mục tiêu là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo nghĩa xã hôi dân chủ, nghĩa rộng là gồm nền chính trị dân chủ, mà hạt nhân là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nên kinh tế dân chủ, tức kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.và xã hội dân sự (lĩnh vực xã hội- văn hóa), cà xã hội dân sự là xã hội dân chủ hiện đại và cũng là lĩnh vực xã hội (xã hội theo nghĩa hẹp).

Theo GSTS. Trần Ngọc Hiên, “trên thực tế, hiện nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức xã hội dân sự như các hội, các ngành kinh tế, các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các lĩnh vực dịch vụ. Sự thực, một khuôn mặt xã hội dân sự kiểu mới ở nước ta đang hình thành, có thể coi đó là bước tiến của nền dân chủ, khác về bản chất với xã hội trước đổi mới. Tuy vậy, về mặt thể chế, phạm trù xã hội dân sự chưa được xác định trong văn bản, tức là chưa dám đặt viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự) tạo cơ sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế kinh tế chính trị nước ta.” (viên gạch thứ ba: hai viên gạch đầu là kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền).

Xã hội dân sự là một xã hội chứa đựng mâu thuẫn, nhưng trong xã hội chủ nghĩa, về bản chất sẽ là một xã hội hài hòa của những chủ nhân tự do liên hiệp lại (mâu thuẫn hài hòa) trong bản thân nó và với cái khác của nó.

Không chỉ nhà nước mới có quyền mà xã hội dân sự cũng có quyền. Tất cả đều bình đẳng trước pháp luật và được thể chế hóa bằng pháp luật. Không chỉ công dân có nghĩa vụ thực thi pháp luật mà trong nhà nước pháp quyền thì trước hết nhà nước phải tôn trọng và thực thi pháp luật nghiêm minh, không có ngoại lệ.

Theo TS. Nguyễn Sĩ Phương, (Cộng hoà Liên bang Đức) trong bài viết “Nhà nước pháp trị trong đời sống thường nhật”, thì tinh thần đó thể hiện trong dẫn chứng sau đây: Gần 8 triệu ngoại kiều trên tổng số hơn 80 triệu dân Đức muốn nhập quốc tịch phải vượt qua kỳ thi trắc nghiệm kiến thức xã hội nước Đức, trong đó có một câu hỏi, nhà nước pháp trị là gì, với 4 câu trả lời sẵn sơ đẳng: 1- Nhà nước có quyền, 2- Đảng có quyền, 3- Công dân quyết định luật pháp và 4- Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Những ngoại kiều nhìn Nhà nước bằng con mắt của kẻ nô lệ bao giờ cũng trả lời sai, đánh vào câu số 1, trong khi chỉ mỗi câu số 4 đúng - chính là dấu hiệu đặc trưng của một nhà nước pháp trị, đòi bất cứ hoạt động nào của bất kỳ cơ quan nhà Nước nào đều phải viện dẫn chuẩn mực pháp lý của những điều khoản luật pháp điều chỉnh nó; cũng xuất phát từ đó, mọi vấn đề xã hội nảy sinh, họ không thể không mổ xẻ văn bản luật liên quan, để cải cách nó. Xã hội họ phát triển, hoàn thiện liên tục chính là kết quả tổng hợp từ những cải cách luật thường nhật như vậy; thiếu nó, mọi chủ trương, chính sách dù thần kỳ mấy cũng không thể trở thành hiện thực.…(Xã hội dân sự đâu có đáng sợ, Lao Động Cuối tuần số 15 Ngày 12/04/2009).

Hiện thế giới hiện đại không còn ai bàn cãi về Nhà nước pháp trị, nhưng hệ dẫn của nó, Nhà nước phải tuân thủ pháp luật, kể cả Thượng viện, một cơ quan lập pháp tối cao trong thể chế lưỡng viện, cũng phải chịu phán quyết của toà, thì không phải ai cũng hiểu, chừng nào họ vẫn chưa thay đổi được quan niệm coi Nhà nước mới có quyền, kể cả ngoại kiều sống trong xã hội đó nếu không hoà nhập đủ. (Tuần Việt Nam).

Đã có lần chúng tôi nói về quyền lực xã hội dân sự nhưng có người không tán thành và có vẻ ngạc nhiên. Đó là một nhận thức không đúng. Quyền lực là quyền lực của dân, tất cả quyền lực là của nhân dân. Một phần lớn quyền lực ấy trở thành quyền lực nhà nước, nhưng phẩn khác trở thành quyền lực xã hội dân sự thông qua các tổ chức của nó. Không có quyền đó thì làm sao họ có quyền giám sát xã hội, phản biện xã hội và ngay nhà nươc có việc cũng phải trưng cầu ý dân. Trưng cầu dân ý không phải tranh thủ sự đồng tính của dân mà là họ có quyền quyết định.

Cần thấy sự khác nhau về đặc trưng của ba loại hình tổ chức kinh tế, nhà nước và xã hội dân sự.

Theo Nguyễn Quang A, Trong nhiều đặc trưng của các tổ chức nhà nước, thì đặc trưng quan trọng mang tính khu biệt là chúng được tổ chức theo kiểu dọc, từ trên xuống; chúng đòi hỏi sự tuân thủ; chúng có quyền lực ép buộc đối với mọi người và mọi tổ chức trong các vùng lãnh thổ mà nhà nước đó cai trị. Đặc trưng quan trọng của các tổ chức kinh tế (kể cả hộ gia đình) là chúng tạo ra sự giàu có về vật chất; chúng đòi hỏi sự có đi có lại (trao đổi, chi trả); chúng hoạt động vì lợi nhuận. Còn các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trên cơ sở những mối quan tâm chung; thường theo cách tự nguyện; thường không vì lợi nhuận; chúng tạo ra sự giàu có về tinh thần. Đấy là nhưng nét đặc trưng chính có thể dùng để phân biệt các loại tổ chức với nhau. Lưu ý rằng tổ chức ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, chúng có thể có tư cách pháp nhân, nhưng cũng có thể không có. Thí dụ về một số tổ chức hay hoạt động tạo thành xã hội dân sự là: các nhóm công dân hoạt động theo những mối quan tâm chung (từ các nhóm tập luyện thể dục, các nhóm tình nguyện giúp đỡ nhau của người có HIV, các hội đồng hương, các tổ chức cộng đồng khác); các hội nghề nghiệp như các hội tin học, hội kiến trúc, hội nuôi ong, v.v...; các tổ chức phi chính phủ; các tổ chức tôn giáo; các tổ chức nghiên cứu; các tổ chức giáo dục và đào tạo; báo giới; v.v..

2- Cần hiểu rõ thực chất xã hội dân sự ở VN hiện nay, có số lượng hoành tráng thiếu thực chất. Vấn đề “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”?

Về số lượng. Theo Nguyễn Ngọc Giao tại Trung Quốc, theo ước tính chính thức thì năm 2005, có khoảng 300 000 tổ chức phi chính quyền (NGO), thêm vào đó là 120 000 tổ chức mà Hán ngữ gọi là “dân biện phi xí nghiệp đơn vị” (民办非企业), tức là những tổ chức không có quy chế hội đoàn đăng kí ở Bộ nội vụ mà là “đơn vị” đăng kí ở Bộ Công thương, hoạt động vô vị lợi… Bên cạnh số đó, có vô số hội đoàn “tự phát”, không có tư cách pháp nhân, không được thừa nhận. Theo một ước tính của các NGO, tổng số những hội đoàn đủ loại này có thể lên tới 3 triệu. Tại Việt Nam “đến nay, có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng hàng nghìn hội ở các cơ sở. Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẻo… Với sự đa dạng như thế, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam Nguyễn Xuân Hướng (đại biểu Hà Tĩnh) đã dí dỏm ví, dân gian có câu ‘đông như hội’”. Ấn tượng hơn nữa là những chỉ số về sự tham gia: “Ở Việt Nam, trung bình mỗi người là thành viên của 2,33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0,39) và Singapore (0,86). Theo khảo sát này, tỷ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73,5%, một tỉ lệ tương đối cao”.. Nhưng chất lượng thế nào?

Tất nhiên, các con số không nói lên thực chất vấn đề. Nếu trong thập niên 1980, sau cuộc đại cải cách 1979 của ông Đặng Tiểu Bình, ở Trung Quốc đã nở rộ những tổ chức NGO, về kinh tế, xã hội, kể cả những viện nghiên cứu độc lập (dân biện nghiên cứu sở) – nổi tiếng nhất là trung tâm của Trần Tự Minh (Chen Zimin, nhà nghiên cứu triết học) – thì sau sự kiện Thiên An Môn (1989), chính quyền ban hành Quy chế đăng kí và quản lí các đoàn thể xã hội (tháng 10.1989), rồi 10 năm sau: Quy chế tạm thời về đăng kí và quản lí các đơn vị nhân dân phi thương mại, theo đó các NGO phải đăng kí tại Bộ dân sự vụ và đặt dưới sự chủ quản của một cơ quan chính quyền hay tương đương. Cơ quan chủ quản này thường được gọi là “mẹ chồng”, “mẹ chồng” có quyền và nhiệm vụ coi chừng “con dâu”. Thực chất mà nói, đó không phải là những NGO mà là GONGO (Government Organized Non Governmental Organisations): những “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”. Theo quy định, mỗi NGO được phép hoạt động trong một lãnh vực nhất định và trong phạm vi một đơn vị hành chính nhất định, nó không được phép hoạt động ra khỏi khu vực địa lí đó, và trong phạm vị một đơn vị hành chính đó, không thể có hai NGO được phép hoạt động trong cùng một lãnh vực. Phí đăng kí cũng rất “lụa”: 30 000 nhân dân tệ. Nói như nhiều tác giả, “xã hội dân sự” ở Trung Quốc thực chất vẫn là “xã hội dân sự do Nhà nước lãnh đạo”.

Nguyễn Ngọc Giao, còn cho rằng, có lẽ về cơ bản, giữa hai “xã hội dân sự” Trung Quốc và Việt Nam, cũng mặc nhiên có một mối quan hệ “16 chữ vàng”. Ở Việt Nam, bộ luật về hội đoàn vẫn chưa được thông qua. Dự án vẫn duy trì chế độ “mẹ chồng con dâu” mà ta gọi là “cơ quan chủ quản”. Đây là vấn đề cốt lõi, vì nó liên quan tới thực chất quan niệm về tổ chức xã hội dân sự: đó là những tổ chức tự lập của xã hội dân sự, của công dân, hay chỉ là tổ chức để chính quyền “nắm” từng bộ phận nhân dân, và nếu vậy, ở thời đại hiện nay, nó chỉ có thể là môt tổ chức có trên giấy tờ. Chỉ cần nêu ra hai thí dụ: những cuộc gặp gỡ xuân thu nhị kì giữa đại biểu Quốc hội với “đại diện” cử tri (ít nhất các đại biểu quốc hội cũng đã được bầu ra, còn các “đại diện” cử tri thì chỉ được ai đó chỉ định), và việc từ nhiều năm nay, chưa hề có một cuộc đình công nào do công đoàn khởi xướng hay chủ trương.(Nguyễn Ngọc Giao, Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Thời đại)

Như vậy, thì để có xã hội dân sự thật sự, dân chủ, văn minh thì phải được xây dựng lại, làm cho nó hình thành và phát triển hợp quy luật.

3- Sự hình thành, phát triển.

Sự hình thành xã hội dân sự nó phụ thuộc vào nhiều tiền đề và điều kiện khách quan và chủ quan, tiền đề kinh tế xã hội, chính trị và pháp lý nhất định. Nó có phần ấtt yêu, tự phát, tự nhiên của nó, tức là một sự hình thành mà không thể cưỡng lại được. Nhưng nếu tự phát thì nó hình thành, phát triển chậm chạp và có khi bị méo mó. Nhưng nếu chủ thể lãnh đạo, quản lý hay quản trị xã hội chủ động tạo tiền đề và điều kiện cho nó, nhất là về mặt môi trường pháp lý, phù hợp, đúng đắn thì nó hình thành nhanh hơn, có mục đích rõ ràng hơn. Tuy nhiên, tác động chủ quan ấy không phải khi nào cũng đúng.

Có quan niệm cho rằng cứ để xã hội tự hình thành lấy xã hội dân sự, không cân thiết đảng và nhà nước tác động định hướng, vì nếu thế thì mất tính chất tự quản. Nó nói đúng một phần nhưng chứng tỏ rằng quan niệm ấy không thấy tính ràng buộc các hiện tượng xã hội, những tác động từ nhà nước pháp quyền. Không đựợc áp đặt nhưng phải tạo môi trường pháp lý cho nó, nói rộng ra là phải tạo mọi tiền dề và điều kiện thuận lợi cho sự hình thành, phát huy, phát triển xã hội dân sự trong tương tác bộ ba- xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền và thị trường (xem thêm Hồ Bá Thâm, Xã hội dân sự, vấn đề và tính đặc thù, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 1(92) 2009 và trên chungta.com.).

Do vậy, điều quan trọng là làm rõ những tiền đề nào, điều kiện nào tạo nên và thúc đẩy sự hình thành xã hội dân sự ở nước ta hiện nay.

Tiền đề và điều kiện ở đây là cơ sở vật chất- tinh thần xã hội và cơ sở pháp lý như những nhân tố, môi trường tác động đến sự hình thành, phát triển của xã hộ dân sự và trên ý nghĩa nhất định nó cũng tham gia vào bản thân xã hội dân sự với các mức độ khác nhau theo quy luật nhân- quả.

Trước hết cần thấy rằng xã hội dân sự với hệ thống các tổ chức xã hội của nhân dân ở nước ta đã hình thành và phát huy nhất định vai trò của nó, nhưng, cũng phải thừa nhận rằng, nó chưa có đầy đủ tính chất, vai trò, chức năng thật sự của xã hội dân sự đúng nghĩa. Không ít mặt, vai trò của nó còn bị hành chính hóa, nhà nước hóa, thụ động, chưa thể hiện được đúng thực chất xã hội dân sự. Có thể nói nó còn sơ khai, méo mó và nhiều mặt cần cải tạo lại, cấu trúc lại, xây dựng lại.

Chúng tôi đã có một số bài viết cùng với nhiều nhà nghiên cứu khác nói về đặc trưng chung của xã hội dân sự và đặc đển hệ thống “xã hội dân sự”ở VN hiện nay. Tất nhiên, nhận thức cho rõ đặc điểm ưu khuyết của xã hội dân sự ở VN và các yêu cầu khách quan của xã hội dân sự hiện đại, từ đó căn cứ vào thực tế nước ta để tạo tiền đề, điều kiện thích hợp, thúc đẩy sự hình thành tiếp tục và phát huy, phát triển xã hội dân sự ở VN là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

Tiền đề và điều kiện vừa giống nhau vừa khác nhau. Trong trình bày của chúng tôi xin sử dụng chung. Chỉ khi thật cần thiết, chúng tôi mới phân biệt.

4-Những tiền đề, điều kiện cần tạo ra có nhiều nhưng chung quy lại như sau:

1)-Kinh tế thị trường cần có xã hội dân sự để khống chế thế lực thị trường và cũng cần thiết để hộ trợ cho thị trường. Nhưng chính kinh tế thị trường đã chủ thể hình thành là tiền đề kinh tế của xã hội dân sự. Các quyền và nhu cầu- lợi ích kinh tế xã hội đa dạng của nhiều chủ thể từ đó hình thành. Nhưng thị trường không thể bao quát và tay thế đời sống xã hội rộng lới đa dạng nhiều sắc màu của xã hội dân sự. Lĩnh vực xã hội và lĩnh vực kinh tế dù có đan xen nhau nhưng không phải là một, chúng là tiền dề cho nhau cùng phát triển trong một mâu thuẫn biện chứng kinh tế -xã hội.. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế dân chủ, tạo nên thể chế kinh tế tư do kinh doanh và tự chủ tự chịu trách nhiệm theo pháp luật. Nhưng nền kinh tế này cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội mà bản thân nó không thể tự giải quyết hết được, phải nhờ dến xã hội dân sự và nhà nước. Và nhờ nhà nước và xã hội dân sự mới khắc phục được sự lạm quyền của quyền lực thị trường. Không có nền kinh té thị trường không thể có xã hội dân sự hiện đại và năng động.

2)- Nhà nước pháp quyền là lĩnh vực chính trị- pháp lý. Không c1o tác động, định hướng của nhà nước pháp quyền và tạo môi trường pháp lý thích hợp thì xã hội dân sự cũng không thể hình thành và phát huy tác dụng của nó. Xã hội dân sự cần có mặt thống nhất- mâu thuẫn của nó là nhà nước pháp quyền và ngược lại. Hai mặt này cũng không thể thay thế lẫn nhau mà là bổ sung cho nhau, hợp tác với nhau và cả “đối trọng nhau” thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội và hệ thống luật pháp, thông qua hệ thống pháp luật ấy. Xã hội dân sự là cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền. Không có xã hội dân sự thì không có nhà nước pháp quyền vững chắc. Ngược lại, không có thể chế nhà nước pháp quyền thì cũng không thể hình thành xã hội dân sự, tức thể chế xã hội dân chủ pháp quyền đúng nghĩa và hiện đại. Mỗi bên đều có giới hạn của nó. Cái gì xã hội tự giải quyết được thì nhà nước không nên làm. Và cái gì là nhiệm vụ của nhà nước thì xã hội dân sự cũng phải biết giới hạn của mình.

3)- Sự trưởng thành và trình độ phát triển xã hội của các công dân, các tổ chức xã hội về dân trí, về dân chủ, dân quyền và nhân quyền. Nghĩa là nhu cầu xã hội, lợi ích và năng lực thực hiện nó của các tổ chức xã hội đủ sức làm vao trò và chức năng xã hội dân sự, đại diện, thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân, các tổ chức xã hội (xã hội nghề nghiệp xã hội dân cư, xã hội dân tộc, xã hội tôn giáo, xã hội tinh thần, xã hội chính trị, xã hội dân sinh…). Việc thiết lập và tự tổ chức của các tổ chức đa dạng và phong phú theo nhu cầu và lợi ích xã hội là thể hiện sự trưởng thành của xã hội, quyền tự do và dân chủ, trong xã hội và cũng là sự trưởng thành, hiệu quả của nhà nước pháp quyền, một nhà nước thực sự dân chủ và dân chủ gắn với kỷ cương với vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật, mà thực chất đó là ý chí của nhân dân đã thành văn thành luật.

4)- Các chủ thể xã hội và môi trường tâm lý xã hội cùng các yếu tố liên quan tới kinh tế chính trị xã hội tạo nên tính pháp lý và văn hóa tổng hợp nhằm khuyến khích và đảm bảo cho xã hội dân sự ra đời, hình thành, đảm bảo sự tồn tại và phát triển cũng như phát huy tác dụng của nó. Đây là nhân tổ chủ động và tổng hợp, liên kết, kết nối và có chiều sâu văn hóa cũng như pháp lý trực tiếp của 3 loại nhân tố, tiền đề và điều kiện nói trên.

Chẳng hạn, ở nông thôn, theo GS.VS.Đào Thế Tuấn, vấn đề quan trọng nhất của phát triển là phải có sự tham gia của cộng đồng, của người dân. Các tổ chức phi chính phủ đến Việt Nam đều nói rằng nông thôn Việt Nam không có cộng đồng. Tôi nghĩ không hoàn toàn như vậy. Ngày xưa, chúng ta đã có cộng đồng làng xã, thôn xóm đấy thôi, mà đại diện là những lý trưởng, xã trưởng.

Bây giờ thì chỉ còn mấy ông bà cán bộ - ông bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, bà tổ trưởng phụ nữ… Người dân chẳng được tham gia gì cả. Chúng ta cần phải hướng dẫn, phải tạo cơ chế để giúp nông dân tổ chức lại được với nhau, xây dựng các doanh nghiệp xã hội (social entrepreneur). Nhà nước không thu thuế đối với họ. Dĩ nhiên, họ cũng có một mức lãi nào đó, nhưng về bản chất, họ là một hệ thống các tổ chức chăm lo phát triển xã hội. Hệ thống đó là một phần của xã hội dân sự. Không thể chỉ dựa vào việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện, cần có một đường lối xã hội hóa công cuộc cải cách kinh tế xã hội, không lẫn lộn xã hội hóa với thị trường hóa và tư nhân hóa. Xã hội hóa là huy động sự tham gia của xã hội, của quần chúng. Tóm lại, điều quan trọng chúng ta cần làm ở nông thôn bây giờ là xây dựng xã hội dân sự. ( GS. VS. Đào Thế Tuấn “Phải xây dựng xã hội dân sự ở nông thôn”, TuanVietNam).

5)- Vấn đề đặt ra truớc hết ở VN là đảng cầm quyền có thật sự hiểu dúng và chấp nhận xã hội dân sự hay không. Thực tế thấy rằng ý kiến còn khác nhau nhiều người lãnh đạo cìn e ngạu như thờ e ngại kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường, mặc dù báo chí, các nhà nghiên cứu đã và đang nghiên cúu và đặt ra. Nếu nghị quyết của Đảng nêu ra và thể chế nhà nước sớm ban hành thì sẽ đẩy nhanh hình thành xã hội dân sự. Nghĩa là không dừng lại thể cế đoàn thể quần chúng và Mặt trận Tổ quốc VN mà phải hình thành theo đúng yêu cầu , vai trò, chức năng, nhiệm vụ của xả hội dân sự.

Khi nói đến lĩnh vực xã hội, chúng ta không chỉ xem xét cơ cấu xã hội- giai cấp- tiầng lớp mà còn xem xét nó dưới hình thức thể chế tự quản và làm chủ của nhân dân ngoài nhà nước, nhưng trong khuôn khổ pháp luật..

Đúng là bên cạnh vai trò của nhà nước, rõ ràng là “cần phải có vai trò bổ sung của xã hội dân sự nhằm phát huy các mặt tích cực của nhà nước, đồng thời bổ sung cho nhà nước, giám sát và hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của nhà nước…” (Tiến sĩ, Lê Đăng Doanh- Viện Nghiên cứu phát triển., Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp Việt Nam, Nguồn: Tạp chí Triết học).

6)- Hội nhập quốc tế không chỉ về kinh tế mà còn về xã hội, nhất là xét về mặt thể chế, chẳng hạn thể chế tổ chức phi chính phủ, một bộ phận của xã hội dân sự, hơn nữa xã hội dân sự không chỉ là thể chế quốc gia mà đã thành thể chế toàn cầu, thì mổi nước khi hội nhập dù có độc lập về đường lối thì cũng không thể bỏ quan thể chế xã hội dân sự đươc. Hơn nữa xã hội dân sự là xã hội tự quản hôm nay- một thể chế cấu thành dân chủ xã hội chủ nghĩa và hướng tới xã hội tự quản cao sau này khi là một xã hội chủ nghĩa chín muồi cao, nhà nước tiêu vong, trở thành chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, chủ nghĩa xã hội là chính quyền của nhân dân cộng với kinh tế thị trường và xã hội dân sự, hướng tới một xã hội dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và con người tự do, hạnh phúc.

7)- Luật hóa các tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền của xã hội dân sự, nhât là các cơ chế động lực, cơ chế tạo động lực cho xã hội dân sự hình thành và phát triển, chăng hạn như quyền tự do lập hội, tự do báo chí- quyền lực dư luận xã hội- quyền lực thứ tư- một phần quan trọng của quyền lực xã hội dân sự.

Cơ chề nào để xã hội dân sự phối hợp với nhà nước và cơ ché nào để xã hội dân sự đấu tranh với sự lạm quyền của nhà nước. Và làm sao để xã hội dân sự cũng không thể lạm quyền đúng ra ngoài luật pháp. Hai loại thể chế này không phải là chống đối nhau mà là hợp átc với nhau nhưng là hợp tác có đấu tranh. Hợp tác là chính và đấu tranh để hợp tác, đấu tranh tring hợp tác.

Tuy nhiên, nhiệm vụ quan trọng nhất của xã hộu dân sự là giám sát xã hội và phản biện xã hội, Nhưng muốn thực hiện được phải co thể chế và cơ chế đồng thời phải luật hóa ở cấp độ về Luật chứ không dừng lại pháp lệnh hay nghị định.

Từ khi có nghị quyết của Đảng về vấn đề này, đã gần hết nhiệm kỳ nhưng vẫn chưa ra được thể chế, chưa luật hóa được 2 chức năng- nhiệm vụ cơ bản và mới mẻ, rất có tác dụng này. Bao nhiêu dự thảo, kiến nghị của Mặt trận tổ quốc VN vẫn còn trên giấy, nằm yên trong ngăn kéo. Thế mới biết từ nhận thức, thành cơ chế, luật pháp và đi vào cuộc sống trần ai làm sao.

8) Nhưng quan trọng nhất và trực tiếp là phải sữa đổi Hiến pháp hiện nay theo hướng Hiến pháp văn minh tiến bộ thật sự mang ý nghĩa pháp quyền, đảm bảo cho sự ra đời hợp pháp của xã hội dân sự. “Và cũng chỉ bằng một bản Hiến pháp mà quyền lực Nhà nước bị giới hạn thực sự, thì khi đó một xã hội dân sự hợp pháp, phi chính trị, phi lợi nhuận, mới có cơ sở để hình thành”.

Theo Nguyễn Minh Tuấn, gần đây chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng có đặt ra vấn đề sửa đổi Hiến pháp như một nhu cầu cấp bách[1]. Tôi cho rằng, nhu cầu này là có thật, nhưng thay vì sửa đổi nhỏ lẻ, tại sao chúng ta không tính đến một chiến lược lâu dài hơn là hoàn thiện một Hiến pháp tích hợp được cả những điểm tiến bộ của các bản Hiến pháp trước đó của dân tộc, vừa phải tích hợp được những tinh hoa của nền lập hiến các nước trên thế giới. Hiến pháp bao giờ cũng là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất ở mỗi một quốc gia, khi ra đời về nguyên lý để đảm bảo tính pháp quyền, nó còn được đặt cao hơn cả Nhà nước, để nhằm giới hạn quyền lực của Nhà nước. Tất cả việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải được đặt trên cơ sở Hiến pháp. Và cũng chỉ bằng một bản Hiến pháp mà quyền lực Nhà nước bị giới hạn thực sự, thì khi đó một xã hội dân sự hợp pháp, phi chính trị, phi lợi nhuận, mới có cơ sở để hình thành. Chính xã hội dân sự đó mới là động lực phản biện đẩy Nhà nước và xã hội cùng tiến bộ. Hiến pháp bao giờ cũng là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất ở mỗi một quốc gia, khi ra đời về nguyên lý để đảm bảo tính pháp quyền, nó còn được đặt cao hơn cả Nhà nước, để nhằm giới hạn quyền lực của Nhà nước. Tất cả việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải được đặt trên cơ sở Hiến pháp. Và cũng chỉ bằng một bản Hiến pháp mà quyền lực Nhà nước bị giới hạn thực sự, thì khi đó một xã hội dân sự hợp pháp, phi chính trị, phi lợi nhuận, mới có cơ sở để hình thành. Chính xã hội dân sự đó mới là động lực phản biện đẩy Nhà nước và xã hội cùng tiến bộ.(Nguyễn Minh Tuấn, Cộng hòa Liên bang Đức, Lập Hiến hướng đến pháp quyền ở Việt Nam,Tạp chí Tia Sáng)

5- Đâu là lực cản của các giai đoạn của quá trình hình thành?

Rõ ràng có tiền đề từ xã hội truyền thống và văn hóa truyền thống.

Xã hội VN trong văn hóa làng xã đã hình tành nên tổ chức xã hội nhất định. Rồi làng nghề xuất hiện. Nên mới có chuyện lệ làng phép nươc. Trong kháng chiến những đã xuất hiện các hội kín. Nhưng ở đây chưa phải là tổ chức xã hội dân sự. Ngay khi Đảng ta ra đời, lập nên các tổ chức xã hội, chính trị của quần chúng trong đấu tranh cách nạng nhưng đó vẫn chưa là tổ chức xã hội dân sự. Chưa có kinh tế thị trường và chưa có nhà nước pháp quyền thì chưa có xã hội dân sự.

Trong lịch sử loài người thì trước xã hội tư bản có hình thái sơ khai xã hội dân sự, nhưng chỉ đến xạ hội tư bản thì dần dần mới có xã hội dân sự. Trong chủ nghĩa xã hội thời chiến không có xã hội dân sự dúng nghĩa mà chủ sang chủ nghĩa xã hội theo mô hình mới gắn liền với kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền mới có xã hội dân sự. Có thể nóí có xã hội dân sự xã hội chủ nghĩa. Đó là một xu hướng có tính quy luật.

Chúng tôi đồng ý với Nguyễn Quang A, rằng, ranh giới giữa các tổ chức (nhà nước, xã hội dân sự, khu vực kinh tế) không hoàn toàn rạch ròi, mà có thể có sự chồng lấn. Trong một xã hội phát triển hài hoà, ba loại tổ chức này hoạt động nhịp nhàng với nhau, có sự tương tác với nhau, có các cơ chế văn minh để giải quyết những xung đột (đôi khi có thể rất gay gắt) giữa chúng (giữa các loại tổ chức khác nhau hay giữa các tổ chức cùng loại). Nếu hiểu như vậy, thì xã hội dân sự luôn tồn tại. Trong thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung người ta không những muốn triệt tiêu thị trường, các tổ chức kinh tế tư nhân mà Nhà nước cũng thử làm thay hay kiểm soát những hoạt động thuộc xã hội dân sự. Xã hội không hài hòa, nhiều căng thẳng. Từ khoảng hai mươi năm lại đây không gian hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự được nới rộng và các tổ chức xã hội dân sự cũng đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển.(Nguyễn Quang A, Xã hội dân sự đâu có đáng sợ, Lao Động Cuối tuần số 15 Ngày 12/04/2009).

Vậy xã hội dân sự ở nước ta xuất hiện như thế nào, có thể có những giai đoạn hình thành nào?

Những giai đoạn hình thành xã hội dân sự ở nước ta như thế nào?

- Giai đoạn chưa có xã hội dân sự trước cách mạng do Đảng ta khởi xướng..

- Giai đoạn hình thành các tổ chức quần chúng do Đảng ta sáng lập và lãnh đạo và những tổ chức xã hội do nhà nước ta chấp nhận. Giai đọan tiền xã hội dân sự, mầm mông của xã hội dân sự.

- Giai đoạn từ khi đổi mới đến nay.- hình thành các tiền đề xây dựng , phát triển xã hội dân sự.

- Khi có luật về Hội, về xã hội dân sự với nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền định hình.

- Thời kỳ phát triển và củng cố xã hội dân sự.

- Thời kỳ xã hội dân sự phát triển cao, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khá hoàn chỉnh...

Các tổ chức thuộc xã hội dân sự Việt Nam đã được hình thành và hoạt động, có đóng góp thiết thực, như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành nghề, như Dệt may, Xuất khẩu Thuỷ sản, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính, v. v… Nhiều tổ chức đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn, vận động thực hiện các tiêu chuẩn và quy định của trách nhiệm xã hội, nhất là đối với người lao động và người tiêu dùng. Song, do thiếu cơ sở pháp lý cần thiết, nên sự đóng góp đó còn hạn chế. Bản thân các hiệp hội đó còn cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả thiết thực đối với hội viên (Tiến sĩ, Lê Đăng Doanh- Viện Nghiên cứu phát triển, Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp Việt Nam, Nguồn: Tạp chí Triết học).

Nhưng nhìn chung là cò nhiều khó khăn, trở ngại, như do thiếu sự thống nhất về nhận thức và đặc biệt còn thiếu cơ sở pháp lý nên hoạt động của nhà nước và nhất là về xả hội dân sự chưa cao, hạn chế còn nhiều và kém hiệu quả. Lê Đăng Doanh, cho rằng: Về luật pháp chế định các thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam đã ban hành luật Cạnh tranh, nhưng chưa có Luật Kiểm soát độc quyền và việc thực hiện Luật Cạnh tranh còn có nhiều hạn chế. Các luật pháp về kế toán, kiểm toán, các chuẩn mực đã được ban hành, nhưng việc thực hiện trong thực tế còn nhiều hạn chế. Việt Nam đang chuẩn bị Luật về Quyền tiếp cận thông tin, song chưa có luật về Hiệp hội và chưa chuẩn bị Luật về Vận động hành lanh. Thông tin kinh tế còn nhiều hạn chế, nhiều số liệu chưa được công bố công khai và kịp thời. Các hoạt động giám sát đối với ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản còn sơ khai và cần được nhanh chóng hoàn thiện.(Tiến sĩ, Lê Đăng Doanh - Viện Nghiên cứu phát triển, Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp Việt Nam, Nguồn: Tạp chí Triết học). Đó là xét về mặt kinh tế còn về mặt chính trị xã hội, hành chính cũng còn nhiều vấn đề cần bàn.

Trong khi đó, theo Nguyễn Quang A, có những cơ quan nhà nước làm việc tắc trách, có các doanh nghiệp gian lận. Cũng thế, có các tổ chức xã hội dân sự nói một đằng làm một nẻo. Phải có khung pháp lý để cho mọi loại tổ chức hoạt động, để buộc tất cả chúng phải minh bạch, phải có trách nhiệm giải trình với những người mà chúng (được cho là) đại diện, với những người cấp tài chính và với xã hội nói chung, để có cơ chế văn minh cho các tương tác, cho sự hợp tác và giải quyết xung đột giữa chúng. Nếu làm được vậy thì sẽ góp phần đắc lực cho sự phát triển hài hoà, bền vững của đất nước. Và nhìn vấn đề như thế, thì xã hội dân sự đâu có đáng sợ mà là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Tài liệu tham khảo

1-Hồ Bá Thâm, Xã hội dân sự, vấn đề và tính đặc thù, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 1(92) 2009 và trên http://www.chungta.com/.). Hoặc Xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, 2008, Xã hội dân sự và kinh tế thị trường. (trong Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển kinh tế và phát triển xã hội ở châu Âu” (KX. 01.04/06-10, KX 02.13/06 -10) của Viện Nghiên cứư châu Âu và khoa Lịch sử trường đại học KHXH-NVTPHCM tại TPHCM, 11-2008{

2- Trần Ngọc Hiên, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nước ta”, Tạp chí Cộng sản điện tử )

3- Nguyễn Ngọc Giao, Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Thời đại, Chungta.com

4- Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển kinh tế và phát triển xã hội ở châu Âu” (KX. 01.04/06-10, KX 02.13/06 -10) của Viện Nghiên cứư châu Âu và khoa Lịch sử trường đại học KHXH-NVTPHCM tại TPHCM, 11-2008.

5- Lê Đăng Doanh - Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp Việt Nam, Nguồn: Tạp chí Triết học, chungta.com

6- Đào Thế Tuấn, “Phải xây dựng xã hội dân sự ở nông thôn”. (TuanVietNam).

7-Nguyễn Quang A, Xã hội dân sự đâu có đáng sợ, Lao Động Cuối tuần số 15 Ngày 12/04/2009

8-Nguyễn Minh Tuấn, Cộng hòa Liên bang Đức, Lập Hiến hướng đến pháp quyền ở Việt Nam, Tạp chí Tia Sáng, chungta.com

TS. Hồ Bá Thâm

 Công chức ra đi để bảo toàn giá trị sống của mình?

Hỏi: Thưa ông, vấn đề công chức bỏ việc hàng loạt hiện đang thu hút sự quan tâm của dư luận. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?

Trả lời: Trước đây, chúng ta gọi những người làm công chức là cán bộ. Cán bộ là một danh hiệu hết sức quan trọng. Những người làm cán bộ ngày xưa ở các phường, xã được miễn dịch nhiều thứ, không bị săm soi, không bị phân loại và không bị quản lý. Nhưng từ khi chúng ta thay từ cán bộ thành công chức thì dường như chúng ta cũng thay đổi luôn các quan điểm rất truyền thống của khái niệm cán bộ.

Vậy nguyên nhân của hiện tượng công chức bỏ việc là gì? Có người cho rằng, nó không phải vấn đề kinh tế mà là vấn đề tinh thần, nhưng có người lại khẳng định, nó chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý. Tôi cho rằng, cả hai cách phân tích như vậy đều phiến diện. Tất nhiên, yếu tố kinh tế, yếu tố thu nhập là hết sức quan trọng, bởi vì bài toán cơ bản của cuộc đời con người là đi tìm điều kiện để sống, điều kiện để phát triển. Nhưng với một chế độ tiền lương như hiện nay thì có thể khẳng định không một ai có thể sống chỉ bằng tiền lương.

Hỏi: Nhưng còn có nhiều khoản thu nhập khác?

Trả lời: Đúng, có nhiều khoản thu nhập khác thì cũng không phổ biến và không công khai. Trong khái niệm thu nhập của một cán bộ có mấy yếu tố vẫn song song tồn tại cho đến bây giờ. Thứ nhất là lương, đó là chỉ tiêu rất rõ ràng, công khai. Thứ hai là các chế độ. Thứ ba là thưởng. Và cuối cùng là bổng lộc. Bổng lộc vẫn tiếp tục tồn tại trong sinh hoạt của các cơ quan Nhà nước.

Trong những loại bổng lộc ấy, phải kể đến "văn hóa phong bì". Phong bì dần dần trở thành một trong những nguồn thu nhập chiếm một tỉ trọng quan trọng trong việc tạo ra nền tài chính cá nhân của cán bộ công chức. Khía cạnh tiêu cực của bổng lộc là tham nhũng. Khi chúng ta khẳng định tiền lương không cấu thành toàn bộ ngân sách để sống thì với những công chức chưa bỏ việc, toàn bộ bổng lộc, chế độ, tiền thưởng trở thành những nguồn thu nhập cơ bản của họ. Khu vực quản lý Nhà nước là khu vực tương tác trực tiếp với các quyền, cho nên bổng lộc tham nhũng dần dần giữ địa vị thống trị trong toàn bộ cơ cấu thu nhập của công chức. Đấy là lý do mà nhiều người cho rằng, tiền lương không phải là động lực cơ bản để công chức rời nhiệm sở.

Hỏi: Phong trào công chức bỏ việc hiện nay có khiến ông liên tưởng đến thời kỳ ông cũng từng rời bỏ cơ quan nhà nước ra thành lập công ty không?

Trả lời: Tôi rời bỏ cơ quan nhà nước không vì những lý do hiện nay. Tôi rời bỏ cơ quan nhà nước để thành lập Cty là một thể nghiệm xã hội, tôi rời bỏ từ năm 1992, khi chúng ta có Luật Công ty. Tôi có những cương vị nhất định ở trong cơ quan Nhà nước, tôi cũng có những ham mê nhất định với công việc của mình khi đó, và phải nói thẳng là tôi cũng có những hoàn cảnh vật chất không bắt buộc phải rời bỏ nhiệm sở. Cho nên tôi rời bỏ cơ quan nhà nước không phải vì tôi là kẻ lép vế về phương diện tham nhũng, mà vì khi đó tôi cho rằng, yếu tố tư nhân sẽ có một tương lai rất chắc chắn trong toàn bộ sự phát triển của đời sống dân sự. Tôi thể nghiệm nhận định ấy của tôi thôi.

Làm mới những chất xám đã cũ

Hỏi: Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, rất nhiều người nhận thấy khu vực tư nhân tạo điều kiện thuận lợi để họ phát triển. Vậy theo ông, điều căn cốt nhất của sự rời bỏ là gì?

Trả lời: Tôi cho rằng, hiện nay điều căn cốt của sự rời bỏ công sở là con người phải đi tìm được cuộc sống của mình, các vùng sống phù hợp với khả năng của mình. Nếu như các nhà lãnh đạo của chúng ta quan niệm rằng, họ là thủ lĩnh của cơ quan Nhà nước thì rõ ràng hiện tượng công chức rời bỏ các công sở là hiện tượng chảy máu chất xám. Nhưng nếu họ là người quản lý đất nước chứ không phải quản lý Nhà nước thì họ sẽ thấy đấy là sự lưu chuyển các năng lực khác nhau trong một vòng quay của cuộc sống. Tôi không tin là những người bỏ cơ quan nhà nước lúc này sẽ không quay lại vào lúc khác. Vấn đề là chúng ta phải làm như thế nào để cho tất cả các quá trình lưu chuyển ấy bảo tồn một số giá trị liên quan đến năng lực con người. Chẳng hạn, những người bỏ cơ quan nhà nước đi ra ngoài làm một thời gian, họ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sau hàng loạt các thể nghiệm của mình, họ được mời trở lại cơ quan Nhà nước với một cương vị cao hơn. Việc Bộ nội vụ phải làm không phải là kêu cứu về một hiện tượng chảy máu chất xám mà phải tận dụng hiện tượng này để lưu chuyển, để làm mới các chất xám đã cũ ở trong các công sở, và tạo ra một dòng chảy ngược lại. Nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhân sự, quản lý cán bộ của Chính phủ, tức Bộ Nội vụ phải xây dựng được lộ trình và phải xem việc đi qua đời sống dân sự, đời sống thông thường ở ngoài như là một quá trình đào tạo và tích lũy kinh nghiệm cuộc sống để tăng cường sức mạnh của cán bộ Nhà nước sau này.

Nếu không khéo sẽ có một dòng chảy một chiều, tức là đầu vào là cán bộ, sau một thời gian làm việc tại các cơ quan Nhà nước, được tạo điều kiện học tập nâng cao sẽ phân loại cán bộ giỏi và cán bộ kém, cán bộ kém thì ở lại, còn cán bộ giỏi thì ra đi. Các nhà quản lý công chức thanh minh rằng, mới chỉ có 0,8% cán bộ rời bỏ cơ quan nhà nước thôi, nhưng nhìn sự việc theo kiểu thống kê chủ nghĩa như vậy là nhìn với tư cách một kẻ quản lý đàn vịt chứ không phải của nhà đầu tư nuôi vịt. Tôi cho rằng, công việc của Bộ Nội vụ là phải làm thế nào khơi ra một dòng chảy ngược lại, tức là làm cho các công chức sau khi bỏ cơ quan Nhà nước làm ngoài sẽ phải quay trở lại.

Hỏi: Vậy theo ông cơ quan quản lý Nhà nước phải làm thế nào để tạo ra dòng chảy ngược lại?

Trả lời: Có bay hơi và có mưa. Vậy làm thế nào để có mưa, đấy là công việc của những người quản lý vĩ mô về phương diện lực lượng lao động. Trước đây có một thời kỳ chúng ta tập trung tất cả những ưu đãi vào các cơ quan nhà nước, và cơ quan nhà nước trở thành điểm hấp dẫn tất cả mọi thứ. Bây giờ làm thế nào để chúng ta tạo ra một quá trình lọc.

Cái chính là anh phải tạo ra môi trường làm việc. Nhà nước là một môi trường tốt, ở đấy con người ngưng đọng được, quy tụ được các giá trị không chỉ đơn thuần là vật chất, mặc dù vật chất trong điều kiện hiện nay chiếm một tỷ trọng rất lớn trong các quyết định rời bỏ Nhà nước. Nói như thế không phải là khu vực tư nhân không có sự rời bỏ, khu vực tư nhân là những vùng vi khí hậu khác nhau, mọi sự rời bỏ các vùng vi khí hậu để sang một vùng vi khí hậu khác là hiện tượng xảy ra hàng ngày. Cho nên, sự mất mát cán bộ luôn là vấn đề của tất cả các khu vực khác nhau trong đời sống, đừng nhìn sự mất mát cán bộ ở trong khu vực Nhà nước như là một thảm họa, mà phải xem đấy như là điều kiện mà bây giờ Nhà nước mới có để lưu chuyển cán bộ.

Hỏi: Công ty của ông có tuyển các cán bộ từ khu vực Nhà nước ra không?

Trả lời: Nhiều người nghĩ rằng, cơ quan Nhà nước chỉ đào tạo, tức là chỉ chất vào trong mỗi một cá thể những giá trị có lợi, không phải như vậy. Rất nhiều căn bệnh tiêm nhiễm trong anh cán bộ Nhà nước khiến các công ty tư nhân ngại nhận cán bộ Nhà nước. Bởi khu vực tư nhân không có chuyện làm việc 8 giờ, không có chuyện hoàn thành nhiệm vụ, không kể lể thành tích, không có bình bầu...

Những công cụ để xác lập, đánh giá giá trị thông thường trong khu vực Nhà nước không được sử dụng trong khu vực tư nhân, mà hiệu quả là thước đo cơ bản để khu vực tư nhân đánh giá cán bộ. Khi được rèn luyện trong một môi trường có những nấc thang đánh giá theo kiểu như vậy thì họ đã tiêm nhiễm một số căn bệnh quan liêu, mà điều đó nhiều khi phá vỡ cộng đồng lao động đã được hình thành bởi một tiêu chuẩn khác. Cho nên, đừng nghĩ là anh rời khu vực Nhà nước thì anh sẽ được tiếp đón một cách nồng hậu tại khu vực tư nhân. Những người rời khỏi khu vực nhà nước không tự kiến tạo được chỗ đứng của họ thì sẽ rất vất vả để đứng vững trong khu vực tư nhân.

Không thể "đu" với khu vực tư nhân để trả lương

Hỏi: Ông nói rằng, khu vực tư nhân đánh giá cán bộ dựa trên năng lực cống hiến và hiệu quả công việc. Ngược lại với khu vực Nhà nước phải làm thế nào để việc đánh giá hiệu quả công việc trở thành thước đo giá trị?

Trả lời: Nếu chúng ta trượt theo khía cạnh này quá thì chúng ta sẽ phạm một sai lầm rất cơ bản. Lương của tổng thống Hoa Kỳ vào thời điểm chúng ta đang thảo luận đây vào khoảng 300.000 đô la/năm, lương của một bộ trưởng thì thấp hơn, theo trật tự hành chính của chính phủ Hoa Kỳ. Nhưng một bộ trưởng sau khi về hưu mà làm chủ tịch hoặc tổng giám đốc những tập đoàn như Ford chẳng hạn thì lương tối thiểu là 5 triệu đô la/năm, chưa kể cổ phần. Nếu "đu" với khu vực tư nhân về việc trả lương thì không có chính phủ nào đu nổi, kể cả chính phủ Hoa Kỳ. Có một chính phủ có khả năng đu được là chính phủ Singapore, nhưng người dân Singapore ít, do đó công chức của họ cũng ít, và chênh lệch tiền lương giữa xã hội và nhà nước như Singapore là quy luật không điển hình. Vì thế không nên bắt chước Singapore.

Còn hầu hết những chính phủ của các nước phát triển thì lương của khu vực công bao giờ cũng thấp hơn. Tôi lấy ví dụ, hai người tốt nghiệp khoa luật cùng một thời điểm, người được một hãng luật nhận vào làm việc thì lương tối thiểu là 100.000 đô la/năm, còn người làm luật sư công, tức là anh "mõ" toà thì lương chỉ bằng 1/3 của người làm cho hãng luật. Cho nên, thu nhập ở khu vực công bao giờ cũng thấp hơn nhiều so với khu vực tư.

Hỏi: Vậy một môi trường như thế nào thì hút được những người giỏi, theo ông?

Trả lời: Vấn đề đặt ra là cái gì hút. Cựu tổng thống Bill Clinton đã kiếm được rất nhiều tiền trong những buổi diễn thuyết, nhưng khi ở cương vị tổng thống, ông không được làm như vậy. Rõ ràng ông Clinton làm tổng thống không phải để tìm kiếm tiền lương. Cho nên, khu vực Nhà nước mặc dù không đủ năng lực để thu hút những chuyên gia có tài nhất, nhưng lại là môi trường thu hút được những nhà lãnh đạo tài ba nhất. Có thể nói, ở khu vực nhà nước thì năng lực lãnh đạo bù lại sự thiếu hụt của năng lực công chức, hay nói cách khác, lãnh đạo xuất chúng cộng với cán bộ bình thường là cấu trúc của lực lượng lao động nhà nước.

Còn ở khu vực tư nhân thì sự xuất chúng của người lao động cộng với năng lực trả lương cao của người lãnh đạo tạo ra chất lượng lao động của khu vực tư nhân. Cho nên, quy luật hình thành cộng đồng lao động ở khu vực tư nhân và quy luật hình thành cộng đồng lao động ở khu vực Nhà nước là khác nhau, và khác nhau ở chính điểm tôi vừa chỉ ra. Khu vực nhà nước là nơi thu hút được những nhà lãnh đạo tài ba. Ví dụ, một người có thể kiếm được mấy trăm ngàn đô la một năm, nhưng nếu được mời làm cán bộ cao cấp của Nhà nước, anh ta có thể sẵn sàng bỏ mấy trăm ngàn đó, mặc dù đi làm cán bộ cao cấp chỉ được mấy chục triệu một năm, vì vị trí đó đem lại cho anh ta những giá trị khác. Nên đừng bao giờ phấn đấu để khu vực công đặt ra mục tiêu có lương cao hơn khu vực tư, và sức mạnh của khu vực công nằm ở việc tuyển chọn những người đứng đầu.

Nâng cao năng lực thật sự của khu vực công

Hỏi: Trong quá trình hội nhập, bộ máy công quyền của Việt Nam thường bị chê là quá lạc hậu?

Trả lời: Như tôi đã nói, phải xem hiện tượng rời khỏi các cơ quan nhà nước của đội ngũ viên chức thông thường như là một hiện tượng tự nhiên, không nên yên tâm, cũng không nên hoảng loạn về hiện tượng ấy. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào để nâng cao sức mạnh thật sự, năng lực thật sự của khu vực công. Và chìa khoá của việc nâng cao năng lực thật sự của khu vực công là tuyển chọn những người đứng đầu. Tôi cho rằng, tài dùng người của người đứng đầu trong khu vực công là dùng những người có năng lực trung bình. Khu vực công với đội ngũ viên chức cơ sở chắc chắn không chọn được những người có năng lực lớn nhất, anh có thu hút kiểu gì thì vài ngày họ sẽ ra đi.

Vì sao? Vì những người có năng lực thật sự bao giờ cũng tự do, họ không chịu được trật tự công. Ở khu vực tư, anh có thể bỏ hãng này sang hãng kia, anh có thể bỏ tập đoàn này sang tập đoàn kia, anh có thể bỏ tỉnh này đến tỉnh kia, nhưng khu vực công thì không thể như thế được, vì kỷ luật của khu vực công bao giờ cũng lớn hơn ở khu vực tư. Khu vực công buộc phải có tính kỷ luật vì đó là nhà nước, và những người tuân thủ kỷ luật một cách chặt chẽ như vậy thường là những người có năng lực thấp. Dùng những người có năng lực thấp để được việc thì người lãnh đạo phải tài. Không chọn được những người lãnh đạo có đủ năng lực, có đủ tài để sử dụng những người có năng lực thấp thì không cấu thành được khu vực công tích cực.

Hỏi: Ông có nhận xét gì về việc TP. Hồ Chí Minh chiếm đến một nửa số công chức bỏ nhiệm sở?

Trả lời: Thông tin ấy làm cho tôi đánh giá rất cao TP. HCM, như vậy phải nói rằng khu vực tư nhân, khu vực xã hội dân sự, khu vực thường dân ở TP. HCM là khu vực rất tích cực và có nhiều cơ hội. Bởi vì lãnh đạo mà tạo ra một xã hội tích cực đến mức hấp dẫn hơn cả nhà nước, thì đấy là lãnh đạo giỏi.

Xuân Lan - Phương Loan, Báo Lao động Xã hội ngày 26/8/2008

Nguồn: Viết vì sự tiến bộ



    Tổ chức bầu cử chỉ cần 6 tháng, lập nên một nền kinh tế thị trường thì một năm, còn muốn tạo ra một xã hội dân chủ phải cả một thế hệ. Mà không có xã hội dân sự thì không thể có dân chủ.

    Ralf Dahrendorf

    Trong câu chuyện nổi tiếng của Lewis Carroll, Alice ở Xứ Thần Tiên, có con mèo Cheshire. Đó là con mèo ảo, khi hiện ra khi biến mất, sắc sắc không không. Nó lại có đặc điểm là thường hay mở miệng cười. Đặc biệt là có khi nó mất dạng, nhưng nụ cười của nó vẫn còn đó. Khiến cho cô bé Alice, một người ít khi ngạc nhiên vì bất cứ cái gì, kể cả những điều nghịch lí nhất, cũng phải kinh ngạc thốt lên: “Tôi từng thấy những con mèo không cười, chứ chưa bao giờ thấy cái cười không mèo”. Nhà Trung Quốc học người Pháp Yves Chevrier[1] đã nhắc tới con mèo Cheshire khi ông bàn tới “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, hay đúng hơn, khi ông nghiên cứu những bước truân chuyên lao tâm khổ tứ của những nhà Trung Quốc học khi họ đi tìm “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, cổ đại và hiện đại, để rồi rốt cuộc hình như không đi xa hơn cuộc tranh luận nảy lửa: có thể “áp đặt” khái niệm “Tây phương” là “societas civilis” vào việc nghiên cứu một nước phương Đông là Trung Quốc hay không?

    Có nhà nghiên cứu còn viện dẫn G. W. F. Hegel, nhà triết học nghe nói đã viết ở đâu đó rằng Trung Quốc là một Nhà nước không có xã hội.[2] Chẳng biết, chẳng hiểu gì về Hegel, nhưng nghe câu nói động trời ấy, tôi vội gõ vào cái cửa thích đáng nhất là địa chỉ email của người đã dịch Hiện tượng học tinh thần.[3] Được trả lời: câu ấy không thấy trong văn bản, không có trong mấy chục trang Hegel viết về phương Đông, cụ thể trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I) và Các bài giảng về triết học Lịch sử. Nó phản ánh phần nào cái nhìn của Hegel về Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng câu chữ như vậy, nếu có, thì không “hê-ghê-liên” chút nào, vì đối với Hegel, “Nhà nước” cao hơn “xã hội”.

    Nhưng thôi, chuyện Hegel, chúng ta lát nữa sẽ đề cập. Xin trở lại “con mèo Cheshire” và cái “cười” của nó. Trước khi xem ở Trung Quốc và Việt Nam có mèo, có mèo cười hay mèo không cười, có cười có mèo hay không mèo, chúng ta hãy làm công việc “chính danh”: thử định nghĩa “xã hội dân sự”, và rất nhanh chóng, chúng ta sẽ thấy nó là một mớ bòng bong khá rối rắm, nó là A và là không-A, nó được giá và mất giá, nó đáng sợ, đáng nghi và nó rất cần, “không có nó thì không có dân chủ”; tóm lại, muốn gỡ mối bòng bong ấy, để biết chúng ta bàn về cái gì, thì trước hết, xin điểm qua lịch sử của cụm từ “xã hội dân sự”. Sau đó, chúng ta sẽ xét tới số phận của cụm từ ấy ở “phương Đông” là Trung Quốc và Việt Nam, và từ đó, bàn qua thực trạng và triển vọng của bản thân xã hội dân sự ở đó.

    Lịch sử một cụm từ – khái niệm

    Cụm từ “civil society”/“société civile” mãi đến thế kỉ 17 mới xuất hiện trong các văn bản tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng “nguyên bản” bằng tiếng Latinh của nó, “societas civilis”, đã được Cicéron sử dụng từ thời Cổ La Mã, với một nội dung tương đương với cụm từ Hi Lạp koinōnia politikē. Trong thời cổ đại và trung cổ, cái xã hội được gọi là civilis ấy chính là xã hội con người được tổ chức thành Nhà nước, nó hầu như đồng nhất với khái niệm Nhà nước, civilis được hiểu với hai nghĩa: một là nó văn minh / civilisé, đối nghịch với trật tự tự nhiên, hoang dại, tức là nó có pháp luật, có lễ độ; hai là công dân, người tham gia trực tiếp vào sinh hoạt dân chủ của thành quốc – tất nhiên, tại thành quốc Athènes, cái nôi của nền dân chủ ấy, số công dân chỉ là một thiếu số nhỏ bé, vì trong đó không có đàn bà, không có nô lệ, không có mê-téc μετοίκος / metoikos nghĩa là “người ngoài”, những người “ngụ cư” (chắc cũng không có… Việt kiều luôn).

    Như vậy là cho đến thế kỉ 17 ở châu Âu, khái niệm “xã hội civilis” hầu như đồng nhất với khái niệm xã hội được tổ chức về mặt chính trị, nghĩa là Nhà nước. Nhưng bản thân nó đã mang mầm mống của sự phân hoá và mâu thuẫn: bởi vì trong xã hội châu Âu thời Trung Cổ và Phục hưng, quyền lực chính trị được chia sẻ giữa hai đối tác: Giáo hội và Quân vương (le Prince). Một hay hai? Một thành hai, hai thành một? Vấn đề lại càng trở nên phức tạp và gay cấn vì xuất hiện hai tay phá đám. Một là Luther phủ nhận vai trò của linh mục – người trung gian giữa tín đồ và Thượng đế – phản đối vai trò cồng kềnh, sa hoa của Giáo hội. Với quan niệm Tin Lành, mỗi cá nhân tín đồ trở thành những cá nhân thực thụ, không còn nấp bóng áo chùng của linh mục (người chăn linh hồn) được nữa, mà phải tự chăn phần hồn của mình, cá nhân trở thành cô độc một cách kinh khủng – và chính những còn người cô độc kinh khủng ấy sẽ gặp nhau trong các cuộc “town meetings” mà Alexis de Tocqueville đã mô tả trong tác phẩm Bàn về nền dân chủ ở Mĩ. Sau Luther (và Calvin nữa, tất nhiên), người phá đám thứ nhì là giai cấp tư sản thương nhân, sẽ nhân danh “xã hội dân sự” để đòi hỏi quyền tự trị đối với chính quyền (quân chủ) và thần quyền (của giáo hội).

    Thế là từ đây trở đi, “xã hội civilis” sẽ phải tự định nghĩa, tự định vị đối với bộ ba: thần quyền, chính quyền và kinh tế quyền (trong một số trường hợp, với cả quân quyền nữa…)

    Đối với Thomas Hobbes (1588-1679) – người được coi là đã tạo ra cụm từ này — “civil society” còn gần như đồng nghĩa với Nhà nước, với một khác biệt đáng kể: xã hội “civil” là một kiến tạo tự nguyện của các cá nhân thành viên nhằm mực đích bảo đảm trật tự và an lạc. Tiếp theo Hobbes, Samuel von Pufendorf (1632-1694) phân biệt xã hội “civis”, tức là xã hội của những công dân, với “xã hội của những Kitô-hữu” (tức là Giáo hội), cũng như với “xã hội” nghĩa là tập hợp đơn thuần, tự nhiên của những cá nhân, không do một thoả ước tập thể nhằm kiến lập một quyên lực chung. Với John Locke (1632-1704), xã hội “civil” không chỉ có mục đích là bảo đảm an ninh và an lạc nữa mà “cứu cánh chủ yếu của nó là duy trì tư hữu” (Of political or civil society). Đi xa hơn nữa, Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) tách biệt Nhà nước và xã hội dân sự, Nhà nước là quyền lực chính trị, xã hội dân sự là nơi chốn của quyền tư hữu: “kẻ đầu tiên dựng nên hàng rào quanh mảnh đất và nói: đất này là của tôi… kẻ đó là người sáng lập xã hội dân sự” (Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalité parmi les hommes, phần hai, câu đầu). Không đi vào chi tiết quan điểm của Rousseau, tôi chỉ xin nhấn mạnh trên một ý: Như ta biết, Rousseau chủ trương “khế ước xã hội”, nhưng cũng rất cảnh giác với “văn minh”, “tiến bộ”, chống lại sự ngự trị của “luật về tư hữu và bất bình đẳng”, chống lại tình trạng mà luật pháp mang lại “những cản trở mới cho kẻ yếu và những sức mạnh mới cho kẻ giàu”.

    Cuối thế kỉ 18, trong khi nhóm Bách khoa toàn thư của Diderot và d’Alembert vẫn còn gần như đồng nhất Nhà nước và xã hội “civil” và thu hẹp xã hội “civil” vào một kích thước là kích thước chính trị, Adam Smith quan niệm khác hẳn: tuy không dùng cụm từ “civil society” mà chỉ nói đến “nation” (dân tộc) hay “society” (xã hội), và định nghĩa nó là xã hội của trao đổi thương mại, một cơ chế trong đó các quyền lợi tư tự chúng hài hoà với nhau, không cần phải do ý muốn chủ đích của các cá nhân. Với Smith, từ nay xã hội “dân sự” tách biệt hẳn với Nhà nước mà “bổn phận” chỉ còn là đảm nhiệm ba chức năng: bảo đảm an ninh đối ngoại, giữ gìn trật tự quốc nội, và “bảo trì một số công trình công cộng” khi mà tư nhân không đảm đương được (The Wealth of Nations).

    Bước sang thế kỉ 19, nảy sinh hai quan niệm về xã hội dân sự. Một quan niệm “phóng khoáng [4]”, khẳng định sự “tự lập” của nó đối với Nhà nước: đó là quan niệm của bộ Dân luật (1804) Pháp cũng như trong tác phẩm của Benjamin Constant (1767-1830). Quan niệm kia là quan niệm của Hegel, rồi của Marx, dựa trên hai đặc trưng của xã hội dân sự phái sinh từ cuối thế kỉ trước: xã hội kinh tế và xã hội xung đột.

    Quan niệm “phóng khoáng” về xã hội dân sự trong bộ Code civil / Luật dân sự của Pháp (1804), trong một ý nghĩa nào đó, là một sự sửa sai đối với Cách mạng Pháp 1789. Thật vậy, “xã hội dân sự” hoàn toán vắng bóng trong bản Tuyên ngôn nhân quyềnvà các bản Hiến pháp của Cách mạng Pháp, cũng như trong các bài viết của Robespierre, Saint-Just, Sieyès. Đối với các nhà lãnh đạo “cứng rắn” của Cách mạng tư sản, chỉ có một bên là “xã hội hiện thực, chia năm xẻ bảy và đa nguyên”, và một bên là “dân tộc”, là “quốc gia”, “một” và là “tất cả”. “Xã hội dân sự” không những bị triệt tiêu trong văn bản, mà trên thực tế: đạo luật Le Chapelier (14-16.07.1791) đã giải tán tất cả các phường hội. Tôi mở ngoặc nói về giai đoạn này, coi đó như một tiền lệ của Cách mạng tháng Mười Nga, và của quan niệm bôn-sê-vich. Sự triệt tiêu xã hội dân sự ở Nga từ sau 1917, ngày nay, 90 năm sau, Cộng hoà Liên bang Nga vẫn còn phải trả giá trong công cuộc xây dựng dân chủ. Số phận tương tự cũng dành cho xã hội dân sự tại các nước “xã hội chủ nghĩa” ra đời sau Thế chiến lần thứ nhì.

    Với bộ Luật dân sự, “xã hội dân sự” được thiết lập và vận hành theo pháp luật. Dân luật (code civil) và Công luật (droit public) trở nên nền tảng để tách biệt xã hội dân sự và Nhà Nước, cái “dân sự” và cái “chính trị”, lãnh vực tư (sphère privée) và lãnh vực công (sphère publique). Benjamin Constant, nhà lí luận của quan niệm này, “đòi duyền tự do dân sự cùng một lúc với các dạng thức khác của quyền tự do chính trị”, và định nghĩa tự do dân sự là “sự thụ hưởng an nhiên của sự độc lập cá nhân” (De la liberté chez les Modernes). Điều cần nhấn mạnh ở Constant, là ông chủ trương sự cân đối mà không đối lập giữa xã hội dân sự và Nhà nước, ông không hề đòi giảm nhẹ vai trò của Nhà nước (như hiện nay những người “liberal cực đoan” đang làm để tư nhân hoá – hay “xã hội hoá”?!!! – những dịch vụ công cộng), mà cho rằng Nhà nước và xã hội dân sự bổ sung nhau: vấn đề không phải là dựng nên những rào cản giả tạo để ngăn ngừa sự can thiệp của Nhà nước vào xã hội dân sự, mà là tạo điều kiện để xã hội dân sự tự tổ chức. Đối với Constant, một Nhà nước hùng cường giả định một xã hội dân sự mạnh mẽ ; vấn đề không phải là hi sinh tự do dân sự để có tự do chính trị hay ngược lại, mà phải “kết hợp cả hai”.

    Nói kết hợp, nghĩa là thừa nhận sự dị biệt, và có thể xung đột giữa Nhà nước và xã hội dân sự. Làm sao hoà giải được Nhà nước và xã hội dân sự? Đó là bài toán mà Hegel tìm cách giải quyết trong Nguyên lí triết học luật pháp. Có thể nói không ngoa là với Hegel và Marx, khái niệm “xã hội dân sự” hiện đại mới thực sự được định hình và triển khai. Không thể nói dài, nhưng cũng không thể nói ngắn, và càng không thể nói dở và nói sai, tôi xin tóm tắt ở dưới đây, một vài ý chính đã được anh Bùi Văn Nam Sơn giảng cho tôi trong một lá thư riêng – tất nhiên tôi xin chịu trách nhiệm về mọi sai lầm tất nhiên mắc phải trong việc hiểu và nói lại như vậy:

    * Trước tiên, Hegel phân biệt xã hội tiền – hiện đại và xã hội hiện đại. Xã hội tiền hiện đại có 2 đặc điểm:

    con người bị chìm đắm trong cái Bản thể (xã hội) và bị cai trị một cách trực tiếp, không có sự trung giới.

    chỉ có sự phân biệt giữa “xã hội” tự nhiên và riêng tư của gia đình với “xã hội” công cộng và nhân tạo của nhà nước chính trị.

    Trong một trật tự xã hội như thế, không có chỗ cho những cá nhân hoạt động với tư cách là những “personnes” và những “chủ thể” sử dụng sự tự do lựa chọn của mình để theo đuổi những mục đích riêng và phát triển tính cá nhân độc đáo của mình trong vũ đài công cộng rộng hơn của đời sống xã hội.

    Còn trong xã hội hiện đại:

    Con người hiện đại hiểu chính mình như là personnes có quyền tự do lựa chọn trong lĩnh vực ngày càng rộng rãi. Lĩnh vực này bắt đầu với thân thể của mình, rồi mở rộng ra thành những gì được gọi là “tài sản cá nhân” (Triết học pháp quyền, §§45-47). Với Hegel, hình thức chính đáng duy nhất của tài sản được xã hội hiện đại thừa nhận là sự tư hữu (nt, §46).

    Con người hiện đại còn hiểu chính mình như là những chủ thể mang lại ý nghĩa cho cuộc đời thông qua những lựa chọn của mình. Chủ thể đòi hỏi một lối sống tự chủ, xem hành động của mình là kết quả của sự lựa chọn chứ không phải của tập quán hay của sự cưỡng chế xã hội. Ðiều này cần có cấu trúc xã hội mà Hegel gọi là “sự tự do chủ quan” (nt, §224).

    Thoạt nhìn, có vẻ giống với quan niệm của Liberalisme classique, nhưng chỗ khác cơ bản là: với Hegel, “personne” và “chủ thể” chỉ là những sự trừu tượng; tự chúng không đủ để mang lại nội dung cho quyền con người hay nghĩa vụ luân lý. Trong hình thức trừu tượng ấy, chúng sẽ dẫn đến “tinh thần cá nhân nguyên tử” tách rời con người với nhau và với đời sống xã hội. Nếu nhà nước chính trị chỉ được quan niệm như là kẻ bảo vệ quyền của “personne”, thì nhà nước không tránh khỏi trở thành một sức mạnh trừu tượng đối lập lại cá nhân với chức năng duy nhất là giám sát và cưỡng chế. Nếu nhà nước chỉ có chức năng “cảnh sát”, nó sẽ bị quy giản thành “nhà nước cảnh sát”, trở nên thù địch với con người. Vậy, pháp quyền và luân lý chỉ phát triển trong một hệ thống bảo đảm sự tự do và hạnh phúc của cá nhân trong những vai trò nhất định được xã hội thừa nhận. Hệ thống ấy Hegel gọi là “đời sống hay trật tự đạo đức” (Sittlichkeit/ordre ou vie éthique). Vậy, trong xã hội hiện đại, quyền và hạnh phúc cá nhân đã có được vị trí chính đáng độc lập với lợi ích của toàn bộ xã hội. Việc theo đuổi lợi ích của toàn bộ xã hội này đòi hỏi một loại định chế xã hội mới mẻ, trong đó sự tham gia của cá nhân trong đời sống xã hội phải được trung giới thông qua ý chí tự do lựa chọn của cá nhân và phải diễn đạt được ý kiến chủ quan của cá nhân (Sđd, §206). Hegel gọi định chế xã hội mới mẻ ấy là “bürgerliche Gesellschaft (viết tắt BG) / société civile, vì xã hội ấy bao gồm những“Bürger”. Chữ Bürger có cả hai nghĩa: citoyen và bourgeois. Hegel nhấn mạnh: ông hiểu theo nghĩa sau: bourgeois (nt, §190).

    Vì thế, BG không phải là một lĩnh vực tự nhiên hình thành từ việc những cá nhân theo đuổi những ham muốn riêng tư bằng cách tham gia vào thị trường. Cách hiểu đơn thuần kinh tế này về BG bị Hegel gọi là “cộng đồng thú vật mang tính tinh thần” (Hiện tượng học Tinh thần, §§339 và tiếp). Mục đích của BG không chỉ để thoả mãn nhu cầu và ham muốn mà để tự – hiện thực hoá cá nhân. “Nhân vị cụ thể” (konkrete Person) chỉ là nguyên tắc thứ nhất của BG, cần được bổ sung bằng nguyên tắc thứ hai: “hình thức của tính phổ biến” (Triết học pháp quyền, §182). Như thế, sự phân tích của Hegel về BG bao hàm cả việc xem xét các hình thức của sự đoàn kết hay liên đới xã hội, qua đó cá nhân tự quan hệ với những mục đích phổ biến của Nhà nước (nt, §§230-56). BG làxã hội đích thực (wahre Gesellschaft / vraie société) trong đó cá nhân có được những bản sắc xã hội nhất định, phát triển các mối quan tâm đạo đức đến hạnh phúc của những người khác cũng như chia sẻ những mục đích tập thể. Chức năng sâu xa của việc phân công lao động không chỉ là để nâng cao năng suất mà còn mang lại lối sống nhất định, được BG thừa nhận. Khi thuộc về một “tầng lớp” hay “giai cấp” (Stand), cá nhân có được một lối sống nhất định, một phẩm giá được những người khác thừa nhận, và có thước đo khách quan cho giá trị của bản thân. Vì thế, Hegel đề nghị BG phải được tổ chức thành những “hiệp hội”, tạo ra “tinh thần hội đoàn”, “tinh thần liên đới”. Ðiều này không chỉ mang lại sự cố kết của tầng lớp mà còn hướng tới những mục tiêu chung, làm cho cá nhân là thành viên của một “xã hội phổ biến”. Bằng cách ấy, “lĩnh vực của BG chuyển hóa thành Nhà nước” (Sđd, §256).

    Hiểu như thế, lý luận của Hegel đã mặc nhiên chứa đựng các đặc điểm chủ yếu của Marx khi phân tích chủ nghĩa tư bản hiện đại. Hegel là người đầu tiên phân biệt “BG” (hay lĩnh vực “kinh tế” theo nghĩa rộng) với gia đình và Nhà nước. Marx cho rằng quan niệm này đã cung cấp chìa khóa cho chủ nghĩa duy vật lịch sử: cấu trúc và sự thay đổi của BG là yếu tố quyết định cho việc chuyển hóa lịch sử nói chung. Hegel đã đi trước Marx khi nhận ra rằng thị trường chỉ là vẻ ngoài của các cấu trúc xã hội sâu xa hơn mà các mục đích cơ bản của chúng là có tính tập thể hơn là cá nhân. Tất nhiên, Hegel xem cấu trúc bề sâu ấy là một cơ chế hài hoà giữa các giai cấp, trong khi Marx xem đó là miếng đất tranh chấp và bùng nổ của cuộc đấu tranh giai cấp. (Hegel cũng dùng quan niệm “giai cấp” để mô tả sự xung đột trong BG, chỉ khác với Marx ở chỗ: Hegel xem tầng lớp “dân đen” là không có năng lực hành động tập thể và hầu như bị loại khỏi “trật tự đạo đức”, ngược lại với quan niệm của Marx về “giai cấp vô sản”).[5]

    Ðiểm mấu chốt là: Hegel xem BG là miếng đất hiện thực để xây dựng nên “Nhà nước chính trị” hài hoà; ngược lại, Marx muốn cải biến BG để xóa bỏ xung đột giai cấp, bấy giờ sẽ thủ tiêu luôn Nhà nước, bởi Nhà nước chỉ là “thượng tầng kiến trúc”. Hegel và Marx đều xuất phát từ tiền – giả định về sự “trong suốt” trong nhận thức về xã hội. Với Hegel, sự tự do chủ quan (tính chủ thể tự giác) là điều kiện để đi tới sự trong suốt, nhưng điều này chỉ đạt được nơi “triết gia” khi hồi cố về sự phát triển lịch sử. Với Marx, “sự trong suốt” là ảo tưởng trong mọi giai đoạn lịch sử trước đây. Chỉ khi con người không còn phục tùng sự phân chia giai cấp, thì mới có sự tự do đích thực, nghĩa là khi đời sống chung trong BG trở thành “ý chí của những cá nhân hợp nhất”. Tự do ấy, một khi đạt được, sẽ bền vững: cách mạng vô sản sẽ không phải là sự kết thúc của lịch sử mà chỉ là sự cáo chung của thời “tiền sử” của con người”!

    Nói tới xã hội dân sự mà Marx coi là “hạ tầng cơ sở”, không thể không nói tới ý kiến của Antonio Gramsci.[6] Đối với nhà mac-xit Ý, Nhà nước (tư sản) không chỉ mạnh nhờ bộ máy trấn áp, mà còn nhờ sự bá quyền tư tưởng của nó, thông qua những định chế trong đời sống hàng ngày của xã hội dân sự (hội đoàn, giáo hội, trường học…), những định chế mà sau này, Bộ phận ấy, Gramsci xêp vào “thượng tầng kiến trúc”, Louis Althusser gọi là “bộ máy tư tưởng của Nhà nước” (appareils idéologiques d’Etat). Khái niệm này đáng chú ý, nhất là trong giai đoạn toàn cầu hoá với những phương tiện truyền thống toàn năng.

    Như thế, ta đứng trước hai mô hình (Hegel và Marx)! Các lý thuyết hiện đại về xã hội dân sự dường như đều là các cách phản ứng trước hai mô hình này. Nếu thấy cả hai mô hình đều có mặt không tưởng (hoang tưởng?!), nếu thấy BG ngày càng trở thành quyền lực kinh tế lũng đoạn (thể hiện cực đoan trong quan niệm của Hayek chẳng hạn…), còn viễn tượng “nhà nước tiêu vong” là xa vời, thì chỉ còn cách… tự vệ của người “công dân”! Trong vô số lý luận hiện nay về xã hội dân sự, tôi thấy đáng lưu ý là quan niệm của J. Habermas về cái gọi là “deliberative Demokratie / deliberative Politik” (nền dân chủ tham vấn?). Ðó là sự quyết định bằng thảo luận chứ không bằng mệnh lệnh. Khác với lý luận về định chế của khoa chính trị học, Habermas tập trung vào vai trò công luận của công dân. Bên cạnh hai nguồn lực cố hữu của xã hội là sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị, ông muốn xây dựng nguồn lực thứ ba: sự đoàn kết, liên đới, hình thành từ sự truyền thông của quần chúng. Chính chất lượng lập luận trong tiến trình này sẽ mang yếu tố “lý tính” vào trong tiến trình chính trị vốn chỉ dựa trên các sự thoả hiệp về lợi ích. Qua đó, hệ thống chính trị không còn là đỉnh cao và trung tâm của xã hội (kiểu Hegel) mà chỉ là một hệ thống hành vi truyền thông bên cạnh các hệ thống khác. Vị trí và tính chất của nền “dân chủ tham vấn” vừa khác với mô hình dân chủ pháp quyền – tự do (dựa trên những thỏa hiệp về lợi ích riêng) lẫn với mô hình cộng hòa nhân dân (dựa trên sức mạnh tự tổ chức của quần chúng được chính trị hoá). Nói cách khác, bên cạnh khu vực của thị trường và của nhà nước, Habermas chủ trương xây dựng khu vực của xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Zivilgesellschaft). Nghĩa là, khác với chủ nghĩa tự do xây dựng trên xã hội dân sự (Bürgerliche Gesellschaft / Civil Society), Habermas đề nghị xây dựng nền “dân chủ tham vấn” trên xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Citizen Society) [7]

    Phương Đông nhìn từ Iena

    Tại sao Hegel có thể cho rằng ở Trung Quốc, ở Phương Đông nói chung, không có “xã hội” hay “xã hội dân sự”?

    Trong hai tác phẩm kể tên ở đầu bài, nhà triết học ở Iena có một số câu đoạn nói về phương Đông, Trung Hoa và Ấn Độ, và nói một cách không mấy quan tâm tới “quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc”. Có những nhận định có thể nói là võ đoán, cường điệu, nhưng có những điều đáng làm ta suy nghĩ. Dưới đây, xin trích dẫn một vài đoạn.

    Trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I):

    “Con người [phương đông] sống trong sự khiếp sợ, hay nói cách khác, con người thống trị con người bằng sự khiếp sợ: cả hai đứng cùng ở một cấp độ. (…). Ông vua chuyên chế thực hiện những sáng kiến của mình, có khi cả điều tốt, nhưng không phải như là pháp luật mà như là sự tuỳ tiện của mình.”

    “Sự tự do ở phương Đông, Hy Lạp và thế giới Germain có thể xác định một cách sơ sài trong các sự trừu tượng hoá sau đây: ở phương Đông chỉ có một người duy nhất là tự do (ông vua chuyên chế) ; ở Hy Lạp, một số người là tự do, còn trong đời sống Germain, câu nói sau đây có hiệu lực: tất cả mọi người đều tự do, nghĩa là, con người là tự do với tư cách là con người. Nhưng, ở phương Đông, một con người duy nhất cũng không thể là tự do, vì muốn tự do thì những người khác cũng phải tự do, nên ở đó chỉ là sự ham muốn, sự tuỳ tiện, sự tự do hình thức, sự bình đẳng trừu tượng của Tự – ý thức (Tôi=Tôi)”…

    Trong Các bài giảng về triết học Lịch sử:

    “Người Trung Quốc xem mình là thuộc về gia đình và đồng thời như là những đứa con của Nhà nước. Trong bản thân gia đình, họ không phải là những “nhân vị” (Personen), bởi sự thống nhất bản thể ở đây là sự thống nhất của huyết thống và của tính tự nhiên. Trong Nhà nước, họ cũng không phải là những “nhân vị”, vì quan hệ thống trị ở đây là quan hệ gia trưởng, và chính quyền dựa trên việc thực thi sự chăm lo của vua đối với dân như của cha đối với con… để giữ mọi việc trong vòng trật tự”…

    “Nền tảng gia đình cũng là nền tảng của “hiến pháp”, nếu có thể dùng một từ như thế. Vì, tuy ông vua có quyền của một vị quân chủ đứng đầu toàn bộ nhà nước nhưng ông ta lại thực thi quyền của mình theo cách của một người cha đối với con cái của mình. Ông ta là gia trưởng (…) và đồng thời cũng là thủ lĩnh của tôn giáo và của khoa học. Vua là gia trưởng, còn thần dân là con cái không ra khỏi vòng luân lý gia đình, không tạo nên được sự tự do độc lập của người công dân, khiến toàn bộ nhà nước biến thành một vương quốc, một sự cai trị và lề thói chỉ có tính luân lý, nghĩa là, chỉ có tính giác tính (verständig / entendement) chứ không có lý tính tự do và sự tưởng tượng”.

    “Ở Trung Quốc, sự khác biệt giữa nô lệ và tự do tất nhiên là không lớn, bởi trước mặt hoàng đế, tất cả đều bình đẳng, nghĩa là, đều bị giáng cấp như nhau”.

    Trung Quốc, Việt Nam ngày nay

    Nếu còn sống, chắc Hegel sẽ không khỏi ngạc nhiên trước cảnh tượng Trung Quốc và Việt Nam ngày nay – ít nhất khi ông đọc những số liệu về tổ chức hội đoàn, một trong những chỉ dấu để đo sức sống của xã hội dân sự.

    Đó là những con số hoành tráng:

    * Tại Trung Quốc, theo ước tính chính thức thì năm 2005, có khoảng 300 000 tổ chức phi chính quyền (NGO), thêm vào đó là 120 000 tổ chức mà Hán ngữ gọi là “dân biện phi xí nghiệp đơn vị” (民办非企业), tức là những tổ chức không có quy chế hội đoàn đăng kí ở Bộ nội vụ mà là “đơn vị” đăng kí ở Bộ Công thương, hoạt động vô vị lợi… Bên cạnh số đó, có vô số hội đoàn “tự phát”, không có tư cách pháp nhân, không được thừa nhận. Theo một ước tính của các NGO, tổng số những hội đoàn đủ loại này có thể lên tới 3 triệu.[8]

    * Tại Việt Nam “đến nay, có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng hàng nghìn hội ở các cơ sở. Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẻo… Với sự đa dạng như thế, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam Nguyễn Xuân Hướng (đại biểu Hà Tĩnh) đã dí dỏm ví, dân gian có câu ‘đông như hội’” [9].

    Ấn tượng hơn nữa là những chỉ số về sự tham gia: “Ở Việt Nam, trung bình mỗi người là thành viên của 2,33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0,39) và Singapore (0,86). Theo khảo sát này, tỷ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73,5%, một tỉ lệ tương đối cao” [10].

    Tất nhiên, các con số không nói lên thực chất vấn đề. Nếu trong thập niên 1980, sau cuộc đại cải cách 1979 của ông Đặng Tiểu Bình, ở Trung Quốc đã nở rộ những tổ chức NGO, về kinh tế, xã hội, kể cả những viện nghiên cứu độc lập (dân biện nghiên cứu sở) – nổi tiếng nhất là trung tâm của Trần Tự Minh (Chen Zimin, nhà nghiên cứu triết học)[11] – thì sau sự kiện Thiên An Môn (1989), chính quyền ban hành Quy chế đăng kí và quản lí các đoàn thể xã hội (tháng 10.1989), rồi 10 năm sau: Quy chế tạm thời về đăng kí và quản lí các đơn vị nhân dân phi thương mại, theo đó các NGO phải đăng kí tại Bộ dân sự vụ và đặt dưới sự chủ quản của một cơ quan chính quyền hay tương đương. Cơ quan chủ quản này thường được gọi là “mẹ chồng”, “mẹ chồng” có quyền và nhiệm vụ coi chừng “con dâu”. Thực chất mà nói, đó không phải là những NGO mà là GONGO (Government Organized Non Governmental Organisations): những “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”. Theo quy định, mỗi NGO được phép hoạt động trong một lãnh vực nhất định và trong phạm vi một đơn vị hành chính nhất định, nó không được phép hoạt động ra khỏi khu vực địa lí đó, và trong phạm vị một đơn vị hành chính đó, không thể có hai NGO được phép hoạt động trong cùng một lãnh vực. Phí đăng kí cũng rất “lụa”: 30 000 nhân dân tệ. Nói như nhiều tác giả, “xã hội dân sự” ở Trung Quốc thực chất vẫn là “xã hội dân sự do Nhà nước lãnh đạo”.

    Có lẽ về cơ bản, giữa hai “xã hội dân sự” Trung Quốc và Việt Nam, cũng mặc nhiên có một mối quan hệ “16 chữ vàng”. Ở Việt Nam, bộ luật về hội đoàn vẫn chưa được thông qua. Dự án vẫn duy trì chế độ “mẹ chồng con dâu” mà ta gọi là “cơ quan chủ quản”.

    Đây là vấn đề cốt lõi, vì nó liên quan tới thực chất quan niệm về tổ chức xã hội dân sự: đó là những tổ chức tự lập của xã hội dân sự, của công dân, hay chỉ là tổ chức để chính quyền “nắm” từng bộ phận nhân dân, và nếu vậy, ở thời đại hiện nay, nó chỉ có thể là môt tổ chức có trên giấy tờ. Chỉ cần nêu ra hai thí dụ: những cuộc gặp gỡ xuân thu nhị kì giữa đại biểu Quốc hội với “đại diện” cử tri (ít nhất các đại biểu quốc hội cũng đã được bầu ra, còn các “đại diện” cử tri thì chỉ được ai đó chỉ định), và việc từ nhiều năm nay, chưa hề có một cuộc đình công nào do công đoàn khởi xướng hay chủ trương.

    Nhân đây, cũng xin mở dấu ngoặc, tuy không ra ngoài đề: Là một “Việt kiều”,[12] tôi không thể không bàng hoàng khi được đọc Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg của Thủ tướng về “VỀ VIỆC TIẾP TỤC TĂNG CƯỜNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CÔNG TÁC VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI” (ngày 08.06.2008). Văn bản này xác nhận một lần nữa các nhiệm vụ của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài từ nay là một tổng cục, trong đó có nhiệm vụ này: “d) Chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài tiến hành tổ chức, thành lập các hội đoàn người Việt Nam ở địa bàn có thể triển khai được, định hướng và phát triển các hoạt động của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài nhằm củng cố sự ổn định lâu dài tại chỗ, cùng nhau đoàn kết hướng về Tổ quốc. Danh sách ban chấp hành hội cần được Bộ Ngoại giao (Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ) thẩm định và ra quyết định chuẩn y trên cơ sở giới thiệu của các hội và cơ quan đại diện ngoại giao tại địa bàn”[13]

    Hegel vẫn có thể ngủ yên trên quan niệm của ông về “phương Đông”.

    Càng dễ ngủ yên vì ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, ba chữ NGO đã từng bị đồng hoá với âm mưu “diễn biến hoà bình”,đối trọng và/hay độc lập được ghép thành một chữ là đối lập, nhẹ nhất là “rách việc”… Cách đây chưa đầy 15 năm, cuốn Từ điển Xã hội học trong đó lần đầu tiên, thuật ngữ Xã hội dân sự được định nghĩa một cách hoàn chính, tác giả của nó, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, còn phải mượn tên của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.

    Hơn mười năm đã trôi qua, xã hội công dân, rồi xã hội dân sự xuất hiện trên báo chí, có bài còn nói lên tại sao có người sợ nó… Trên các cuốn sách, bìa 1 vẫn mang tên Nhà xuất bản, còn tên của “Công ti X” hay “Trung tâm Y” mà ai cũng biết mới thực là người xuất bản, mới chỉ ở bìa 4 – đôi lần nó leo lên bìa 1 nhưng đã bị huýt còi ngay. Tương tự, “ trên thực tế, hiện nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức xã hội dân sự như các hội, các ngành kinh tế, các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các lĩnh vực dịch vụ. Sự thực, một khuôn mặt xã hội dân sự kiểu mới ở nước ta đang hình thành, có thể coi đó là bước tiến của nền dân chủ, khác về bản chất với xã hội trước đổi mới. Tuy vậy, về mặt thể chế, phạm trù xã hội dân sự chưa được xác định trong văn bản, tức là chưa dám đặt viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự) tạo cơ sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế kinh tế chính trị nước ta.”[14] (viên gạch thứ ba: hai viên gạch đầu là kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền).

    Có thể tác giả hơi lạc quan. Nhưng không hẳn: ngày 23.07.08, ông Theodore Huang, chủ tịch Hội Công Thương Quốc Gia của Đài Loan kêu gọi chính quyền Việt Nam phải “xử lý” các cuộc đình công ngày càng gia tăng. Ông Hoàng nói: “Kinh tế không phải là vấn để lớn ở Việt Nam, vì tư bản nước ngoài sẽ tới (đầu tư). Khó khăn thực sự là làn sóng đình công” [15]. Ta đừng trách ông Hoàng coi nhẹ vấn đề lạm phát, đầu tư, pháp chế đầu tư… Ta cũng không cần biết ông ta hiểu chữ “xử lý” là như thế nào. Chắc ông không nghĩ tới phương pháp xử lý của Phác Chung Hy hay cha con họ Tưởng ở Nam Hàn và Đài Loan cách đây 20 năm. Chính quyền xử lí ra sao là chuyện của chính quyền. Chỉ biết đó trước hết là việc của công đoàn: Tổng công đoàn Việt Nam, nếu nó không muốn đóng mãi vài trò “công đoàn vàng”, hay một công đoàn độc lập sẽ phải ra đời, nếu không. Tác giả đoạn trích dẫn trên có thể hơi lạc quan, nhưng ông hoàn toàn có lý khi nhấn mạnh tới việc “dám” đặt viên gạch thứ ba cho xã hội dân sự / công dân. xã hội dân sự/CD là chân kiềng thứ ba của bộ ba Nhà nước Pháp quyền – Thị Trường – Xã hội dân sự/công dân của thời đại hôm nay.

    Trở lại con mèo Cheshire của cô bé Alice và nhà toán học lôgic Lewis Carroll. Nói đến xã hội dân sự ở Việt Nam hay ở Trung Quốc, đọc những bài viết về vấn đề này, kể cả bài này, nhiều khi chúng ta không biết người ta nói đến con mèo hay cái cười của nó. Hay nếu không muốn nói tới mèo, cũng có thể nói tới chuột. Con chuột chũi (taupe) nổi tiểng của Hegel, mù loà, nhưng cứ lầm lũi, âm thầm, dưới lòng đất, đào những địa đạo. Mèo hay chuột, đằng nào xã hội dân sự cũng vẫn “lừng lững”[16] tiến tới.

    Nguyễn Ngọc Giao

    (Paris)

    Chú thích:

    [1] Yves Chevrier: La question de la société civile, la Chine et le chat de Cheshire, trong Etudes chinoises, Vol.XIV, n°2, automne 1995.

    [2] Timothy Brook & B. Michael Frolic, Civil Society in China, Studies on Contemporary China, M. E. Sharpe, New York & London, 1997, p.3.

    [3] Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải Hiện tượng học Tinh thần, Nhà xuất bản Văn Học, 2006, 1640 trang.

    [4] Tôi xin dùng chữ “phóng khoáng” để gọi khái niệm “liberal” theo nghĩa chính trị – khác với khái niệm “liberal” về kinh tế. Chữ “tự do” hay “tự do chủ nghĩa” mà nhiều tác giả dùng (trong ngữ cảnh chính trị cũng như kinh tế) tôi nghĩ không phù hợp – nếu không nói là nó xúc phạm khái niệm “tự do”.

    [5] Về quan niệm của Marx, có thể đọc Lữ Phương: Xã hội công dân: từ triệt tiêu đến phục hồi, tham luận tại hội thảo VIETNAM UPDATE 94, Trường đại học Quốc gia Úc, Canberra, 11.1994, toàn văn bản tiếng Việt được đăng trên tạp chí Diễn Đàn, số 36, tháng 12.1994, đăng lại trên Trang Lữ Phương: http://www.viet-studies.info/LuPhuon...HoiCongDan.htm

    [6] A. Gramsci, Cahiers de prison, Gallimard, 1996.

    [7] Jurgen Habermas: Faktizität und Geltung (Droits et démocratie: entre faits et normes), 1992/1994. Tham khảo thêm: khái niệm “xã hội dân chính” (Civic Society) thí dụ trong bài của Tôn Thất Nguyễn Thiêm: “Tiếng nói công dân: Vốn xã hội nhìn từ tương quan giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân chính” in trong Sĩ phu thời nay, kỷ yếu mừng giáo sư Hoàng Tuỵ, Nxb Tri Thức & Công ti văn hoá Phương Nam, 2008.

    [8] Albert CHEN LICHUAN (Trần Lệ Xuyên), Relations entre Etat et société civile en Chine, Fondation Charles Léopold Meyer, 2006 (http://base.china-europa-forum.net/r...fiche_1171.pdf)

    [9] Báo Công an Nhân dân điện tử, 10.06.2006 (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2007/10/77833.cand)

    [10] Đặng Ngọc Dinh, “Tình hình và đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt Nam – Những mặt tích cực và các vấn đề cần hoàn thiện”, tr 129-130, trong XÃ HỘI DÂN SỰ Một số vấn đề chọn lọc, Vũ Duy Phú chủ biên, Viện những vấn đề phát triển, Nxb Tri Thức, 2008.

    [11] Jean-Philippe BÉJA, A la recherche d’une ombre chinoise / Le mouvement pour la démocratie en Chine (1919-2004). Ed. du Seuil, Paris 2004

    [12] Có thể xem thêm tham luận của tôi tại Hội thảo Đà Nẵng 2005 “Vấn đề Việt kiều” (http://hoithao.viet-studies.info/2005_NNGiao.pdf)

    [13] http://www.thuvienphapluat.com/Defau...C&LID=10490008

    [14] Trần Ngọc Hiên, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nước ta”, Tạp chí Cộng sản điện tử (http://www.tapchicongsan.org.vn/prin...ews_ID=8534515 )

    [15] Central News Agency: http://www.taiwannews.com.tw/etn/new...usiness_TAIWAN

    [16] chữ của nhà văn Nguyên Ngọc.

    Nguồn: Tạp chí Thời đại

Trả Lời Với Trích Dẫn
 Hơn hai chục năm trở về trước ít người dám nói đến cơ chế thị trường, đến khu vực kinh tế tư nhân: những điều cấm kỵ và đáng sợ. Số ít người dám nói và dám (liều) làm, thì bị loại bỏ, bị sa cơ lỡ vận. Rồi người ta hiểu dần, chấp nhận và ngày nay chúng không những không đáng sợ mà còn được coi trọng.

Những người tiên phong trở thành những anh hùng thật sự. Mươi năm trước ít ai dám nói đến xã hội dân sự: điều cấm kỵ và đáng sợ. Người viết về nó có thể bị cấm không được xuất cảnh. Nay xã hội dân sự không còn là điều cấm kỵ. Người ta đã bắt đầu viết và nói đến nó. Các nhà chức trách nhiều khi ủng hộ, có lúc e dè và đôi khi lo sợ. Rồi người ta sẽ hiểu, xã hội dân sự đâu có đáng sợ mà rất có ích và cần được coi trọng.

Thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung người ta đã muốn xoá bỏ thị trường, triệt tiêu khu vực kinh tế tư nhân bằng các cuộc cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp. Nhưng thị trường và kinh tế tư nhân chưa bao giờ bị triệt tiêu, ngay cả những lúc bị xua đuổi gay gắt nhất. Nó bị què quặt và khiến cho nền kinh tế héo hon, người dân khổ sở.

Vì sự tồn tại, vì sự sống còn của mình mà người dân phải xé rào, bất tuân các chính sách có thể phản ánh những ước mong rất tốt đẹp nhưng chưa hợp với bản chất cuộc sống. Cũng vì sự tồn tại của chính mình nhà cầm quyền chấp nhận sự xé rào đó, để cho cuộc sống kinh tế dần trở lại hoạt động theo quy luật tự nhiên của nó. Kinh tế tư nhân và thị trường dần dần hồi phục.Đời sống của người dân được cải thiện. Nhà nước ngày càng hiểu hơn và có chính sách ủng hộ khu vực tư nhân và kinh tế thị trường hơn.

Đó, đại thể, là quá trình đổi mới vừa qua của chúng ta. Đặc trưng cơ bản của nó là giải phóng tiềm năng kinh tế đã bị ức chế, kìm kẹp từ lâu trong mỗi người dân. Cái tiềm năng sẵn có và được giải phóng đó cũng chỉ có hạn và, theo tôi, nó đã được dùng hết. Muốn có các pha phát triển mới, bền vững cần phải xây dựng, nâng cao năng lực cho mọi người, mọi tổ chức trong xã hội (kể cả các tổ chức nhà nước), chứ không chỉ cốt ở giải phóng cái tiềm năng sẵn có. Đây là việc khó hơn việc "giải phóng" nêu trên rất nhiều.

Nó đòi hỏi trí tuệ, sự hiểu biết, việc học hỏi, giao tiếp, quản trị, lập kế hoạch, đổi mới thực sự. Chúng ta đã làm được không ít theo hướng này, nhưng so với yêu cầu thì vẫn chưa thấm vào đâu. Và trong quá trình này xã hội dân sự có vai trò to lớn.

Cũng như cơ chế thị trường và khu vực tư nhân, xã hội dân sự là một khái niệm được du nhập từ ngoài vào. Hãy để ý, hơn một nửa số từ mà chúng ta thường dùng hiện nay là các từ Hán-Việt. Số từ có gốc Pháp không hiếm. Lịch sử phát triển của Việt Nam luôn gắn với sự hội nhập về nhiều mặt như vậy. Vì thế, cũng chẳng nên quá ư thận trọng, e ngại những khái niệm mà nhân loại đã dùng từ lâu nhưng còn mới với chúng ta.

Cách khôn ngoan hơn là tìm hiểu, "thuần hoá", thích nghi, rồi lâu sau đó mới có thể sáng tạo gì thêm. Tuy là khái niệm cũ, nhưng ngày nay người ta vẫn chưa hoàn toàn thống nhất với nhau xã hội dân sự là gì. Và tôi nghĩ, cũng chẳng cần và chẳng thể có một định nghĩa chính xác, được mọi người công nhận về bất cứ khái niệm nào. Nếu thế thì sự phát triển sẽ chấm dứt.

Đại khái, xã hội dân sự là lĩnh vực của (các tổ chức) [các] hoạt động bên cạnh, bên ngoài (hoạt động của) Nhà nước, các gia đình và các tổ chức kinh tế. Có người nhìn xã hội dân sự từ khía cạnh các tổ chức không phải là tổ chức nhà nước, gia đình hay doanh nghiệp. Lại có người chú ý đến hoạt động, những công việc, các quá trình mà các nhóm người hay các tổ chức làm hoặc tiến hành.

Trong nhiều đặc trưng của các tổ chức nhà nước, thì đặc trưng quan trọng mang tính khu biệt là chúng được tổ chức theo kiểu dọc, từ trên xuống; chúng đòi hỏi sự tuân thủ; chúng có quyền lực ép buộc đối với mọi người và mọi tổ chức trong các vùng lãnh thổ mà nhà nước đó cai trị.

Đặc trưng quan trọng của các tổ chức kinh tế (kể cả hộ gia đình) là chúng tạo ra sự giàu có về vật chất; chúng đòi hỏi sự có đi có lại (trao đổi, chi trả); chúng hoạt động vì lợi nhuận.

Còn các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trên cơ sở những mối quan tâm chung; thường theo cách tự nguyện; thường không vì lợi nhuận; chúng tạo ra sự giàu có về tinh thần. Đấy là nhưng nét đặc trưng chính có thể dùng để phân biệt các loại tổ chức với nhau.

Lưu ý rằng tổ chức ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, chúng có thể có tư cách pháp nhân, nhưng cũng có thể không có. Thí dụ về một số tổ chức hay hoạt động tạo thành xã hội dân sự là: các nhóm công dân hoạt động theo những mối quan tâm chung (từ các nhóm tập luyện thể dục, các nhóm tình nguyện giúp đỡ nhau của người có HIV, các hội đồng hương, các tổ chức cộng đồng khác); các hội nghề nghiệp như các hội tin học, hội kiến trúc, hội nuôi ong, v.v...; các tổ chức phi chính phủ; các tổ chức tôn giáo; các tổ chức nghiên cứu; các tổ chức giáo dục và đào tạo; báo giới; v.v...

Ranh giới giữa các tổ chức (nhà nước, xã hội dân sự, khu vực kinh tế) không hoàn toàn rạch ròi, mà có thể có sự chồng lấn.

Trong một xã hội phát triển hài hoà, ba loại tổ chức này hoạt động nhịp nhàng với nhau, có sự tương tác với nhau, có các cơ chế văn minh để giải quyết những xung đột (đôi khi có thể rất gay gắt) giữa chúng (giữa các loại tổ chức khác nhau hay giữa các tổ chức cùng loại).

Nếu hiểu như vậy, thì xã hội dân sự luôn tồn tại. Trong thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung người ta không những muốn triệt tiêu thị trường, các tổ chức kinh tế tư nhân mà Nhà nước cũng thử làm thay hay kiểm soát những hoạt động thuộc xã hội dân sự. Xã hội không hài hòa, nhiều căng thẳng. Từ khoảng hai mươi năm lại đây không gian hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự được nới rộng và các tổ chức xã hội dân sự cũng đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển.

Có những cơ quan nhà nước làm việc tắc trách, có các doanh nghiệp gian lận. Cũng thế, có các tổ chức xã hội dân sự nói một đằng làm một nẻo. Phải có khung pháp lý để cho mọi loại tổ chức hoạt động, để buộc tất cả chúng phải minh bạch, phải có trách nhiệm giải trình với những người mà chúng (được cho là) đại diện, với những người cấp tài chính và với xã hội nói chung, để có cơ chế văn minh cho các tương tác, cho sự hợp tác và giải quyết xung đột giữa chúng.

Nếu làm được vậy thì sẽ góp phần đắc lực cho sự phát triển hài hoà, bền vững của đất nước. Và nhìn vấn đề như thế, thì xã hội dân sự đâu có đáng sợ mà là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Nguồn: TS Trần Quang A - Lao Động Cuối tuần

 TTCT - “Ở VN có một số người sợ rằng nếu thúc đẩy xã hội dân sự (XHDS) sẽ có sự đối lập với chính quyền. Sợ như thế là hơi quá, là không tin vào người dân. Chính vì vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu về XHDS”.

GS. TS ĐẶNG NGỌC DINH - viện trưởng Viện Những vấn đề phát triển (VIDS) - nói như vậy về khái niệm XHDS, một trong những khái niệm được xem là “nhạy cảm”, ít được khuyến khích bàn luận cởi mở tại VN.

* Thưa ông, phải hiểu khái niệm XHDS như thế nào?

- Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy XHDS đã tồn tại ở VN từ rất lâu. Nói nôm na, đó là các tổ chức xã hội nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài các hoạt động của doanh nghiệp (thị trường), nằm ngoài gia đình, để liên kết người dân với nhau trong những hoạt động vì một mục đích chung.

Bắt đầu từ năm 2005, với sự giúp đỡ của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công dân (CIVICUS), Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV), lần đầu tiên tại VN, vấn đề xã hội dân sự đã được VIDS tiến hành nghiên cứu và vừa báo cáo đánh giá ban đầu.

Như vậy, thành phần quan trọng của XHDS là các hội, hiệp hội trong dân chúng, trong làng xóm, mang tính chất liên kết cộng đồng.

Theo quan niệm đó thì ở VN Mặt trận Tổ quốc là tổ chức XHDS lớn nhất, bao gồm các đoàn thể (công đoàn, phụ nữ, thanh niên, nông dân...), hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ... Mặt khác có thể coi XHDS là diễn đàn, là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. XHDS hỗ trợ người dân thực thi luật pháp, đồng thời phản ánh nguyện vọng người dân. Nếu thể chế nhà nước hoạt động dựa vào luật, thể chế thị trường hoạt động dựa vào lợi nhuận thì XHDS vẫn tuân theo pháp luật, tuân theo thị trường, nhưng thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác tính nhân văn, tính cộng đồng.

* Hiện nay, XHDS tại VN hoạt động như thế nào?

- Chúng tôi đánh giá các chỉ số XHDS dưới dạng một hình thoi với bốn đỉnh phản ánh gồm: cấu trúc XHDS, môi trường để XHDS hoạt động, các giá trị trong XHDS và tác động của XHDS tới xã hội chung.

Theo kết quả nhận dạng ban đầu, XHDS tại VN có cấu trúc rất rộng nhưng không sâu, tức là người dân thường là thành viên một tổ chức nào đó (phụ nữ, thanh niên, hội nghề nghiệp...) của XHDS nhưng tính tự nguyện còn thấp. Trong khi đó, môi trường để XHDS hoạt động đã được thúc đẩy trên văn bản, nhưng trên thực tế yếu tố khích lệ phát huy sự tham gia của XHDS trong công cuộc phát triển còn yếu. Điều này khiến tác động của XHDS đến xã hội còn yếu tuy các giá trị XHDS được đánh giá là ở mức độ tương đối cao. Đánh giá bốn lĩnh vực trên ở VN, các chuyên gia cho điểm chung ở mức trung bình thấp.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng không có nước nào đạt điểm tối đa cho bốn lĩnh vực nói trên. Một nước mạnh thể chế pháp lý, công nghiệp hóa, chưa chắc đã mạnh về XHDS. Trong số 50 quốc gia được khảo sát, XHDS ở VN nằm ở loại trung bình. Những nước có XHDS phát triển mạnh là những nước Bắc Âu như Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan. Đây là những quốc gia phát triển bền vững tốt, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề về xã hội, bảo vệ môi trường và sự tham gia tích cực của người dân trong công cuộc phát triển quốc gia.

Điểm giống nhau cơ bản của XHDS ở VN so với các nước là đều gồm các tổ chức liên kết trong dân. Điểm khác nhau là các tổ chức liên kết trong dân ở VN do truyền thống nhiều năm chống ngoại xâm nên mang màu sắc đoàn thể cách mạng, được hỗ trợ một cách đặc biệt từ phía chính quyền nên nếu những chính sách của chính quyền có sai sót (điển hình là căn bệnh tham nhũng) thì các tổ chức XHDS rất khó nói. Ngoài ra, người dân chưa quen với việc đòi hỏi chính quyền phải giải trình.

* Vì sao lâu nay XHDS được coi là vấn đề nhạy cảm, không được bàn ở VN?

- Lý do là tại một số nước có hiện tượng khai thác mặt đối lập với chính quyền của XHDS để tạo ra những xu thế mất ổn định. Từ đây có người cho rằng nếu nghiên cứu, phổ biến XHDS tại VN thì sẽ tiến tới khai thác mặt đối lập với chính quyền. Nên hiểu rằng XHDS có nhiều mặt và chúng ta cần nghiên cứu xem mặt tiêu cực, tích cực của nó là gì. Ngay cả người dân cũng hiểu biết rất ít về XHDS. Chính vì vậy càng phải nghiên cứu, hiểu rõ vai trò, tác động của XHDS, trước hết là cộng đồng nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý.

* Có ý kiến cho rằng VN không có XHDS và điểm đánh giá cho bốn lĩnh vực của XHDS là thấp, thấp nhất là sự tác động của XHDS vào xã hội nói chung?

- Đúng là tác động của XHDS vào xã hội còn thấp. Đối với việc tác động của XHDS vào qui trình dự toán ngân sách quốc gia nhóm nghiên cứu chỉ chấm 0,1 điểm. Điều đó chứng tỏ hoạt động của XHDS ở VN còn rất hạn chế và không có ảnh hưởng rõ rệt nào. Người dân (các tổ chức của dân) rất ít được tham gia các quá trình ra quyết định, như lập ngân sách, vay ODA... Hoặc trong chỉ số XHDS tác động tới việc giải trình của Chính phủ, điểm số đạt được chỉ là 0,6. Trên thực tế, hầu hết các công trình xây dựng qui mô lớn (hàng nghìn dân phải di dời, thay đổi lớn về xã hội, văn hóa), các tổ chức XHDS cũng chưa phát huy được sự tham gia của mình.

Một lý do khác để một số người còn cho rằng VN chưa có XHDS (đích thực) là các tổ chức đoàn thể, nhất là ở cấp trung ương còn gắn nhiều với Nhà nước, chưa mang tính độc lập trong khía cạnh phản ánh nguyện vọng của người dân. Ví dụ trong Quốc hội, đại biểu Quốc hội lẽ ra phải là đại biểu dân cử (mang nhiều tính chất của XHDS) nhưng lại là bộ trưởng, lại là chủ tịch tỉnh (tính chất Nhà nước). Tất nhiên VN đang trong thời kỳ chuyển đổi, các tổ chức đoàn thể (các tổ chức XHDS) xuất phát từ thời kỳ cách mạng nên có nhiều sự ràng buộc với chính quyền. Còn tác động của XHDS tới xã hội là có.

Như thế, có thể khẳng định ở VN đã tồn tại XHDS. Ở VN có những khẩu hiệu thể hiện chủ trương khích lệ sự tham gia của XHDS, như “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra” hay như nghị định về dân chủ cơ sở.

* XHDS chưa tác động mạnh vào xã hội, cụ thể là không buộc Chính phủ phải giải trình được nên tệ nạn tham nhũng có cơ hội hoành hành?

- Không thể phủ nhận vai trò của XHDS trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Nếu XHDS được trao quyền tốt hơn, được thúc đẩy tốt hơn thì sẽ đóng góp vào việc giảm tham nhũng. Do đó, phải làm sao để XHDS có quyền được tìm hiểu, được đòi hỏi chính quyền phải giải trình. Nếu Quốc hội hoạt động mạnh, các tổ chức quần chúng hoạt động mạnh sẽ tác động lên hội đồng nhân dân các cấp, và đó chính là áp lực để Chính phủ phải giải trình trong những trường hợp quan chức chính quyền bị nghi ngờ có tham nhũng.

* Chính vì luôn lo sợ XHDS đòi hỏi quyền lợi nên có những người không muốn XHDS tồn tại ở VN?

- Đúng là có cách suy nghĩ đó nhưng là vì hiểu nhầm, hiểu phiến diện thôi. Họ cho rằng hoạt động của XHDS là “rách việc”, là chống đối. Họ sợ rằng khi có XHDS thì chính quyền sẽ bị phản đối khi muốn quyết định một vấn đề nào đó. Tức là họ nghĩ XHDS sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng giảm đi, XHDS không muốn chấp hành luật lệ. Nhưng đó chỉ là suy nghĩ thiểu số. Tất nhiên, những kẻ tham nhũng rất sợ XHDS. Thực chất vai trò cuối cùng của XHDS, cũng như của bất cứ chính quyền vì dân vì nước nào, là phát triển đất nước bền vững. Tiếng nói của một người dân có thể sai nhưng số đông người dân lên tiếng thì chính quyền cần lắng nghe và hiệu chỉnh.

* Nhưng rõ ràng thời gian qua chúng ta chủ ý không tạo môi trường cho XHDS phát triển?

- Việc chúng ta ít tạo môi trường cho XHDS phát triển có nhiều lý do, có thể do nguồn gốc lịch sử, chính quyền cho rằng với các đoàn thể hiện nay là đủ rồi. Rồi chính quyền làm luôn đại biểu của nhân dân. Điển hình cho việc ít tạo môi trường cho XHDS phát triển là việc chín năm rồi chúng ta chưa ra được luật về hội. Bây giờ vẫn còn đang tranh luận xem quyền lập hội đến đâu, có phụ thuộc vào bộ chủ quản hay không... Tóm lại, tôi cho rằng không nên cực đoan hiểu XHDS là đối lập với chính quyền, hoặc chính quyền có thể bao trùm hết mọi việc của người dân cho nên không cần XHDS. Có thể nói XHDS và chính quyền là bổ sung cho nhau.

* Thưa ông, khi triển khai nghiên cứu vấn đề này, VIDS có gặp phải sự phản đối nào không?

- Năm 2002 CIVICUS vào VN phối hợp cùng UNDP tìm đối tác nghiên cứu về XHDS nhưng sau gần hai năm vẫn không có đơn vị nào nhận, bởi lúc đó khái niệm XHDS được xem là nhạy cảm. Sau đó VIDS thành lập và chúng tôi thấy cần phải nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc, khách quan, không định kiến và không bị lợi dụng.

Đến nay, chúng tôi khuyến nghị cần tiếp tục nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới XHDS tại VN một cách đầy đủ, sâu sắc hơn để khai thác các mặt tích cực. Chúng tôi cũng khuyến nghị cần có cơ chế thúc đẩy XHDS để đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Quá trình nghiên cứu cho thấy kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, XHDS ở VN đã trải qua những biến đổi cơ bản và dần dần gia tăng về sức mạnh và tổ chức từ nửa đầu thập niên 1990. Các tổ chức quần chúng đã mở rộng hoạt động, đặc biệt là ở vùng nông thôn.

Các tổ chức mới đã xuất hiện dưới hình thức phi chính phủ và nhóm cộng đồng. Có nhiều ý tưởng mới đã được áp dụng, đặc biệt là thông qua các tổ chức phi chính phủ VN và tinh thần tự thân vận động đã được mở rộng thông qua các tổ chức cộng đồng.

Một trong những phẩm chất của các tổ chức XHDS là khả năng thực hiện các chính sách xã hội của họ đối với người nghèo và nhóm người kém vị thế trong khi các chương trình của Chính phủ không thể nào kham nổi. Sức mạnh của các tổ chức XHDS là tính chuyên môn hóa và đưa ra được những ý tưởng và phương thức mới mẻ.

Tuy nhiên, cho dù XHDS đang đóng vai trò tích cực và sáng tạo hơn nhưng những tác động còn tương đối hạn chế. Nói chung, có những xu thế hạn chế trong các chức năng giám sát của các tổ chức XHDS.

KHIẾT HƯNG thực hiện - Nguồn : tuoitre.vn


0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code