Tuesday, September 17, 2013

Pháp luật tư sản - Thời kỳ cạnh tranh tự do - ThS Lê Thị Thanh Nhàn


Bài 10: Pháp luật tư sản

I. PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CẠNH TRANH TỰ DO
1. Phân loại hệ thống pháp luật tư sản
- Pháp luật tư sản đã xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến. Nhưng từ khi giai cấp tư sản thiết lập được nhà nước thì pháp luật tư sản mới mang tính hệ thống và trở thành một kiểu pháp luật mới.
- Do ảnh hưởng của hai cuộc cách mạng tư sản và sự xâm lược của Anh, Pháp nên pháp luật của hai nước đó có ảnh hưởng tới pháp luật của nhiều nước tư sản khác. Vì vậy, về cơ bản có thể phân chia pháp luật tư sản thành hai hệ thống chủ yếu:
+ Hệ thống pháp luật lục địa: bao gồm pháp luật của Pháp, các nước lục địa Châu Au, một phần lục địa Châu Mỹ La Tinh.
+ Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ: bao gồm pháp luật Anh, Mỹ và các nước thuộc địa hoặc phụ thuộc Úc, Canađa.
- Sự khác biệt của hai hệ thống pháp luật này:










Hệ thống pháp luật lục địa
Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ
Nguồn
Các bộ luật mới được xây dựng
Tiền lệ pháp và bộ luật, nhưng các bộ luật này không được xây dựng mới mà tư sản hoá những bộ luật phong kiến
Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ tài sản
Dựa trên những nguyên tắc của pháp luật La Mã
Không theo các nguyên tắc của pháp luật La Mã
Hệ thống pháp luật
Chia pháp luật thành công pháp và tư pháp.
Không phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp
2. Những ngành luật cơ bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do
a. Luật Hiến pháp tư sản
- Cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13 khi giai cấp tư sản lớn mạnh và có thế lực lớn trong kinh tế nên muốn vươn lên giành quyền thống trị vô hạn của nhà vua – người đại diện của giai cấp phong kiến. Giai cấp tư sản đề xướng một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hẳn các quýêt định của nhà vua và văn bản khác, văn bản ấy được gọi là Hiến pháp. Như vậy, kể từ cách mạng tư sản, khái niệm Hiến pháp với nghĩa là luật cơ bản của nhà nước mới xuất hiện. Nó là một ngành luật mới, được xác lập từ chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Hiến pháp tư bản có 3 nhóm chế định cơ bản quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
+ Về chế định bầu cử, Hiến pháp xác định một loạt các biện pháp để hạn chế quyền bầu cử của nhân dân lao động, chẳng hạn:
· Điều kiện về tài sản: cử tri phải là người có số tài sản nhất định (Tây Ba Nha, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Braxin căn cứ vào thu nhập cá nhân, một số nước khác căn cứ vào mức độ đóng thuế cho nhà nước). Về phía người ứng cử, họ phải là người có thế lực kinh tế mạnh vì pháp luật tư sản quy định người ứng cử ký quỹ và gánh chịu mọi chi phí vận động bầu cử .
· Điều kiện về trình độ văn hoá: cử tri phải là người có trình độ văn hoá nhất định.
· Điều kiện về tuổi: cử tri phải từ 21 tuổi trở lên.
· Điều kiện về giới tính: phụ nữ không có quyền bầu cử.
· Về chủng tộc: người da đen, người da đỏ không có quyền bầu cử.
· Điều kiện cư trú: công dân muốn được bầu cử hay ứng cử phải sống cố định tại một nơi trong một khoảng thời gian nhất định.
· Đặc biệt, một số nước tư sản còn quy định có những tầng lớp được quyền bỏ nhiều lá phiếu hơn những cử tri bình thường.
· Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, tuỳ theo từng nước mà có hình thức chính thể khác nhau: quân chủ nghị viện, cộng hòa nghị viện, cộng hoà tổng thống. Dủ ở chính thể nào thì hiến pháp cũng quy định tổ chức của 4 loại cơ quan chủ yếu: nghị viện, chính phủ, toà án và người đứng đầu nhà nước (vua, tổng thống).
+ Về chế định quyền và nghĩa vụ của công dân, hầu hết các Hiến pháp tư sản đều ghi nhận quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trong thời gian đầu quyền công dân bị hạn chế rất nhiều, nhưng do phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, dần dần nhà nước tư sản phải ghi nhận thêm một số quyền công dân vào Hiến pháp. Tuy vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn phiến diện, nghĩa vụ thường không đi đôi với quyền lợi.
+ Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, chế định này nhằm củng cố và tăng cường quyền lực của giai cấp tư sản, đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Mục đích của việc ban hành Hiến pháp của giai cấp tư sản là nhằm hạn chế quyền lực tuyệt đối của nhà vua, tách quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thành các quyền độc lập và đối trọng lẫn nhau. Hiến pháp tư sản thường tập trung quy định về nguyên tắc tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của bốn cơ quan nhà nước trung ương: Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ và Toà án.
b. Những chế định của dân luật tư sản
- Nguyên tắc cơ bản của dân luật tư sản là quyền bình đẳng giữa các công dân trong quan hệ pháp luật dân sự.
- Nội dung chủ yếu của dân luật tư sản là bảo vệ quyền tư hữu tư sản, điều chỉnh các văn bản hợp đồng hợp đồng hôn nhân, thừa kế,…
+ Chế định quyền tư hữu tư sản
· Quyền tư hưũ được coi là quyền tự nhiên của con người, nó gồm có 3 quyền: quyền định đoạt, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng.
· Luật dân sự chia vật sở hữu gồm 2 loại: động sản và bất động sản
+ Chế định hợp đồng và trái vụ tư sản
· Dân luật tư sản xác định quyền bình đẳng và tự biểu lộ ý chí của các bên.
· Các bộ dân luật tư sản điều ghi rõ những điều kiện bảo đảm hợp đồng:
o Hợp đồng phải được nghiêm chỉnh trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
o Pháp luật chỉ cho phép huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp có sự đồng ý của các bên tham gia.
· Các biện pháp để thực hiện hợp đồng cũng đựơc qui định như: cầm cố, đặt cọc, phạt tiền, bảo lãnh…
· Trái vụ là một quan hệ pháp luật, trong đó một nguời hoặc một số người phải thực hiện một hành vi nào đó đối với chủ thể khác
+ Chế định pháp nhân và công ty cổ phần tư sản.
· Chế định này nhằm củng cố địa vị kinh doanh của nhà tư sản, đồng thời không ngừng tập trung vốn, mở rộng kinh doanh để dẫn tới độc quyền.
· Ban đầu việc thành lập công ty cổ phần phải được Chính phủ cho phép, về sau nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh thì việc thành lập công ty chỉ cần đăng ký với Chính phủ.
· Cơ quan quản lý cao nhất của công ty là hội nghị các cổ đông. Trong hội nghị số đầu phiếu không tính theo đầu người mà tính theo cổ phiếu. Do đó, quyền quản lý công ty thực chất thuộc về các nhà tư bản lớn.
+ Chế định về hôn nhân gia đình.
· Hôn nhân được xem là 1 loai hợp đồng. Việc kết hôn phải có đủ 2 điều kiện sau:
o Người kết hôn phải có năng lực pháp lý
o Hai bên tự nguyện kết hôn với nhau.
· Về hình thức kết hôn, có nước quy định hình thức kết hôn dân sự (do chính quyền chứng nhận), có nước theo hình thức tôn giáo, có nước coi 2 hình thức trên điều có giá trị pháp lý.
· Chế định này củng cố quan hệ không bình đẳng trong gia đình. Người vợ bị hạn chế năng lực pháp lý, đồng thời xác định người chồng là người đứng đầu trong gia đình, bảo hộ người vợ, do đó người vợ phải phục tùng
+ Chế định thừa kế.
· Theo luật dân sự tư sản thừa kế có 2 hình thức:
o Thừa kế theo di chúc: xác định nguyên tắc tự do di chúc. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi cho những người trong gia đình, một số nước hạn chế sự độc đoán của người lập di chúc.
o Thừa kế theo pháp luật xảy ra khi người chết không để lại di chúc hoặc di chúc được xem là vô hiệu hoặc không giải quyết hết tất cả tài sản.
· Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật thuộc địa, tài sản thừa kế được chuyển thẳng cho những người thừa kế. Còn ở hệ thống pháp luật Anh -Mỹ, tài sản được chuyển cho người trung gian (được chỉ định trong di chúc hoặc do toà án chỉ định). Sau khi người trung gian thực hiện những thủ tục luật định thì tài sản được chuyển hết cho người thừa kế.
c. Những chế định của luật hình tư sản
- So với pháp luật phong kiến, luật hình tư sản có những tiến bộ lớn: chống lại sự độc đoán xét xử của vua chúa; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; không quy định về tội chống tôn giáo….
- Nhưng về bản chất, luật hình tư sản là cơ sở pháp lý để đàn áp nhân dân lao động và các thế lực chống đối khác. Án tử hình được áp dụng với nhiều tội danh không đáng để áp dụng với các biện pháp dã man (cho xe cán, chặt tứ chi và đầu, mổ bụng, moi lục phủ ngũ tạng…). Ngoài ra, nó còn bảo lưu nhiều hình phạt nhục hình như đóng dấu, chặt tay… Về sau, các hình phạt man rợ này bị bãi bỏ và giảm nhẹ hình phạt cho những tội không nghiêm trọng.
- Về hình phạt tù, các nước thường có 3 hình thức: biệt giam, khổ sai và đưa đi đày ở các thuộc địa.
- Từ thế kỷ 19, hình thức án treo bắt đầu được áp dụng ở một số nước.
d. Tổ chức tư pháp và tố tụng tư sản
- So với pháp luật phong kiến, tiến bộ lớn của pháp luật tư pháp là quyền tư pháp được tách ra khỏi quyền hành pháp. Cơ quan hành pháp không được quyền xét xử, quyền này được trao cho một cơ quan chuyên trách là toà án.
- Tố tụng được tách thành tố tụng hình sự và tố tụng dân sự.
- Trong luật tố tụng tư sản, những nguyên tắc cơ bản dần dần được hình thành:
· Nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà: người buộc tội là Viện công tố, người gỡ tội là bị cáo và luật sư bào chữa.
· Nguyên tắc suy đoán vô tội: khi chưa có đủ chứng cứ buộc tội, thì bị can vẫn được xem là người vô tội. Từ nguyên tắc suy đoán vô tội, bị can có quyền được bào chữa, còn trách nhiệm buộc tội thuộc về Ủy viên công tố.
· Bản án được quyết định bởi đa số Hội đồng xét xử
· Không ai có quyền kháng cáo đối với việc trắng án.
· Nguyên tắc không thay đổi thẩm phán.
3. Nhận xét
- Pháp luật tư sản ra đời là một tiến bộ lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp luật:
+ Lần đầu tiên Hiến pháp và một loạt nguyên tắc mới của pháp luật xuất hiện.
+ Kỹ thuật lập pháp với việc phân chia pháp luật thành các ngành luật, các chế định, với việc nêu ra các chế định pháp lý, với việc pháp điển hoá,… đã có sự tiến bộ nhảy vọt. Có thể nói, về phương diện hình thức pháp lý và kỹ thuật lập pháp, sự ra đời của pháp luật tư sản là một cuộc cách mạng trong luật pháp.
+ Trong những thế kỷ 17 đến 19, pháp luật tư sản đã đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
- Những thế kỷ 17 - 19 cũng là thời kỳ từng bước hình thành và phát triển nền dân chủ tư sản và nó được thể chế hoá bằng pháp luật. Pháp luật thành một phương tiện quan trọng nhất của nhà nước tư sản để quản lý xã hội.
- Hệ thống pháp luật tư sản tuy đã ra đời nhưng chưa đầy đủ và hoàn thiện. Thời kỳ này, khối lượng các văn bản pháp luật chưa nhiều. Và cũng khác với thời kỳ tư bản chủ nghĩa độc quyền, pháp luật tư sản ở thời kỳ này bảo vệ tự do cạnh tranh trong sản xuất và trao đổi tư bản của các nhà tư sản.
- Tuy nhiên, trong giai đoạn nào thì nhà nước và pháp luật tư sản đều thể hiện đầy đủ bản chất giai cấp của nó.

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code