Danh ngôn về Bất công
Mong muốn của số đông thường gây ra những điều bất công và bất nhân cho thiểu số, đó là điều được thể hiện trên từng trang lịch sử khắp thế giới. That the desires of the majority of the people are often for injustice and inhumanity against the minority, is demonstrated by every page of the history of the whole world. John Adams

Danh ngôn về Công lý
Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá. Justice is rather the activity of truth, than a virtue in itself. Truth tells us what is due to others, and justice renders that due. Injustice is acting a lie. Horace Walpole

Danh ngôn Tự do
Người không yêu tự do và chân lý, có thể trở thành người mạnh mẽ nhất, nhưng tuyệt đối không thể trở thành người vĩ đại. Voltaire (Pháp)

Saturday, August 31, 2013
NHÌN NHẬN QUY ĐỊNH PHÁP NHÂN TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 DƯỚI CÁI NHÌN KHOA HỌC VÀ HỘI NHẬP
Friday, August 23, 2013
Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay
Wednesday, August 21, 2013
Kinh nghiệm tự học
![]() “Ai muốn trở thành một người lao động thành thạo, người ấy phải tập đọc sách có hệ thống, rèn luyện bản thân một cách có hệ thống” Tự học chủ yếu là tự đọc tài liệu để thu thập kiến thức. Ai biết chữ cũng tưởng là mình biết đọc. Thật ra không ít người biết chữ nhưng không biết đọc nói rõ hơn, không biết cách đọc. Đối với các tài liệu khoa học lại càng phải biết cách đọc. Nếu không, ta sẽ bị ngập vào trong một cái rừng ý niệm, quan niệm ngày càng nhiều và ngày càng đổi mới, không một bộ óc bách khoa nào có thể chứa nổi. Có văn hào đã nói: Đọc sách có ba cách, một là đọc và không hiểu, hai là đọc và chỉ hiểu những điều nói trong sách, và ba là đọc và còn hiểu cả những điều không viết trong sách nữa. Cách đọc sách thứ ba là cách nên tập luyện vì làm cho người đọc mở rộng được kiến thức và bồi dưỡng được trí tuệ. Muốn thế, trước hết phải biết cách đọc có hệ thống. Đọc có hệ thống là đọc các tác phẩm cổ điển liên can tới vấn đề nghiên cứu. Theo Lênin, đọc và nghiên cứu các tác phẩm cổ điển không chỉ đem lại cho ta kiến thức. Được viết trong hoàn cảnh nhất định với một nhiệt tình to lớn, các tác phẩm đó sẽ làm lan sang người đọc nhiệt tình này và gợi cho ta lòng ham muốn tìm hiểu. thiếu nhiệt tình và long ham muốn tìm hiểu không thể có sáng tạo. Muốn hiểu thầu đáo học thuyết Đácuyn, không chỉ bằng lòng với nội dung học thuyết trình bầy trong sách giáo khoa , mà phải tìm đọc sách “Nguồn gốc các loài”, cũng như muốn tìm hiểu học thuyết Lamác phải đọc thêm cuốn “Triết học động vật”. Chính qua những tác phẩm đó mới có thể biết được phương pháp đặt vấn đề, giải quyết vấn đề của tác giả, quá trình sưu tầm tư liệu, suy nghĩ trên tư liệu, tinh thần vượt mọi khó khăn trên con đường khoa học của họ. Tương tự như thế, ta không thể hiểu nổi thực chất của chủ nghĩa Mác nếu không đọc “Tư bản” và những tài liệu gốc liên can tới tác giả. Đọc có hệ thống còn là đọc theo lịch sử phát triển của vấn đề. Bất cứ vấn đề nào cũng có nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển trong đó nó liên quan đến nhiều vấn đề khác và bản thân nó cũng qua một quá trình đấu tranh phức tạp của mâu thuẫn nội tại, để đi đến hình thái ta thấy ngày nay. Ta không thể chỉ bằng lòng với cách học thuộc các công thức, quy luật, nguyên lý nêu trong tài liệu, mà phải tìm hiểu thêm về nguôn gốc của những điều này, hiểu con đường mà loài người đã trải qua để đi tới những tri thức đó. Ta hiểu thêm là tất cả văn hóa của loài người, tất cả tri thức hiện nay là một đáp số đạt được qua nhiều khó khăn của những vấn đề liên quan tới đời sống vật chất và tinh thần của con người. Muốn nắm chắc tiến hoá luận, hiểu biết được học thuyết tổng hợp về tiến hoá hiện nay, phải tìm hiểu theo thư tự, cố định luận của Cuviê, biến hình luận của Lamác, đột biến luận của Đơvriét và tiến hoá luận của Đácuyn. Khi đọc dồn nhiều tờ báo một lúc, tốt nhất là không phải tìm tờ mới nhất để đọc mà đọc từ tờ cũ nhất, rồi lần lượt đọc các tờ khác theo thứ tự thời gian. Như vậy, đối với mọi việc nêu trong báo, ta đều có thể theo dõi được sự tiến triển của nó. Đọc có hệ thống còn la xem xét mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong mối tương quan với xung quanh nó, xem xét các khía cạnh của sự vật cũng như các mặt của hiện tượng. Theo Lênin, muốn hiểu thấu đáo một vấn đề phải nghiên cứu nó thật nhiều lần bàn luận thanh cãi về nó xem xét nó trên nhiều mặt. Muốn hiểu biết kỹ càng về một loại cây nào đó, tất nhiên phải có kiến thức về hình thái học, phân loại học, sinh học và sinh thái học… của cây, không những của cây vùng này mà còn của vùng khác, không những cây ở thàng này, năm này, mà còn ở tháng khác, năm khác. Tóm lại, ta phải biết cấu trúc và chức năng của cây trong không gian và thời gian. Học có hệ thống còn là kho học một nghành khoa học phải biết cả các ngành có liên quan. Không thể học nguyên sinh học mà thiếu khái niệm cơ bản về toán học, vật lý học và hoa học. Không thể giỏi về sinh hóc học, nếu không có kiến thức về hoá học, sinh học và vật lý học. Trong tình hình của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện nay, nhiều ngành khoa học thành hình có tính chất liên ngành như sinh thái học liên kết kiến thức về động vật, thực vật, thổ nhưỡng, khí tượng… Và có cả những lĩnh vực đa ngành như kế hoạch hoá và quy hoạch lãnh thổ đòi hỏi sự tham gia của sinh học, địa học, kinh tế học, nông học, dân số học… Yêu cầu đăt ra từ nay về sau cho người khoa học là giỏi một ngành và biết nhiều ngành có liên quan. Khoa học là đối lập với sự chuyên môn hoá hẹp. Một trí tuệ được tranh bi cho phát minh khoa học phải có tối đa các kiến thức trong nhiều lĩnh vực, cả những kiến thức xa với đối tượng ta quan tâm. Các nhà phát minh lớn đều có vồn kiến thức này. Paxtơ không thể hoàn thành bao nhiêu công trình lớn về vi trùng học nếu ông chỉ có vồn kiến thức như nhiều nhà sinh học chuyên môn hẹp hiện nay. Học có hệ thống là học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải gắn liền với thực tập. Trong mọi qua trình đào tạo, phải bảo đảm cho sự cân đối nêu trên. Nếu coi trọng lý thuyết hơn thực tập, kiến thức sẽ không vững chắc và không thể triển khai, coi nhẹ lý thuyết, kiến thức sẽ nông cạn và không cơ bản. Không phải không co lý do mà sinh viên hoá học phải thực tập ở các xí nghiệp hoá chất,… Biết cách học còn là học có kế hoạch. Học có kế hoạch trước hết là chia giáo trình thành phần, quy định thời gian dành cho mỗi phần và tìm mọi cách để thanh toán từng phần theo thời gian đã định. Sau phần đầu phải rut kinh nghiệm để, nếu cần, điều chỉnh thời gian dành cho các phần sau thích hợp hơn. Học có kế hoạch còn là nhằm từng vấn đề trong thời kỳ nhất định rồi đặt kế hoạch đọc sách vở, tài liệu liên can tời vấn đề đó. Khi chọn vấn đề cũng phải theo đúng trình tự lôgíc của nhận thức, nhằm những vấn đề dễ trước và vấn đề khó sau. Khi đọc tài liệu cũng phải đọc từ nông tới sâu, từ khái quát đến chi tiết. Tìm hiểu về tế bào, ta phải chuẩn bị các tư liệu về hình thái, cấu trúc tế bào, sinh học, sinh lý học tế bào, bệnh lý học tế bào… Muốn hiểu về cấu trúc tế bào, ta phải biết cấu trúc hiển vi của nó qua kính hiển vi quang học, rồi mới tới cấu trúc siêu hiển vi qua kính hiển vi điện tử. Muốn hiểu sinh học tế bào, ta phải có một số kiến thức về sinh hoá các chất gluxit, lipit, prôtít,… Biết cách học còn là biết lưu ý tới thứ tự ưu tiên của kiến thức. Kiến thức hiện nay nhiều vô kể, chỉ riêng trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, cứ sau khoảng năm năm, lại có đổi mới một nửa số liến thức của con người. Kiến thức trong sản xuất, đời sống ngày càng tăng với trình độ công nghiệp và nông nghiệp ngày càng hiện đại, với hình thức sinh hoạt ngày càng phong phú của một xã hội văn minh. Trong khi đó, bộ nhớ của não người lai có hạn. Vì vậy, các kiến thức cần thiết nhất cho mỗi người phải là kiến thức liên can tới nghiệp vụ hiện hành. Thí dụ, là nhà di truyền học, anh phải chú ý trước hết tới các kiến thức mới trong ngành di truyền trên thế giới và ở nước ta. Sau đó, nếu có điều kiện, sẽ mở rộng hiểu biết tới các lĩnh vực khác, trước hết, gần ngành rồi sau đó xa ngành. Khối lượng kiến thức của con người có thể coi như một số vòng tròn đồng tâm, vòng giữa là kiến thức về nghiệp vụ. Số vòng nhiều hay ít và bán kính các vòng lớn hay nhỏ tuỳ hoàn cảnh từng người. Điểm trung tâm của vòng kiến thức phải là phương pháp luận (phương pháp tư duy, phương pháp công tác, phương pháp nghiên cứu…). Lúc này hơn bao giờ hết, phương pháp có vai trò quyết định trong kết quả công tác của từng người. Trong tình hình kiến thức các loại ngày càng tăng theo cấp số nhân, nếu không co phương pháp, không thể xử lý đúng đắn vốn kiến thức đã có, ứng dụng chúng trong thực tế. Trước đây, người ta đã nói: Tư tưởng quyết định hết thảy. Nay ta có thể nói: phương pháp quyết định hết thảy. Với số vốn kiến thức nhất định, phương pháp đúng sẽ dẫn tới thành công. Khối lượng kiến thức tuy nhiều nếu thiếu phương, cũng thành vô dụng. Một hôm. Anxtanh gặp một người bạn phàn nàn chưa tìm được người giúp việc như ý muốn vì chưa đạt yêu cấu đề ra. Ông hỏi yêu cầu gì, thì được trả lời: Chỉ cần giả đáp một số câu hỏi như Nữu ước cách Sicagô bao nhiêu Kilômét? Thép không gỉ làm bằng chất gì? Anxtanh phản đối ngay: chỉ có kẻ điên rồ mới vùi đầu học thuộc tất cả những thứ này. Theo ông, chỉ cần người giúp việc làm việc có phương pháp, thế là họ sẽ vượt mọi khó khăn trên con đường khoa học. Hiện nay, không ít người chưa có đầy đủ kiến thức về phương pháp, vì vậy công việc thường không kết quả. Người nào đã thành công trong một số việc là do anh ta đã áp dụng phương pháp luận một cách không tứ giác, tức rút kinh nghiệm dần trong hoạt động. Nhưng kinh nghiệm không phải vạn năng như nguyên lý, quy luật. Chúng có thể đúng trong trường hợp này và sai trong trường hợp tương tự. Trong thiên nhiên, không có hai hiện tượng nào lại giống in nhau. Phải chăng nên có bài học về phương pháp luận đại cương ở các trường phổ thông và phương pháp luận chuyên ngành ở các trường đại học? Biết cách học còn là thường xuyên ôn tập và hạch toán kiến thức. Khi đọc các tài liệu kinh điển hay nghiên cứu các vấn đề tương đối phức tạp, Lênin chịu khó đọc đi đọc lại tài liệu nhiều lần. Theo ông, chớ có mong rằng chỉ qua một lần nói chuyện ngắn là có thể hiểu rõ một vấn đề, phải ghi các chỗ chưa hiểu, chưa rõ, ngẫm nghĩ nhiều lần, sau đó lại tiếp tục tìm hiểu thêm trong các bài giảng hay qua mạn đàm. Kiến thức để lại những hình ảnh trong não bộ gây những biến đổi hoá học của tế bào thần kinh. Những biến đổi này không phải biến mất. Vì lẽ đó, muốn duy trì kiến thức phải thường xuyên ôn tập. Nếu không, với thời gian, hình ảnh kiến thức sẽ phai mờ dần và kiến thức sẽ rơi rụng dần rồi cuối cùng mất hẳn. Điều này lai càng rõ với những kiến thức không liên can trực tiếp tới đời sống hàng ngày. Ôn tập giúp cho việc cố định ký ức. Càng hay kể chuyện cho người khác nghe, càng dễ nhớ câu chuyện. Nếu hai lần kể cách xa nhau vài giờ hoặc 24 giờ thì càng tốt, vì ký ức có thời gian “chín mùi”. Học bài buổi tối chưa thuộc, để tới sáng học lại, sẽ thuộc chóng hơn. Chúng ta cũng nên tập thói quen hạch toán kiến thức không chỉ hằng năm mà bằng tháng, thậm chí hằng ngày. Sau một ngày, một ngày, một tuần, ta tự hỏi xem đã có thêm được kiến thức gì mới lạ. Điều này sẽ giúp ta đánh giá được sự tiến bộ của trí tuệ. Sự tích luỹ kiến thức sẽ làm nảy sinh vấn đề mới đòi hỏi phải suy nghĩ về giải pháp. Trong quá trình giải quyết vấn đề nay, rễ nảy sinh vấn đề khác. Cứ như thế, các kiến thức sẽ nhân lên. Quá trình tích luỹ kiến thức tới mức nào sẽ làm nảy sinh những ý niệm mới, đốm lửa của những sáng tác phát minh. Không ai có thể sáng tạo với bộ óc trống rỗng. Biết cách học còn là biết tranh luận. Hàng ngàn năm bị ý thức hệ phong kiến chi phối, mỗi chúng ta không ít nhiều, đều mang nặng đầu óc giáo lý, quá mê tín sách vở. Ta dễ dàng chấp nhận những sự kiện trong sách, và quá tin vào những ý niệm có sẵn trong đầu. Trước một hiện tượng mới lạ, ta cố tìm trong ký ức hay trong sách vở một giải pháp có sẵn và khi thấy giải thích không kết quả thì lại nghi ngờ về thực chất của hiện tượng. Hiểu rằng điểm của mình không phải là duy nhất đúng là điều rât khó đối với đầu óc giáo lý. Họ không chấp nhận sự thảo luận và thích áp đặt ý kiến của mình cho người tranh luận và thích áp đặt ý kiến của mình cho người tranh luận. Muốn sửa chữa đầu óc giáo lý, phải tập tranh luận về sự kiện có trong sách, tranh luận về ý niệm của người khác, từ đó rèn luyện một khả năng khác quý hơn, tức là tranh luận với bản thân. Biết tranh luận với chính mình là dấu hiệu của một trình độ trí tuệ cao. Chân lý tuyệt đối rất tráo trở, có thể phản lại ta. Vì vậy phải học cách xử lý các ý niệm tuyệt đối lúc còn ở nhà trường. Nếu không, sớm hay muộn, ta sẽ phải đương đầu với một tình hình mà một sự kiện hiển nhiên nhất lại mâu thuẫn với công thức đã học và phủ định nó. 2 cộng với 2 là 4. Đấy là một chân lý tuyệt đối. Đúng , nếu ta cộng 2 cái que hay hai trái cây…Còn nếu ta cộng 2 giọt nước thì sao, thành một giọt hay nhiều giọt? Nhà vật lý học khi làm thí nghiệm, gặp một hiện tượng bất ngờ chưa gặp bao giờ, không phù hợp với tính toán có sẵn. Anh ta phải nghiên cứu thêm hiện tượng này để điều chỉnh lai tính toán, chứ không được coi công thức như một chân lý khoa học, sẵn sàng bỏ qua hiện tượng bất ngờ, không phù hợp với công thức. Anh phải phân tích mâu thuẫn giữa hiện tượng và công thức và cho rằng sai lầm là ở công thức vì công thức không ứng dụng cho trường hợp này. Nếu không quen biện luận với bản thân, thì thường quá câu nệ vào công thức trừu tượng và luôn luôn mâu thuẫn với thực tế. Lúc đó, ta sẽ phân vân giữa chân lý thực một cách trừu tượng và tính phong phú cụ thể của đời sống và không thấy đường đi. Hoặc ta sẽ phàn nàn về thực tế sinh động phát triển mâu thuẫn với giáo lý đã học và nhắm mắt làm ngơ các sự việc không phù hợp với sơ đồ có sẵn trong óc. Mỗi chúng ta phải học cách sử dụng các kiến thức để xét đoán các mâu thuẫn trong thực tế. Hãy làm quen việc nắm thực tế khái quát trong quá trình phát sinh của nó để điều chỉnh hay bổ sung vốn kiến thức của mình vì lẽ, theo lơi văn hào Gớt, “mọi lý thuyết đều một màu xám còn cây đời mãi mãi xanh tười”. Hiện nay, thiếu sót trong phương pháp tự học của người thanh niên thể hiện ở nhiều mặt. Học thiều hệ thống, chỉ căn cứ vào độc một cuốn sách giáo khoa không tham khảo tài liệu có liên quan. Chọn bài ma học để đối phó với thi cử. Học thuộc lòng không suy nghĩ, không đặt lại vấn đề. Tất cả cách tự học không khoa học trên đây, dẫn tới hậu quả là kiến thức không vững bền, không còn lại ở người học bao nhiêu sau khi ra trường, và điều quan trọng là không rèn cho người học đầu óc suy luận, một bộ phận quan trọng của trí tuệ. Trong các dạng thông tin, đọc có tốc độ tương đối nhanh khoảng 250 từ một phút, chỉ kém có suy nghĩ với tốc độ 500 từ một phút. Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện giờ, tốc độ 250 từ của một người có trình độ học vấn trung bình không còn hợp thời nữa. Cần tập luyện làm sao để nâng cao tốc độ lên gấp đôi, gấp ba mới bảo đảm được việc theo dõi thời sự trong nghiệp vụ của mình. Hiện nay, ở nước Cộng hoà Dân chủ Đức đã thành lập một học viện huấn luyện tốc độ đọc cho con người. Sau sáu tuần, học viện có thể đạt tốc độ ít nhất 500 từ một phút. Có nhà giáo dục học đã giới thiệu một phương pháp rèn luyện cách đọc sách để nắm vững được ý niệm và cả lời văn, nếu ta muốn, của tác phẩm. Đọc một chương ngắn trước; đọc chậm chạp, vưa đọc vừa hình dung những ý niệm trong sách thành hình ảnh, chưa chú ý tới lời văn. Khi đã đọc hết chương, hãy thử giải thích cho một người nghe tưởng tượng để làm cho người đó hiểu. Tiến hàng việc này trong khoảng 15 phút. Nếu muốn rèn luyện cả câu văn, đọc lại chương đó, lần này chú ý tời lời văn. Xong rồi, gấp sách lại và theo dõi cái hình ảnh gợi ra trong óc, viết lại nội dung chương đó, sửa chữa các lỗi chính tả và văn phạm. Hãy lắp lại khoảng 10 lần tới lúc ta viết được giống như tác giả.
Theo GS.Đào Minh Tiến, Sách: "Khoa học hóa cách suy nghĩ, làm việc , học tập"
|
Tuesday, August 20, 2013
Thuyết "nhu cầu" của Maslow
![]() |
Abraham Maslow |
Abraham Maslow
1.1. Tiểu sử tác giả
Abraham Maslow sinh ngày 1-4-1908, mất năm 8-5-1970. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người đáng chú ý nhất với sự đề xuất về Tháp nhu cầu và ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm lý học.
Maslow sinh ra ở Brookly - New York, là con cả trong một gia đình người Do Thái có 7 anh em, nhập cư từ Nga. Bố mẹ ông không được ăn học đến nơi đến chốn nhưng họ quyết tâm đầu tư cho Maslow được học hành và khuyến khích ông nên học ngành Luật.
Đầu tiên ông thực hiện lời hứa của bố mẹ mình bằng cách ghi tên vào trường City College of New York. Tuy nhiên, sau 3 học kỳ ông chuyển sang học tại Cornell, sau đó ông quay trở lại CCNY.
Sau đó ông cưới một người bà con là Bertha Maslow, ông chuyển đến Wisconsin và theo học tại University of Wisconsin. Tại đây ông đã nhận được B.A (1930), M.A (2011), PHD (1934) về tâm lý học. Trong khi học tại Wisconsin ông đã học với Harry Maslow, người được biết đến với những thí nghiệm gây tranh cãi về hành vi và tập tính xã hội của khỉ.
Một năm sau khi tốt nghiệp, Maslow trở lại NewYork và làm việc với E. L. Thorndike tại Đại học Columbia.
Maslow bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại Brooklyn College. Trong suốt thời gian này ông đã gặp gỡ nhiều nhà tâm lý học hàng đầu Châu Âu như Alfred Adler và Erich Fromm.
Năm 1951, Maslow trở thànhTtrưởng khoa Tâm lý học tại Brandeis University, nơi mà ông bắt đầu với công tác nghiên cứu học thuyết của mình. Ông đã gặp Kurt Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức về nhu cầu.
Ông về hưu tại California. Chết vì đau tim năm 1979, thọ 62, sau nhiều năm sức khoẻ kém.
1.2. Nội dung cơ bản của thuyết nhu cầu
- Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu của con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
- Lý thuyết của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người tư thấp đến cao.
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.
Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh:
An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người.
- Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,…
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn nếu không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
Vd, nếu nhà tham vấn làm việc với trẻ em lang thang thì phải xác định được rằng đa số trẻ em lang thang đã bị “tắc” ở bậc nhu cầu này bởi những rủi ro mà các em đang phải đối diện ở cuộc sống ngoài đường phố (cướp giật, lạm dụng,…). Bởi vì các em phải luôn cảnh giác với các rủi ro này nên không thể tập trung vào việc thỏa mãn các nhu cầu ở bậc cao hơn.
Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp nhận).
- Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận.
- Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau.
- Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình bạn, tình yêu, tình thân ái là nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của nhân loại.
Hãy thử tưởng tượng một ngày kia anh/chị thức dậy và phát hiện ra rằng anh/chị là người cuối cùng trên quả đất này. Trong nhà, cộng đồng và cả thế giới này không còn ai ngoài anh/chị. Điều gì sẽ xảy ra ? Anh/chị sẽ cảm thấy như thế nào ? Hầu hết mọi người nói rằng nếu không còn ai khác – bạn bè, gia đình, tình hữu nghị – cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa và giá trị nữa. Anh/chị không thể phát triển được nếu thiếu mối quan hệ giao tiếp với người khác (giao tiếp được coi như là nhu cầu bẩm sinh của con người). Qua đó chúng ta thấy được sức mạnh to lớn của nhu cầu được quan hệ và được thừa nhận trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nó cũng cho thấy con người cần được yêu thương và thừa nhận hơn là cần thức ăn, quần áo và chỗ ở cho sự tồn tại của mình.
Nhu cầu được tôn trọng
- Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng và được người khác tôn trọng.
+ Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện.
+ Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con người.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó.
- Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.
1.3. Vận dụng thuyết "nhu cầu" trong tham vấn
- Sự hiểu biết về thứ bậc nhu cầu của Maslow giúp nhà tham vấn xác định được những nhu cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu còn chưa được thỏa mãn tại thời điểm hiện tại, đặc biệt là các nhu cầu tâm lý của thân chủ, nhận ra khi nào thì những nhu cầu cụ thể của thân chủ chưa được thỏa mãn và cần đáp ứng.
- Qua lý thuyết nhu cầu của Maslow, nhà tham vấn đã hiểu được con người có nhiều nhu cầu khác nhau bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Ai cũng cần được yêu thương, được thừa nhận, được tôn trọng, cảm giác an toàn, được phát huy bản ngã,… Do đó trong việc trợ giúp cho thân chủ nhà tham vấn không chỉ trợ giúp thân chủ thỏa mãn nhu cầu sinh lý cơ bản mà cao hơn nũa phải tập trung trợ giúp cho thân chủ nhằm giúp thân chủ thỏa mãn các nhau cầu tinh thần để sống lành mạnh hơn.
- Nhà tham vấn sử dụng thuyết nhu cầu để giúp đỡ thân chủ thỏa mãn các nhu cầu của họ. Điều này có nghĩa là nhà tham vấn làm việc với thân chủ để giúp họ xác định các hành động có thể thực hiện được để thay đổi tình huống và tập trung vào các vấn đề tình cảm có thể đang cản trở thân chủ trong việc thỏa mãn nhu cầu của chính họ.
- Trong một số trường hợp, thân chủ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, việc kết nối họ với các nguồn lực là hoàn toàn hợp lý nhưng đây là công việc của nghề công tác xã hội. Còn nhà tham vấn tăng cường năng lực cho thân chủ bằng cách lắng nghe thân chủ, chú ý đến các nhu cầu tinh thần của thân chủ và giúp thân chủ hiểu được các tiềm năng của mình, sử dụng các tiềm năng đó để vượt lên nấc thang nhu cầu cao hơn.
The ABC of Materialist Dialectics by Leon Trotsky. (December 15, 1939)
Phép biện chứng duy vật không hề hư cấu hay huyền bí, trái lại đó là khoa học về nhận thức của chúng ta nhằm không chỉ đề cập tới những vấn đề thường ngày trong cuộc sống mà còn cố gắng đạt tới những hiểu biết về cả những quá trình phức tạp. Quan hệ giữa phép biện chứng và logic hình thức giống như quan hệ giữa toán học cao cấp và toán học sơ cấp.
Tôi sẽ cố gắng phác hoạ nội dung của vấn đề một cách ngắn gọn và súc tích. Logic của Aristot về phép tam đoạn luận đơn giản bắt nguồn từ định đề cho rằng 'A' bằng 'A'. Định đề này đã được chấp nhận như một tiền đề cho vô số hoạt động thực tiễn của con người và cho những khái quát hoá cơ bản. Thế nhưng trong thực tế 'A' không bằng 'A'. Điều này có thể dễ dàng được chứng minh nếu chúng ta quan sát hai chữ cái này dưới kính hiển vi -- chúng hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, có người sẽ phản đối, vấn đề không phải là kích thước hay hình dạng của các chữ cái, bởi vì chúng chỉ là những ký hiệu cho những lượng bằng nhau, chẳng hạn, một cân đường. Thực chất một cân đường không bao giờ bằng một cân đường – một chiếc cân chính xác hơn sẽ luôn chỉ ra sự khác biệt giữa chúng. Có người sẽ lại phản đối : nhưng một cân đường phải bằng chính nó. Điều này cũng lại không đúng – Tất cả sự vật đều không ngừng biến đổi về kích thước, trọng lượng, màu sắc v.v. Chúng không bao giờ bằng chính bản thân nó. Người nguỵ biện sẽ đáp lại rằng một cân đường phải bằng chính bản thân nó tại một 'thời điểm' nhất định.
Ngoài những giá trị thực tiễn cực kỳ mơ hồ của 'tiền đề' này, nó cũng không chịu đựng nổi những phê phán về mặt lý thuyết. Chúng ta thực sự hiểu từ 'thời điểm' như thế nào? Nếu đó là một khoảng thời gian vô cùng nhỏ, vậy thì một cân đưường thuộc về quá trình của 'thời điểm đó' tất yếu phải biến đổi. Hay có phải 'thời điểm' chỉ là một sự trừu tượng thuần tuý toán học, nhgiã là, một điểm không thời gian? Thế nhng tất cả đều tồn tại trong thời gian; và tồn tại tự nó đã là một quá trình không ngừng biến đổi; thời gian là một nguyên lý cơ bản của tồn tại. Do vậy tiền đề 'A' bằng 'A' nghĩa là một thứ bằng chính bản thân nó nếu như nó không biến đổi, tức là, nó không tồn tại.
Thoạt nhìn dường như sự 'tỉ mỉ' nêu trên là vô ích. Thực tế chúng lại có ý nghĩa cực kỳ quyết định. Một mặt tiền đề 'A' bằng 'A' là nguồn gốc cho mọi hiểu biết của chúng ta, mặt khác nó cũng là nguồn gốc của tất cả những sai lầm trong kiến thức của chúng ta. Chỉ trong những giới hạn nhất định mới có thể sử dụng tiền đề 'A' bằng 'A' mà không gây ra hậu quả gì. Khi sự biến đổi về lượng là không đáng kể thì chúng ta có thể coi 'A' bằng 'A'. Đây chính là trường hợp khi người bán và người mua cân nhắc về một cân đường. Hoặc khi chúng ta quan tâm đến nhiệt độ của mặt trời. Chúng ta coi khả năng thanh toán của một đồng dollar cũng theo cách này. Nhưng khi sự biến đổi về lượng vượt quá giới hạn nhất định nó sẽ chuyển thành những biến đổi về chất. Một cân đường khi đem so với nước hay dầu về mặt tác dụng thì nó không còn là một cân đường nữa. Một đồng dollar trong tay một vị tổng thống cũng không còn là một đồng dollar nữa. Để xác định được chính xác khoảng khắc tại điểm tới hạn mà lượng biến đổi thành chất là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất trong mọi lĩnh vực tri thức trong đó bao gồm cả xã hội học.
Mọi công nhân đều hiểu rằng không thể có hai sản phẩm giống hệt nhau. Trong khi chế tạo trụ lót và đệm hình côn, đệm hình côn này chỉ được phép có một sai lệch nhất định không vượt quá giới hạn cho trước ( gọi là dung sai). Và bằng cách đối chiếu với chỉ tiêu về dung sai, các lõi sẽ được coi như bằng nhau. ('A' bằng 'A'). Khi dung sai vượt quá lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, nói cách khác, đệm hình côn trở thành loại sản phẩm kém phẩm chất hay hoàn toàn vô giá trị.
Những tư tưởng khoa học chỉ là một phần thực tiễn tổng quát của chúng ta, trong đó bao gồm cả kỹ thuật. Đối với những quan niệm cũng tồn tại 'dung sai' được thiết lập không phải bởi logic hình thức bắt nguồn từ tiền đề 'A' bằng 'A', mà bởi logic biện chứng bắt nguồn từ tiền đề tất cả đều không ngừng vận động biến đổi. 'Lý trí thông thường' được đặc trng bởi một thực tế là nó thường vượt quá 'dung sai' biện chứng một cách có hệ thống.
Những ý nghĩ thông tục cho rằng những quan niệm như chủ nghĩa tư bản, đạo đức, tự do, nhà nước của công nhân, v.v là cố định, trừu tượng; cho rằng chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa tư bản, đạo đức bằng đạo đức v.v. tư duy biện chứng phân tích tất cả mọi vật và hiện tượng trong sự biến đổi không ngừng của chúng, trong đó quyết định bởi những điều kiện vật chất của sự biến đổi trên tới mức vượt quá giới hạn nhất định thì 'A' không còn là 'A', nhà nước của công nhân không còn là nhà nước của công nhân.
Sai lầm cơ bản của suy nghĩ thông thường nằm trong thực tế là nó mong muốn tự bằng lòng với những dấu ấn bất động của thực tại, cái luôn bao gồm cả sự vận động bên ngoài. Suy nghĩ một cách biện chứng, bằng những xấp xỉ kỹ lưỡng, sẽ đem lại cho các khái niệm sự đúng đắn, sự cụ thể hoá, sự phong phú về nội dung và sự linh hoạt; tôi có thể nói rằng thậm chí một độ chín muồi về nội dung mà trong chừng mực nhất định làm cho các khái niệm tiến gần sát hơn với những hiện tượng sống động. Không phải chủ nghĩ tư bản nói chung mà là chủ nghĩ tư bản trong một giai đoạn phát triển nhất định. Không phải nhà nước của giai cấp công nhân nói chung mà là một nhà nước của gai cấp công nhân ở một đất nước lạc hậu đang bị đế quốc bao vây.
Tư duy biện chứng quan hệ với tư duy thông thường cũng giống như quan hệ giữa một hình ảnh động và một bức ảnh tĩnh. Hình ảnh động không hề loại bỏ sự tồn tại của bức ảnh tĩnh mà trái lại nó bao gồm một chuỗi các ảnh tĩnh tuân theo những định luật chuyển động nhất định. Phép biện chứng không phủ nhận tam đoạn luận, mà dạy cho chúng ta phải biết kết hợp với tam đoạn luận theo cách nào đó để đem lại cho chúng ta sự hiểu biết sát hơn với thực tại bên ngoài luôn biến đổi. Trong cuốn Logic của Hêgen, ông đã đa ra một loạt các quy luật: sự biến đổi về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất, sự phát triển thông qua mâu thuẫn, sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự gián đoạn trong liên tục, sự biến đổi từ khả năng đến tất yếu, v.v., đây là những quy luật thực sự quan trọng đối với quá trình tư duy cũng như đối với các nhiệm vụ đơn giản hơn trong phương pháp tam đoạn luận đơn giản.
Hêgen đã viết ra trước cả Đác-uyn và trước cả Mác. Nhờ có sự thúc đẩy mạnh mẽ đến tư tưởng từ cuộc Cách Mạng Pháp, Hêgen đã báo trước sự chuyển biến sâu sắc trong khoa học. Nhng bởi nó chỉ là một sự dự đoán, dù là của một thiên tài, nó đã tiếp nhận từ Hêgen bản chất duy tâm. Hêgen coi rằng ý thức hệ vô hình là thực tại cuối cùng. Mác đã chứng minh sự vận động của ý thức hệ vô hình này không phải cái gì khác mà trái lại chính là sự vận động của vật chất.
Chúng tôi gọi phép biện chứng của mình là duy vật bởi gốc rễ của nó chẳng phải ở trên thiên đàng hay ở sâu thẳm trong 'ý chí tự do' của chúng ta mà là ở trong thực tại khách quan, trong tự nhiên. ý thức nảy sinh từ vô thức, tâm lý nảy sinh từ sinh lý, hữu cơ nảy sinh từ vô cơ, thái dương hệ được hình thành từ các tinh vân. Trên mọi nấc thang của quá trình phát triển này, những biến đổi về lượng sẽ chuyển thành biến đổi về chất. tư duy của chúng ta, bao gồm cả tư duy biện chứng, chỉ là một trong những hình thức biểu hiện rằng vật chất đang biến đổi. Trong hệ thống này không hề có chỗ cho thượng đế, hay quỷ sứ, hay linh hồn bất diệt, hay quy tắc vĩnh viễn cho những quy luật và luân lý. Phép biện chứng trong tư duy, nảy sinh từ phép biện chứng của tự nhiên, do vậy nó luôn có bản chất duy vật xuyên suốt.
Học thuyết Đác-uyn, giải thích sự tiến hoá của các loài thông qua sự biến đối về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất, đã là một thắng lợi cao nhất của phép biện chứng trong toàn bộ lĩnh vực vật chất hữu cơ. Một chiến thắng vĩ đại khác là sự khám phá ra bảng khối lượng nguyên tử của các yếu tố hoá học cơ bản và hơn thế nữa là sự biến đổi từ yếu tố này sang yếu tố khác.
Với những sự biến đổi này(biến đổi của loài, các yếu tố hoá học, v.v) rất gần với một vấn rất quan trọng trong tự nhiên cũng như trong khoa học xã hội, đó là vấn đề phân loại. Hệ thống phân loại của Linnaeus ( thế kỷ 18), sử dụng điểm xuất phát là tính bất biến của các loài, đã bị hạn chế trong sự mô tả và phân loại thực vật theo những đặc tính bề ngoài của chúng. Thời kỳ trứng nước của thực vật học cũng tương tự như thời kỳ trứng nước của logic vậy, bởi vì ý thức của chúng ta phát triển cũng giống như mọi vật có sự sống khác. Chỉ có sự bác bỏ một cách kiên quyết ý tưởng cho rằng loài là cố định, chỉ có sự nghiên cứu lịch sử tiến hoá của thực vật và những giải phẫu về chúng, mới đặt được cơ sở cho sự phân loại thực sự khoa học.
Mác, khác biệt với Đác-uyn, là một nhà biện chứng ý thức, đã đặt nền tảng cho sự phân loại xã hội loài người trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và trong cấu trúc của mối quan hệ sở hữu cấu thành nên cấu trúc xã hội. Học thuyết Mác đã thay thế cho sự phân loại có tính chất mô tả thô thiển về xã hội và nhà nước, cái mà thậm chí cho đến nay vấn còn hưng thịnh trong các trường đại học, bằng một sự phân loại biện chứng duy vật. Chỉ thông qua việc sử dụng phương pháp của Mác mới có thể xác định đúng đắn khái niệm về nhà nước và thời điểm suy sụp của nó.
Tất cả, như chúng ta thấy, không hề chứa đựng điều gì 'siêu hình' hay 'giáo điều', như những khẳng định ngu dốt kiêu ngạo. Logic biện chứng biểu hiện ở những quy luật về vận động trong tư tưởng khoa học đương thời. Trái lại cuộc đấu tranh chống lại phép biện chứng duy vật lại biểu hiện ở quá khứ xa xôi, ở sự bảo thủ của giai cấp tiểu tư sản, ở sự tự phụ của những kẻ thủ cựu trong các trường đại học và...ở một tia hy vọng vào kiếp sau.
15 tháng 12, 1939.
Tâm địa thực dân - NGUYỄN ÁI QUỐC
Ít khi chúng tôi có dịp được đọc báo thuộc địa. Hôm nay, chúng tôi nhận được một số Courrier Colonial, đề ngày 27 tháng 6 vừa qua, trên đầu tờ này có đăng một bài dài hai cột, dưới cái đầu đề kích động là "GIỜ PHÚT NGHIÊM TRỌNG". Cái đầu đề kêu rỗng ấy, kêu như một lời hô hào cầm vũ khí, đã khiến chúng tôi phải đọc từ đầu chí cuối bài báo dài này để biết rõ lý do của tiếng kêu cầu cứu đó là gì. Chưa đọc hết cột thứ nhất, chúng tôi cũng đã gần thấy được mục đích của tác giả, và càng đọc tiếp - vừa đọc vừa mỉm cười - thì cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi càng vững chắc lại. Cảm tưởng của chúng tôi tóm lại là: một chàng thực dân đã muốn dùng bản Yêu sách của nhân dân An Nam2 để mở một cuộc tấn công gián tiếp vào chính sách của ông Anbe Xarô, toàn quyền Đông Dương, một cuộc tấn công mà anh ta đã chú ý tô điểm bằng những lời phản đối có tính chất yêu nước, bằng lòng yêu chuộng chân lý, bằng tinh thần hy sinh và tận tuỵ vì lợi ích chung, vân vân, vân vân.
Phân tích một vài đoạn trong bài báo, chúng ta sẽ thấy được chàng ta hiểu chủ nghĩa yêu nước, chân lý và lợi ích chung của nước Pháp như thế nào.
Ông Camilơ Đơvila khao khát cái danh hiệu người yêu chuộng chân lý trong thế giới này và trong thế giới bên kia. Lòng khao khát ấy là chính đáng và hợp lý, chúng tôi vui lòng thừa nhận như vậy. Nhưng mong ông cho phép chúng tôi chỉ cho ông thấy rằng cái chân lý theo tâm địa của ông, cái chân lý theo quan niệm của bọn thực dân thù ghét dân bản xứ, không có gì là giống với chân lý của chúng tôi, chân lý mà sau này chúng tôi sẽ nói sơ qua đến, cũng như không có gì là giống với chân lý theo quan niệm của những người Pháp tốt ở nước Pháp cả. Sở dĩ chúng tôi nhận xét một cách lịch sự như vậy, là nhằm tỏ thái độ tôn trọng quyền tự do ngôn luận.
Trước hết, chúng tôi thấy trong bài báo nói về vấn đề đó, cái câu ám chỉ có ác ý là "ngay ngày hôm sau ông Anbe Xarô đặt chân trở về đất nước Pháp, thì những nhà ái quốc An Nam lập tức bác bỏ những lời tuyên bố lạc quan của ông".
Chúng tôi không được biết bài diễn văn mà ông Đơvila đã ám chỉ, chúng tôi không bàn về bài diễn văn ấy. Nhưng ngay từ bây giờ chúng tôi cũng có thể nói rằng, dù sao đi nữa thì tám điểm của bản Yêu sách của nhân dân An Nam không nói ngược lại chút nào những ý kiến của ông Anbe Xarô, người đã tuyên bố trong tất cả những diễn văn của mình đọc trước những người bản xứ rằng mình kiên quyết muốn mở ra cho họ một kỷ nguyên tự do và công lý. Vì những lời hứa hẹn của ông phù hợp với những yêu sách của chúng tôi, nên ngay khi được biết tin ông trở về Pháp chúng tôi vội vã gửi đến ông bản ghi những yêu sách của chúng tôi. Trong lúc chờ xem chính sách của ông đáp ứng được đến mức độ nào những nguyện vọng của chúng tôi, chúng tôi vui lòng thừa nhận rằng đã nhiều lần ông ta phát biểu để bảo vệ những người bản xứ, chống lại sự áp bức của những tên thực dân độc ác và sự chuyên chế của những tên viên chức tàn bạo, bất chấp những đòn công kích của một chiến dịch vừa đáng ghét vừa nham hiểm của báo chí, một chiến dịch không giấu kín được tính phản nghịch của nó bằng những lời nguỵ biện về uy tín và bằng những lý lẽ giả dối về lợi ích chung.
Chúng tôi đã nhấn mạnh những chữ những tên thực dân độc ác và những viên chức tàn bạo, vì chúng tôi biết rằng có những người thực dân chính trực và những viên chức công bằng. Khốn nỗi, họ còn lâu mới là đa số, thậm chí còn đang sợ rằng họ là một thiểu số rất nhỏ nữa.
Rồi ông Đơvila chép lại tám yêu sách của người An Nam, và kèm theo yêu sách thứ ba - tự do báo chí và ngôn luận - ông đưa ra nhận xét này: mà bản thân chúng ta cũng không được hưởng, và kèm theo yêu sách thứ bảy - thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật- ông đưa ra nhận xét này: hệt như ở nước ta.
Cũng vậy thôi, tính giả dối cũng không được che đậy kín đáo gì hơn. Chúng tôi xin phép hỏi ông Đơvila rằng phải chăng ông coi độc giả của ông là những người quá ư ngu ngốc, khi ông định dùng cái lối bình luận quỷ quyệt đó để làm cho họ lẫn lộn tình trạng hoàn toàn và vĩnh viễn không có quyền tự do tư tưởng với sự kiểm duyệt, tức là một tình trạng hoàn toàn có tính chất tạm thời và chỉ nhằm một vài loại tin tức thôi. Còn về việc thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật, thì chúng tôi không hiểu tại sao ông Đơvila lại sợ việc ấy đến thế, vì những người trong sạch thì không việc gì phải sợ sự kiểm soát của ai cả, ngay cả sự kiểm soát của Nghị viện nữa.
Lời trách cứ nặng nhất của ông Đơvila đối với những nhà ái quốc An Nam là đã phát biểu trực tiếp với nhân dân Pháp và với nền Công lý thế giới của tất cả các cường quốc. Chúng tôi sẵn sàng thừa nhận với ông rằng những người An Nam đã đi vào một trường hợp hoàn toàn đáng xử giảo, khi không nhờ đến một nhà thực dân cỡ ông làm trung gian. Thừa nhận như vậy rồi, chúng tôi xin chép lại nguyên văn cái câu mà ông cho là khó hiểu, câu đó như sau: "Đưa ra những yêu sách trên đây, nhân dân An Nam trông cậy vào chính nghĩa thế giới của tất cả các cường quốc và đặc biệt tin vào lòng rộng lượng của nhân dân Pháp cao cả, tức là của những người đang nắm vận mệnh của nhân dân An Nam, của những người, do chỗ nước Pháp là một nước Cộng hoà, nên được coi là những người bảo hộ cho nhân dân An Nam".
Chúng tôi không dám giải thích cho ông Đơvila rằng, thế nào là một nước Cộng hoà, vì môn sư phạm không phải là sở trường của chúng tôi, nhưng vì ông tìm cách bẻ quẹo một câu minh bạch như vậy, nên chúng tôi tự hỏi không biết có phải ông đã có danh dự được làm bồi bếp trong một nhà bếp nhà vua nào đó chăng.
Và bây giờ khi mà ông Đơvila tự hỏi rằng trách nhiệm ở đâu, thì chúng tôi phải nói trắng ra với ông rằng cần tìm trách nhiệm, không phải ở chính sách của ông Xarô mà ở tình hình thảm hại mà người ta đã để lại cho ông Xarô. Nếu sau một nửa thế kỷ sống dưới sự thống trị của nước Pháp mà nhân dân An Nam rút cuộc lại phải đi xin vài bảo đảm cá nhân và vài quyền tự do mà tất cả những nước láng giềng của mình đều được hưởng, thì điều đó không phải là tại ông Xarô thân dân bản xứ, mà điều đó có nguyên nhân sâu xa hơn nữa, đó là do chính sách bóc lột và ngu dân mà ông Đơvila và bè phái tuyên truyền, chứ không phải của ông Xarô.
A, bây giờ chúng tôi đã nắm được động cơ của những đòn công kích ông Xarô rồi. Ông Xarô bị công kích vì ông thân dân bản xứ.
Ông Đơvila nhắc nhở rằng những người đã có kinh nghiệm ở Đông Dương đã cố công khuyên ông Xarô, nhưng ông Xarô không chịu nghe họ. Theo ngôn ngữ của những tên thực dân độc ác, thứ kinh nghiệm ở Đông Dương có nghĩa là kinh nghiệm trong nghệ thuật bóc lột, cướp bóc người bản xứ, kinh nghiệm sống bằng mồ hôi của người bản xứ. Ông Xarô đã khinh bỉ không thèm nghe lời bọn cố vấn vụ lợi ấy, điều đó cũng dễ hiểu.
Cái câu trong tờ Le Courrier d'Haiphong3 mà ông Đơvila dẫn ra và tuyên bố rằng, câu đó là có tính chất tiên tri (sic) xác nhận tất cả những điều mà chúng tôi vừa nói, nguyên văn câu đó như sau:
"Chính sách ấy (chính sách thân dân bản xứ) của ông Xarô chỉ có thể tiến hành được bằng cách hy sinh lòng tự tôn và những quyền lợi của những người Âu ở nước này, vì chính sách đó chỉ nhằm làm cho những dân bản xứ thành những người bình đẳng với chúng ta, rồi nhanh chóng trở thành chủ chúng ta".
Kết luận: đối với dân bản xứ, thì phải giữ họ vĩnh viễn trong cảnh nô lệ. Chúng tôi thiết tưởng rằng, những người Pháp thông minh và chân thực biết tỏ tính ưu việt tự nhiên của mình ở bất cứ nơi nào mình sống, thì không cần phải sống giữa những người bản xứ vĩnh viễn bị khoá mồm bịt miệng và bị xỏ mũi, mới có thể giữ được tính ưu việt đó.
Sau cùng, ông Đơvila cho rằng mình biết rõ là một đảng độc lập đã xuất hiện và đảng này đã vượt qua đầu ông Xarô để phát biểu với nhân dân Pháp và với các cường quốc mà họ muốn nói với tư cách bình đẳng với nhau. Ông nói thêm rằng: đây là một giấc mơ và từ giấc mơ này ông thấy nguồn gốc của sai lầm mà ông Anbe Xarô phạm phải là năm 1913 ông Anbe đã dạy cho người An Nam biết rằng nước Đức đã chiếm Andátxơ - Loren của nước Pháp năm 1871.
Nếu có một đảng độc lập tồn tại, thì đảng này không phải đi ăn xin một vài quyền tự do, mà thiếu nó thì con người là một tên nô lệ khốn khổ. Chúng tôi thử làm yên lòng ông Đơvila bằng cách nói rằng, Đảng của chúng tôi nói với nhân dân Pháp, cũng là nói cả với ông Đơvila.
Cuối cùng, ông Đơvila không thể không biết về mặt quốc tế, khi người ta nói bình đẳng với nhau, người ta dùng con đường ngoại giao, chứ không phải bằng con đường thỉnh cầu. Vậy thì giấc mơ đẹp mà người ta kiêu hãnh đã tìm thấy chìa khóa, tự nó đã tan tành.
Chúng tôi để cho ông Đơvila với một giấc mơ khác, giấc mơ làm cho dân An Nam quên đi rằng chỉ với nửa số những luật dân sự mà trước kia những người Andátxơ - Loren có được dưới sự thống trị của Đức, thì dân An Nam cũng sẽ đỡ khổ hơn rất nhiều. Đúng vậy, theo ý nghĩa đó thì việc so sánh Andátxơ - Loren Phổ hoá với Đông Dương Pháp hóa dĩ nhiên là hại.
Tài liệu đánh máy, tiếng Pháp.
Bản chụp lưu tại Viện Lịch sử Đảng.