GS. LARRY DIAMOND
Xã hội dân sự là gì và không là gì
Xã hội dân sự ở đây được hiểu là một mảng
của đời sống xã hội có tổ chức, mang tính tự nguyện, tự tái tạo, (hầu
như) tự tài trợ, độc lập với nhà nước, và gắn bó với nhau bằng một trật
tự pháp lý hay một số nguyên tắc chung. Nó khác với “xã hội” nói chung ở
chỗ nó gồm các công dân hành động tập thể trong môi trường công (public
sphere) để thể hiện các lợi ích, quan tâm và các ý tưởng của họ, cũng
như trao đổi thông tin, giành các mục tiêu chung, yêu sách với nhà nước,
và trông chừng các quan chức. Xã hội dân sự là một thực thể trung gian,
nằm giữa môi trường tư (private sphere) và nhà nước. Như vậy, nó loại
trừ đời sống cá nhân và gia đình, các hoạt động nhóm hướng nội (ví dụ
như thể thao, giải trí hay tâm linh), các hoạt động kiếm lời của các
doanh nghiệp, và các nỗ lực chính trị nhằm giành quyền kiểm soát chính
quyền. Các nhân vật trong xã hội dân sự cần sự bảo vệ bởi một trật tự
pháp luật được thể chế hoá nhằm bảo đảm quyền tự trị của họ và quyền tự
do hành động. Do đó, xã hội dân sự không chỉ hạn chế sức mạnh nhà nước
mà còn đem lại chính nghĩa cho quyền lực nhà nước, khi quyền lực đó dựa
trên pháp quyền (rule of law). Khi bản thân nhà nước lại không có luật
lệ và coi thường quyền tự trị của cá nhân và các nhóm, xã hội dân sự vẫn
có thể tồn tại (dù chỉ dưới hình thức sơ khai hay hoang tàn) nếu như
các thành tố của nó vận hành theo một nhóm các nguyên tắc được chia sẻ
(thí dụ như những [nguyên tắc] tránh sử dụng bạo lực và tôn trọng đa
nguyên). Đây là điều kiện không thể tối giản trong chiều cạnh “dân sự”
của nó [1].
Xã hội dân sự bao gồm một dải rất rộng
các tổ chức chính thức và không chính thức. Chúng gồm tổ chức mang tính:
1) kinh tế (các hiệp hội và mạng lưới sản xuất và thương mại); 2) văn
hoá (tôn giáo, đạo đức, cộng đồng và các thiết chế và tổ chức khác bảo
vệ các quyền, giá trị, niềm tin, tín ngưỡng, biểu tượng của tập thể); 3)
thông tin và giáo dục (cho việc tạo ra và phát tán-dù là vụ lợi hay phi
vụ lợi- những kiến thức, ý tưởng, tin tức và thông tin công (public);
4) dựa trên lợi ích (thiết kế để thúc đẩy hay bảo vệ những lợi ích căn
bản hay lợi ích vật chất chung của các thành viên, có thể là công nhân,
cựu chiến binh, người hưởng lương hưu, chuyên gia v.v.); 5) phát triển
(các tổ chức kết hợp nguồn lực cá nhân để cải thiện hạ tầng, thể chế, và
chất lượng cuộc sống của cộng đồng); 6) hướng vấn đề (các phong trào
bảo vệ môi trường, quyền phụ nữ, cải cách ruộng đất, hay bảo vệ người
tiêu dùng); 7) công dân (tìm các phương tiện phi đảng phái để cải thiện
hệ thống chính trị và dân chủ hoá nó thông qua việc theo dõi nhân quyền,
giáo dục và vận động cử tri, theo dõi bầu cử, các nỗ lực chống tham
nhũng v.v.)
Hơn nữa, xã hội dân sự bao gồm “thị
trường ý thức hệ” và một dòng chảy thông tin và ý tưởng. Nó bao gồm
không chỉ truyền thông độc lập mà còn các tổ chức thuộc về một không
gian rộng hơn, gồm các hoạt động văn hoá và tri thức độc lập-các trường
đại học, viện nghiên cứu, nhà xuất bản, nhà hát, các xưởng phim, và các
mạng lưới của giới nghệ sĩ.
Từ trên đây, ta sẽ thấy rõ rằng xã hội
dân sự không phải là một nhóm “còn lại”, đồng nghĩa với xã hội, hay
trùng với những gì không thuộc nhà nước hay hệ thống chính trị chính
thức. Ngoài tính chất tự nguyện, tự tái tạo, tự trị và tuân theo quy
định, các tổ chức của xã hội dân sự cũng khác với các tổ chức xã hội
khác ở nhiều mặt. Một là, như nhấn mạnh ở trên, xã hội dân sự quan tâm
đến các mục tiêu công, chứ không phải mục tiêu tư. Hai là, xã hội dân sự
liên quan đến nhà nước theo cách nhất định, nhưng không nhằm mục đích
giành quyền lực hay địa vị chính thức trong bộ máy nhà nước. Thay vào
đó, các tổ chức xã hội dân sự tìm kiếm ở nhà nước tính khả tín và những
nhượng bộ, những thay đổi, giảm nhẹ hay sửa chữa các chính sách. Các tổ
chức công dân và các phong trào xã hội mong muốn thay đổi bản chất của
nhà nước vẫn có thể được xếp vào xã hội dân sự, nếu những cố gắng của
chúng bắt nguồn từ quan tâm đến lợi ích chung, và không từ tham vọng tự
thân là giành quyền lực nhà nước cho mình. Vì thế, các phong trào hoà
bình đấu tranh cho chuyển đổi dân chủ thường nảy sinh từ xã hội dân
sự.
Một điểm phân biệt nữa là xã hội dân sự
thể hiện đa nguyên và đa dạng. Nếu một tổ chức-chẳng hạn như cực đoan
tôn giáo, sô-vanh chủng tộc, cách mạng hay các phong trào cứu thế-mà tìm
cách độc quyền hoá một khu vực chính trị hay chức năng trong xã hội,
xác quyết rằng nó đại diện con đường duy nhất đúng, thì nó mâu thuẫn với
bản chất đa nguyên và hướng thị trường của xã hội dân sự. Liên quan đến
điểm này là chiều cạnh thứ tư, tính bộ phận (partialness), tức là không
một nhóm nào trong xã hội dân sự muốn đại diện có toàn bộ lợi ích của
một cá nhân hay một cộng đồng. Thay vào đó, các nhóm khác nhau đại diện
cho các lợi ích khác nhau.
Xã hội dân sự không chỉ khác và độc lập
với nhà nước và xã hội nói chung, mà còn độc lập với mảng thứ tư của
hành động xã hội, xã hội chính trị (tức là, về cơ bản, là hệ thống đảng
phái). Các tổ chức và mạng lưới trong xã hội dân sự có thể liên minh với
các đảng, nhưng nếu chúng bị lũng đoạn bởi các đảng, hay phục tùng
chúng, thì các tổ chức ấy đã chuyển trọng tâm vào các hoạt động trong xã
hội chính trị và mất phần lớn năng lực để thực hiện những chức năng
trung gian và xây dựng dân chủ độc đáo của mình.
Các chức năng dân chủ của xã hội dân sự
Chức năng đầu tiên và căn bản nhất của xã
hội dân sự là cung cấp “cơ sở cho việc giới hạn quyền lực nhà nước của
xã hội, vì thế, cho việc kiểm soát nhà nước bởi xã hội, và do đó, cho
các thể chế chính trị dân chủ với tư cách là công cụ thực thi việc kiểm
soát đó một cách hữu hiệu nhất” [2]. Chức năng này có hai chiều: để giám
sát và kiềm chế việc thực thi quyền lực của các nhà nước dân chủ, và để
dân chủ hoá các nhà nước độc tài. Vận động xã hội dân sự là một biện
pháp chính để vạch ra sự lạm dụng và làm xói mòn tính chính thống của
các chính quyền độc tài. Đây là chức năng được phát huy một cách đầy
kịch tính trong nhiều quá trình chuyển đổi dân chủ trong hai thập niên
qua, đến mức nó đã đẩy xã hội dân sự lên tuyến đầu trong tư tưởng dân
chủ. Tất nhiên lối suy nghĩ này chỉ tân trang ý tưởng thế kỷ 18 về xã
hội dân sự như là trong thế đối lập với nhà nước, và, như tôi sẽ chỉ ra,
nó chứa đựng những nguy cơ nếu đi quá xa [3].
Xã hội dân sự cũng là một công cụ tối
quan trọng để kiềm chế quyền lực của các nhà nước dân chủ, trông chừng
sự lạm dụng và vi phạm pháp luật tiềm ẩn của chúng, và đặt chúng dưới sự
giám sát của công chúng. Thật vậy, một xã hội dân sự sống động thậm chí
còn thiết yếu cho việc củng cố và duy trì nền dân chủ hơn cả việc khởi
xướng nền dân chủ. Không có thay đổi nào nguy hại hơn với tính chính
nghĩa của các nền dân chủ non trẻ hơn là tham nhũng chính trị tràn lan
và trắng trợn, đặc biệt là trong các giai đoạn đau đớn nhằm tái cấu trúc
kinh tế, mà trong đó nhiều nhóm và cá nhân bị đòi hỏi phải chịu đựng
những khó khăn to lớn. Các nền dân chủ mới, nối tiếp các thời kì cai trị
tuỳ tiện và tập quyền, thường thiếu các phương tiện luật pháp và bộ máy
quan liêu để kiểm soát tham nhũng ngay từ đầu. Không có báo chí và các
nhóm dân sự mạnh, được tự do trông chừng [nhà nước-ND] để thúc đẩy các
cải cách thể chế, tham nhũng thường sẽ bùng phát.
Hai là, một đời sống liên đới lành mạnh
sẽ bổ sung cho vai trò của các chính đảng trong việc khuyến khích tham
gia chính trị, tăng tính hướng đích và kỹ năng chính trị của các công
dân trong chế độ dân chủ, và thúc đẩy nhận thức về nghĩa vụ cũng như các
quyền của công dân dân chủ. Với quá nhiều người Mỹ (mà chỉ một nửa
trong số họ còn bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử tổng thống), thì đây có
vẻ như là một bài giảng xa lạ và kỳ cục. Tuy nhiên, một thế kỷ rưỡi
trước, sự tham gia tự nguyện của các công dân vào đủ loại liên đới bên
ngoài nhà nước đã gây ấn tượng mạnh cho Tocqueville như là hòn đá tảng
của văn hóa dân chủ hoá sự sống động về mặt kinh tế của Hợp Chủng Quốc
non trẻ. Các tổ chức tự nguyện “do đó có thể được coi là các trường học
độc lập lớn, mà trong đó mọi thành viên của cộng đồng đến học lý thuyết
chung về liên đới”, ông đã viết [4] .
Xã hội dân sự còn có thể là một vũ đài
quan trọng cho sự phát triển các thành tố dân chủ khác, như khoan dung,
ôn hoà, sẵn sàng nhượng bộ, và tôn trọng các quan điểm trái ngược. Các
giá trị và chuẩn mực này trở nên ổn định nhất khi chúng nổi lên thông
qua kinh nghiệm, và tham gia vào các tổ chức trong xã hội dân sự, cung
cấp bài học thực hành quan trọng về ủng hộ và cạnh tranh chính trị. Thêm
vào đó, nhiều tổ chức dân sinh (như Conciencia, một mạng lưới các hiệp
hội phụ nữ, được thành lập đầu tiên ở Argentina và từ đó đã lan sang 14
nước Mỹ Latinh khác) đang làm việc trực tiếp với các trường học và cùng
với các nhóm thành niên khác, để phát triển các thành tố dân chủ này
thông qua các chương trình tương tác mô tả quá trình động nhằm đạt tới
đồng thuận trong một nhóm, chứng minh khả năng có thể tồn tại tranh luận
nghiêm túc giữa các quan điểm cạnh tranh nhau, và các cách hợp tác để
giải quyết các vấn đề trong cộng đồng của chính họ [5].
Cách thứ tư mà xã hội dân sự có thể đóng
góp cho dân chủ là tạo ra các kênh nằm ngoài các đảng phái chính trị để
biểu đạt, tập hợp và đại diện các lợi ích. Chức năng này đặc biệt quan
trọng trong việc đem lại khả năng tiếp cận quyền lực cho các nhóm mà
trước đây bị gạt ra lề: phụ nữ và các sắc tộc hay chủng tộc thiểu số,
vốn luôn bị từ chối trong “nấc thang bên trên của thể chế” trong chính
trị chính thống. Thậm chí, ở những nơi mà phụ nữ đã từng đóng vai trò,
qua nhiều phong trào và tổ chức (như ở Mỹ La tinh), nền chính trị và
hành chính sau chuyển đổi thường quay lại mô thức đặc quyền và hẹp hòi
trước đó. Ở Đông Âu, đã có nhiều dấu hiệu cho thấy sự sút giảm địa vị xã
hội và chính trị của phụ nữ sau chuyển đổi. Chỉ bằng các sức ép có tổ
chức và lâu dài từ dưới lên, từ xã hội dân sự, thì quyền bình đẳng xã
hội và chính trị mới được đẩy mạnh, và chất lượng, năng lực phản hồi và
tính chính thống của nền dân chủ mới được nâng lên [6].
Xã hội dân sự cung cấp một nền tảng đặc
biệt vững cho dân chủ khi nó tạo cơ hội tham gia và ảnh hưởng ở mọi cấp
quản lý nhà nước, nhất là cấp địa phương. Bởi vì chính ở cấp địa phương
mà các nhóm từng bị gạt ra lề trong lịch sử có nhiều cơ hội nhất để tác
động vào chính sách công và phát triển cảm nhận về tính hướng đích
(sense of efficacy) cũng như các kĩ năng chính trị thực tế. Do đó, dân
chủ hóa chính quy hoá địa phương đi đôi với sự phát triển của xã hội dân
sự là một điều kiện làm cho dân chủ và “quá trình chuyển tiếp từ quan
hệ chủ tớ sang công dân” trở nên sâu sắc hơn ở Mỹ Latinh cũng như các
nơi khác trong thế giới đang phát triển [7].
Năm là, một xã hội dân sự đa nguyên sinh
động, đặc biệt là trong các nền kinh tế phát triển cao, sẽ có xu hướng
tạo ra một dải rộng các lợi ích đan chéo, và do đó làm dịu bớt những sự
phân cực cơ bản của xung đột chính trị. Trong khi các tổ chức dựa trên
các giai cấp mới hình thành và các phong trào hướng-vấn đề
(issue-oriented) khởi lên, chúng cũng lôi kéo các thành phần mới, cắt
ngang qua các đường ranh giới về đảng phái, sắc tộc, tôn giáo và lãnh
thổ. Khi lật đổ các nền độc tài, những cấu trúc mới này có thể tạo ra
một loại hình công dân hiện đại xuyên thấu các chia rẽ về lịch sử và
ngăn chặn sự trỗi dậy của các xung lực dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi. Trong
chừng mực mà các cá nhân có quan tâm đa dạng và tham gia vào đủ loại tổ
chức khác nhau để theo đuổi và thúc đẩy các lợi ích đó, họ sẽ liên kết
với nhiều loại người khác nhau, những người có các lợi ích và quan điểm
chính trị không đồng nhất. Những sức ép đan chéo này sẽ có khuynh hướng
làm mềm sự quyết liệt trong quan điểm của chính họ, và hình thành các
quan điểm chính trị rộng mở và tinh tế hơn, và vì thế sẽ khuyến khích sự
khoan dung những khác biệt và sẵn sàng hơn cho nhượng bộ.
Chức năng thứ sáu của một xã hội dân sự
dân chủ là tuyển lựa và đào tạo các lãnh tụ chính trị mới. Trong một vài
trường hợp, đây chính là mục đích của các tổ chức dân sinh. Ví dụ, Quỹ
Evelio B. Javier ở Philippines có các chương trình đào tạo trên cơ sở
phi đảng phái cho các ứng cử viên và quan chức thắng cử vào các vị trí
địa phương và quốc gia, tập trung không chỉ vào các kỹ năng hành chính
và kỹ thuật, mà còn vào các quy phạm mang tính chuẩn tắc về trách nhiệm
công và tính minh bạch [8]. Thông thường hơn, việc tuyển lựa và đào tạo
chỉ là một phụ phẩm dài hạn của việc vận hành thành công các tổ chức xã
hội dân sự mà ở đó, các nhà hoạt động và lãnh tụ của các tổ chức này học
được các kỹ năng và sự tự tin, những thứ trang bị sẵn sàng cho họ, để
phục vụ trong chính quyền và nền chính trị đảng phái. Họ học cách tổ
chức và khơi cảm hứng cho người khác, tranh luận, gây và quản lý quỹ,
lập ngân sách, quảng bá nghị trình, quản lý nhân sự, vận động sự ủng hộ,
và xây dựng các liên minh. Cùng lúc đó, công việc của họ nhân danh
những người ủng hộ, hay nhân danh những thứ mà họ thấy là thuộc về lợi
ích công cộng, và sự minh biện (articulation) của họ về các phương án
khác nhau, rõ ràng và thuyết phục, cho một chính sách, có thể đem lại
cho họ sự ủng hộ chính trị rộng lớn hơn. Các nhóm lợi ích, các phong
trào xã hội và các nỗ lực của cộng đồng đủ loại do đó có thể đào tạo,
tôi luyện và giới thiệu cho công chúng một lớp các nhà lãnh đạo chính
trị tiềm năng đa dạng hơn (và mang tính đại diện hơn), những người có
thể được các chính đảng thu nhận. Vì sự thống trị truyền thống của nam
giới trong các kênh quyền lực, xã hội dân sự là một căn cứ đặc biệt quan
trọng để đào tạo và thu nhận phụ nữ (và thành viên của các nhóm bị gạt
ra lề khác) vào các vị trí của nền chính trị chính thống. Khi mà việc
tuyển lựa các lãnh tụ chính trị trong các chính đảng cũ trở nên hẹp hòi
hay bế tắc, chức năng này của xã hội dân sự có thể đóng một vai trò quan
trọng trong việc tăng sức sống cho nền dân chủ và hồi sinh tính chính
đáng của nó.
Bảy là, nhiều tổ chức dân sự có các mục
đích xây dựng dân chủ rõ ràng không chỉ giới hạn trong việc đào tạo khả
năng lãnh đạo. Các nỗ lực phi đảng phái nhằm giám sát bầu cử đã và đang
giữ vai trò quyết định trong việc ngăn chặn gian lận [trong bầu cử] và
nâng cao niềm tin của cử tri, khẳng định tính hợp hiến của kết quả, và
trong nhiều trường hợp (như ở Philippines năm 1986 và Panama năm 1989)
chứng minh chiến thắng của phe đối lập bất chấp sự gian lận của chính
quyền đương nhiệm. Chức năng này đặc biệt quan trọng trong các cuộc bầu
cử bản lề như các cuộc bầu cử đã khai sinh các nền dân chủ ở Chile,
Nicaragua, Bulgaria, Zambia, và Nam Phi. Các tổ chức và viện nghiên cứu
dân chủ đang làm việc ở nhiều nước để cải cách hệ thống bầu cử, dân chủ
hoá các chính đảng, phi tập trung hoá và mở rộng chính quyền, tăng sức
mạnh cho lập pháp, và củng cố tính khả tín của chính quyền. Và thậm chí
sau chuyển đổi, các tổ chức nhân quyền vẫn tiếp tục đóng vai trò sống
còn trong việc theo đuổi các cải cách luật pháp và tư pháp, cải thiện
điều kiện trong nhà tù, và làm cho việc tôn trọng các quyền tự do cá
nhân và quyền của người thiểu số được thể chế hoá rộng rãi hơn.
Tám là, một xã hội dân sự sôi động sẽ lan
truyền thông tin rộng rãi, do đó trợ giúp các công dân trong việc cùng
nhau theo đuổi và bảo vệ quyền lợi và các giá trị của họ. Trong khi các
nhóm của xã hội dân sự có thể đôi lúc thắng thế một cách tạm thời bởi
con số thô (như trong các cuộc bãi công và biểu tình), họ thường không
hiệu quả trong việc tranh cãi với các chính sách của nhà nước hay bảo vệ
lợi ích của mình, trừ khi họ nắm được thông tin. Điều này đặc biệt đúng
trong các tranh luận về chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia, khi
mà bên dân sự ở các nước đang phát triển thường thiếu những kiến thức
căn bản nhất. Báo chí tự do chỉ là một kênh cung cấp cho công chúng
thông tin và các quan điểm thay thế. Các tổ chức đối lập có thể cung cấp
cho các công dân những thông tin khó kiếm về các hoạt động của chính
phủ mà không cần dựa vào cái nhà nước nói là nó đang thực hiện. Đây là
một kỹ thuật căn bản của các tổ chức nhân quyền: bằng cách công kích các
tuyên bố chính thức, họ làm cho nhà nước khó khăn hơn trong việc che
giấu sự đàn áp và lạm dụng quyền lực.
Sự lan truyền của thông tin và các tư
tưởng mới là thiết yếu cho việc đạt được cải cách về kinh tế trong một
nền dân chủ, và đây là chức năng thứ chín của xã hội dân sự. Trong khi
các chính sách ổn định kinh tế trong các tình huống khủng hoảng phải
được giới lãnh đạo trúng cử thực thi một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và
đơn phương, thì các cải cách kinh tế mang tính cấu trúc sâu hơn, như tư
nhân hoá, tự do hoá thương mại và tài chính- có vẻ như sẽ có hiệu quả
lâu dài và rộng khắp hơn nếu chúng được thực thi qua một tiến trình mang
tính dân chủ.
Cải cách kinh tế thành công đòi hỏi sự
ủng hộ của các liên minh chính trị trong xã hội và trong lập pháp. Những
liên minh như thế không phải là tức thì, chúng phải được tạo lập dần
dần. Ở đây, vấn đề chính không phải là quy mô, tính độc lập hay nguồn
lực của xã hội dân sự, mà là sự phân phối của nó giữa các lợi ích. Các
lợi ích cũ xác lập từ trước, những cái có nguy cơ bị mất đi do cải cách,
thường được tổ chức thành các cấu trúc như các công đoàn trong khu vực
quốc doanh và các mạng lưới kết nối các giám đốc của các doanh nghiệp
nhà nước hay chủ các ngành công nghiệp được ưu đãi với các ông chủ trong
đảng cầm quyền. Đây chính là những lợi ích sẽ cản đường cải cách kinh
tế, vốn sẽ đóng cửa các ngành công nghiệp không hiệu quả, giảm sự can
thiệp của nhà nước và mở nền kinh tế ra cho cạnh tranh nội địa và quốc
tế mạnh mẽ hơn. Các lợi ích mới và phân tán hơn, vốn sẽ được hưởng lợi
từ cải cách –ví dụ như nông dân, các doanh nghiệp nhỏ, và người tiêu
dùng- thường là có tổ chức yếu hơn và thông tin kém hơn về các chính
sách mới sẽ ảnh hưởng đến họ. Ở châu Á, Mỹ Latinh, và Đông Âu, những
diễn viên mới trong xã hội dân sự- như là các viện nghiên cứu kinh tế,
phòng thương mại, và các phóng viên, nhà bình luận và hãng truyền hình
chuyên sâu về kinh tế học- đang bắt đầu vượt qua những rào cản về thông
tin và tổ chức, đang vận động sự ủng hộ (và vô hiệu hoá những chống đối)
cho các chính sách cải cách.
Cuối cùng, có một chức năng thứ mười của
xã hội dân sự- cái tôi đã đề cập trước đây- bắt nguồn từ sự thành công
của chính chức năng trước. “Tự do liên kết”, Tocqueville triết lý, có
thể, “sau khi khuấy động xã hội một thời gian, … cuối cùng sẽ làm cho
nhà nước mạnh lên” [9]. Bằng việc nâng cao tính khả tín, tính phản hồi,
bao dung, hiệu quả và do đó tính chính đáng của hệ thống chính trị, một
xã hội dân sự sống động sẽ đem lại cho các công dân một sự tôn trọng nhà
nước và sự tham gia tích cực vào đó. Thêm nữa, một những liên kết đa
dạng có thể còn làm nhiều hơn là nhân thêm các đòi hỏi cho nhà nước; nó
còn có thể nhân lên năng lực của các nhóm để tự cải thiện phúc lợi của
chính mình mà không cần đến nhà nước. Các nỗ lực phát triển ở cấp cơ sở
do đó có thể đỡ bớt gánh nặng các kỳ vọng đặt lên vai nhà nước, và do đó
giảm bớt vai trò của chính trị, đặc biệt là ở mức quốc gia ª
Lâm Yến, Khải Minh dịch
Nguồn: Larry Diamond and Marc F. Platter:
“The Global Resurgence of Democracy”; Second Edition (The John Hopkins
University Press, 1996), 227-240.
[1] Định nghĩa các khái niệm này được
rút ra từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng ảnh hưởng chính là từ Naomi
Chazan. Xem cụ thể trong Chazan, “Africa’s Democratic Challenge:
Strengthening Civil Society and the State,” World Policy Journal 9
(Spring 1992): 279-308. Xem thêm Edward Shils, “The Virtue of Civil
Society,” Government and Opposition 26 (Winter 1991): 9-10, 15-16; Peter
Lewis, “Political Transition and the Dilemma of Civil Society in
Africa,” Journal of International Affairs 27 (Summer 1992): 31-54.
Marcia A.Weigle và Jim Butterfield, “Civil Society in Reforming
Communist Regimes: The Logic of Emergence,” Comparative Politics 25
(October 1992): 3-4; và Philippe C. Schmitter, “Some Propositions about
Civil Society and the Consolidation of Democracy” (Báo cáo tại một hội
thảo về “Reconfiguring State and Society,” University of California,
Berkeley, 22-23 April 1993).
[2] Samuel Huntington, “Will More
Countries Become Decocratic?” Political Science Quarterly 99 (Summer
1984): 204. Xem thêm Seymour Martin Lipset, Political Man (Baltimore:
John Hopkins University Press, 1981), 52.
[3] Bronislaw Geremek, “Civil Society Then and Now,” Journal of Democracy 3 (April 1992): 3-12.
[4] Alexis de Tocqueville, Democracy in America, 2 vols. (New York: Vintage Books, 1945 [orig. publ 1840]), 2:124.
[5] María Rosa de Martini và Sofía de
Pinedo, “Women and Civic Life in Argentina,” Journal of Democracy 3
(July 1992): 138-46 và María Rosa de Martini, “Civic Participation in
the Argentine Democratic Process,” in Larry Diamond, ed., The Democratic
Revolution: Struggles for Freedom and Pluralism in the Developing World
(New York: Freedom House , 1992), 29-52.
[6] Georgina Waylen, “Women and
Democratization: Conceptualizing Gender Relations in Transition
Politics,” World Politics 46 (April 1994): 327-54. Mặc dù O’Donnell và
Schmitter nói về các nguy cơ của việc huy động quần chúng quá mức trong
quá trình chuyển đổi, chỉ trích của bà đối với khoa học về dân chủ nói
chung-rằng môn khoa học này đã coi nhẹ vai trò của xã hội dân sự-đã
xuất phát từ chỗ khái quát hóa một cách không công bằng và hẳn nhiên là
không thể áp dụng cho Phi Châu. Hơn thế, chấp nhận quan điểm thách thức
của bà rằng xã hội dân sự đóng vai trò trung tâm trong quá trình dân chủ
hóa không đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận quan điểm khăng khăng của bà
trong việc định nghĩa dân chủ bao gồm cả các quyền kinh tế, xã hội và
chính trị.
[7] Jonathan Fox, “Latin America’s Emerging Local Politics,” Journal of Democracy 5 (April 1994): 114.
[8] Dette Pascual, “Organizing People Power in the Philippines,” Journal of Democracy 1 (Winter 1990): 102-9.
[9] Tocqueville, Democracy in America, 2:126.
————————————————————————
SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 2/2006
0 comments:
Post a Comment