Vậy chế độ chính trị là gì và vai trò quan trọng của nó như thế nào ?
Chế độ chính trị là cách tổ chức chính trị, kinh tế xã hội, luật pháp, hành chính, có nhiệm vụ điều hành đời sống của quần chúng nhân dân. Có thể nói, chế độ chính trị như nền tảng của một ngôi nhà và quần chúng nhân dân là những con người sinh sống trong ngôi nhà đó. Nền móng căn nhà có kiên cố, vững chãi thì con người mới được bảo vệ, được sống ổn định, no ấm và hạnh phúc. Trái lại, một ngôi nhà xây dựng trên một nền tảng không tốt đẹp, không vững chắc, có thể sập bất cứ lúc nào, tất nhiên tạo sự bất ổn cho người dân.
Do tính chất và tầm quan trọng đặc biệt của chế độ chính trị đối với sự phát triển của xã hội, cho nên trong Hiến pháp của nước ta cũng như trong Hiến pháp của nhiều nước, chế độ chính trị thường được ghi nhận trong chương đầu với vị trí là chế định pháp lý cơ bản, chi phối nội dung của các chế định khác của Hiến pháp. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, chế định về chế độ chính trị nước ta đã trải qua một giai đoạn phát triển quan trọng, trong đó giai đoạn sau là sự kế thừa và phát triển của giai đoạn trước ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, các quy định và nguyên tắc chính trị cơ bản về chế độ chính trị đã thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết lập, củng cố và bảo vệ chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
NHÓM 4 - LUẬT 3B
1.1 Chính trị
- là “toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giưã các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực, sự tham gia vào công việc nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. ( Trung tâm Từ điển quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tập 1, tr.478)
1.2 Chế độ chính trị:
- “là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm của luật Hiến pháp ( bao gồm các nguyên tắc, quy phạm hiến định và các nguyên tắc, quy phạm pháp luật thể hiện trong các nguồn khác của luật hiến pháp) để xác lập và điều chỉnh các vấn đề về chính thể và chủ quyền quốc gia, về bản chất và mục đích của nhà nước, về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân, về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và chính sách đối nội, đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. (Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học luật Hà Nội, tr.129)
- “là một chế định cơ bản của luật Hiến pháp, nó chi phối hầu hết các chế định khác trong Hiến pháp. Đó là các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng cho việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.” (Trích tập bài giảng: Những vấn đề cơ bản về Luật Hiến pháp, giảng viên Lưu Đức Quang)
1
2
2.1. Quyền dân tộc cơ bản
2.1.1 Khái niệm:
Quyền dân tộc cơ bản là những quyền tự nhiên và thiết yếu của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Hiến pháp năm 1946 và 1959 khẳng định quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta là: Độc lập, chủ quyền và thống nhất.
Trên cơ sở kế thừa và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Cách mạng Việt Nam, các quyền dân tộc cơ bản đã được nhận thức đầy đủ hơn trong Hiến Pháp 1980 và 1992, đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
2.1.2 Cơ sở hiến định: Điều 1, điều 13 Hiến pháp 1992
2.1.3 Nội dung:
Khẳng định những giá trị thiêng liêng của quyền dân tộc cơ bản - độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; tuyên bố với mục đích phòng ngừa ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm các quyền dân tộc cơ bản, xâm hại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
· Độc lập:
Đây là quyền quan trọng nhất của một dân tộc, một quốc gia, là yếu tố tiên quyết để có các quyền khác. Một quốc gia bị đô hộ, xâm lược không độc lập thì quốc gia đó không thể có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
· Chủ quyền:
Chủ quyền là quyền tự quyết của dân tộc về vận mệnh của mình, về các chính sách đối nội và đối ngoại mà không chịu sự áp đặt từ bất cứ một dân tộc nào khác.
· Thống nhất:
Một quốc gia thống nhất là một quốc gia thống nhất từ Trung ương đến địa phương, có bộ máy nhà nước thống nhất và một hệ thống pháp luật duy nhất.
· Toàn vẹn lãnh thổ:
Lãnh thổ quốc gia bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời được quốc tế thừa nhận. Một quốc gia toàn vẹn lãnh thổ thì lãnh thổ của quốc gia đó phải đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước.
Như vậy, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là bốn yếu tố cẩu thành quyền dân tộc cơ bản, có liên quan mật thiết với nhau. Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ nên có thể khẳng định nước ta có đầy đủ các quyền dân tộc tự quyết mà không phụ thuộc và bất cứ quốc gia hay các thế lực nào khác.
2.2. Bản chất của Nhà nước
Cơ sở hiến định: Điều 2 - Hiến pháp 1992 đã sửa đổi bổ sung
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”
Như vậy bản chất của nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bản chất này được thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
- Hình thức chính thể của nhà nước: Ngay sau khi độc lập, nhân dân ta đã lựa chọn hình thức chính thể của Nhà nước là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (điều 1, Hiến pháp 1946) và qua các giai đoạn phát triển, chính thể của Nhà nước ta hiện nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa. Với các hình thức chính thể này, quyền dân chủ của nhân dân được phát huy và mở rộng.
- Cơ sở chính trị xã hội của Nhà nước: Nhà nước ta dựa trên sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đây là cơ sở vững chắc của chính thể dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Cơ sở kinh tế của Nhà nước: nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, sở hữu tư nhân là động lực cho nền kinh tế phát triển.
- Bản chất của Nhà nước thể hiện trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đó là các nguyên tắc: tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân (điều 2, Hiến pháp 1992), nguyên tắc Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước (điều 4, Hiến pháp 1992), nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ các dân tộc (điều 5, Hiến pháp 1992), nguyên tắc tập trung dân chủ (điều 6, Hiến pháp 1992), nguyên tắc pháp chế XHCN (điều 12, Hiến pháp 1992). Các nguyên tắc này đều nhằm mục đích thể phát huy tính dân chủ của Nhà nước.
- Bản chất của nhà nước thực hiện ở các chính sách của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục. Mọi chủ trương chính sách của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của nhân dân, không phải vì lợi ích của một giai cấp hay một nhóm người nào khác.
Trên thực tế, các cơ quan và cán bộ viên chức nhà nước còn nhiều biểu hiện trái với bản chất của Nhà nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền là một vấn nạn của nước ta đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương chống tham nhũng, lãng phí và tiến hành cải cách hành chính để phát huy bản chất tốt đẹp của nhà nước nhưng có thể nói những cải cách này sẽ là một chặng đường rất gian nan.
2.3. Mục đích của Nhà nước
2.3.1 Cơ sở hiến định: Điều 3 Hiến pháp 1992
2.3.2 Nội dung:
“Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”
Như vậy mục đích của nhà nước là tạo mọi điều kiện để người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Để thực hiện mục tiêu này, nhà nước ta thông qua các chương về “quyền và nghĩa vụ của công dân”, về “chế độ kinh tế” và “văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ” trong Hiến pháp để cụ thể những chính sách để người dân có đầy đủ điều kiện xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện cá nhân.
Các ngành luật trên cơ sở hiến pháp đã quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của công dân, tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ chính đáng của mình để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Ngoài ra các chính sách của Đảng và nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước đều hướng đến người dân, lấy dân làm gốc, tất cả vì nhân dân.
Nhà nước ta đang từng bước thực hiện mục tiêu của mình trong thời kỳ quá độ lên xãhội chủ nghĩa thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy thực tế thực hiện mục tiêu này còn gặp nhiều bất cập và chưa thỏa đáng do trình độ của cán bộ viên chức nhà nước cũng như nạn tham ô, tham nhũng của một số quan chức biến chất nhưng nhìn chung trên lý thuyết các chính sách để thực hiện mục tiêu của nhà nước ta có nhiều điểm tiến bộ và phù hợp với nhu cầu của người dân
2.4. Vị trí, vai trò của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
2.4.1. Định nghĩa Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là hệ thống các thiết chế tham gia vào việc tổ chức thực hiện quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
2.4.2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Điều 2, Hiến Pháp 1992: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị – “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. So với các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị, Nhà nước có những ưu thế sau:
· Nhà nước là đại diện chính thức cho các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội;
· Nhà nước là thiết chế chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân;
· Nhà nước ban hành và sử dụng pháp luật quản lý xã hội;
· Nhà nước có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện sự quản lý của mình;
· Nhà nước là thiết chế chính trị duy nhất có chủ quyền quốc gia.
Qua 60 năm xây dựng và phát triển, Nhà nước ta luôn giữ vị trí trụ cột của hệ thống chính trị, phát huy vai trò to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và những thành tựu đã đạt được, Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu điểm như: tổ chức bộ máy cồng kềnh, nạn quan liêu, lãng phí, tham nhũng còn nghiêm trọng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn hạn chế…
2.4.3. Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4, Hiến Pháp 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Như vậy Đảng cộng sản là một bộ phận cấu thành và là hạt nhân chính trị lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Nội dung lãnh đạo:
· Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trong từng thời kì phát triển trên tất cả các lĩnh vực.
· Đảng vạch ra phương hướng và nguyên tắ cơ bản là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
· Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục và vận động quần chúng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
· Đảng thực hiện kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các Đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Phương pháp lãnh đạo: phương pháp giáo dục, vận động, thuyết phục, phương pháp nêu gương dựa vào uy tín, năng lực của các Đảng viên và tổ chức cở sở Đảng.
Trong thời gian qua sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và hệ thống chính trị vẫn còn khuyết điểm hạn chế, phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới… Tình trạng Đảng bao biện, làm thay, can thiệp sâu vào công việc chức năng của Nhà nước vẫn còn tồn tại, chưa phát huy hết khả năng của các tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị và quyền làm chủ của nhân dân. Để khắc phục khuyết điểm này, Đảng ta đã chủ trương và kiên quyết tự đổi mới và chấn chỉnh, phát huy ở tầm cao hơn bản lĩnh và sức chiến đấu của Đảng đặc biệt là về năng lực tổ chức.
2.4.4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Điều 9, Hiến Pháp 1992: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” – thể hiện tính xã hội rộng rãi của hệ thống chính trị và là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
· Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân;
· Thực hiện phản biện xã hội;
· Tham gia thành lập và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước;
· Tham gia quản lý nhà nước;
· Tham gia xây dựng pháp luật;
· Vận động nhân dân chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2.5. Hình thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
2.5.1. Quyền lực nhà nước
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng nhà nước. Quyền lực nhà nước có ba bộ phận cấu thành gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
2.5.2. Hình thức nhân dân thực hiện QLNN
· Dân chủ đại diện: nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 6, Hiến pháp 1992), thông qua các tổ chức chính trị – xã hội.
· Dân chủ trực tiếp: nhân dân có quyền bầu cử, bãi nhiệm các đại biểu dân cử; thực hiện quyền làm chủ ở cơ sở; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
2.6. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của BMNN
2.6.1. Nguyên tắc tập quyền XHCN;
2.6.2. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo;
2.6.3. Nguyên tắc bình đằng, đoàn kết dân tộc;
2.6.4. Nguyên tắc tập trung dân chủ;
2.6.5. Nguyên tắc pháp chế XHCN.
2.7. Mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân dân
Điều 8 của Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.”
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước là những người được giao phó thực hiện quyền lực nhà nước và có thể lạm dụng các quyền được giao này. Điều 8 thể hiện nguyên tắc hiến định về thái độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước đối với người dân. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân còn được thể hiện trong các bộ luật như Luật Cán bộ, Công chức số 22/2008/QH12, và Luật chống tham nhũng số 55/2005/QH11.
2.8. Chính sách dân tộc
Chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc là những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, một trong những nội dung quan trọng phản ánh bản chất của chế độ chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cả bốn bản hiến pháp đểu thể chế hóa chính sách và đường lối này thành nội dung cụ thể của các điều luật.
Hiến pháp năm 1946 ngay trong lời nói đầu đã ghi: “ Hiến pháp Việt Nam phải được xây dựng trên các nguyên tắc cơ bản dưới đây: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Trong các điều 1,6,7 quy định địa vị pháp lý và quyền bình đẳng của tất cả mọi người, mọi người đều ngang quyền về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa và bình đẳng trước pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng làm nền tảng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đồng thời Điều 8 còn ghi nhận: “ …ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung”.
Hiến pháp năm 1959, trong lời nói đầu ghi nhận tinh thần đoàn kết dân tộc ta trong đấu tranh chống xâm lược của nước ngoài giải phóng đất nước và tầm quan trọng của chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước, xác định quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc là một trong những nội dung quan trọng được quy định trong Hiến pháp. Điều 3 Hiến pháp 1959 quy định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sữa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc của mình”. Đồng thời cũng quy định: “ Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa chung”.
Chính sách đoàn kết, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã trở thành tư tưởng chỉ đạo trong toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của nhà nước ta và của hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh to lớn để đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hiến pháp năm 1980 ra đời sau khi đất nước thống nhất, cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. tư tưởng về đoàn kết dân tộc có những điều kiện mới để phát triển. Những quy định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã được kế thừa và phát triển ở mức cao hơn và được ghi nhận trong Điều 5 Hiến pháp năm 1980. Đồng thời Điều 9 Hiến pháp năm 1980 khẳng định mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, một lần nữa truyền thống đoàn kết dân tộc lại là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta tiếp tục vượt qua khó khăn, thu được những thành tựu mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một cách đầy đủ và sâu sắc chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc của nước ta trong Điều 5. Đồng thời nhận rõ tầm quan trọng và sức mạnh to lớn của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc, Điều 9 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”. Với những quy định trong Điều 5 và Điều 9 Hiến pháp năm 1992, chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc của Nhà nước ta không những được ghi nhận mà còn được bảo đảm bằng những điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, tổ chức và pháp lí.
Như vậy, chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc đã được thể hiện một cách nhất quán trong toàn bộ bốn bản hiến pháp, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa từ ngàn đời của dân tộc ta, đã thực sự phát huy tác dụng, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, phục vụ thiết thực lợi ích của các dân tộc và toàn thể nhân dân.
2.9. Chính sách đối ngoại
Bản chất của chế độ chính trị trong mỗi nước không chỉ được phản ánh trong các chính sách đối nội mà còn thể hiện rõ nét trong chính sách đối ngoại, trong việc thiết lập và giải quyết các quan hệ với các nước khác
Từ khi thành lập đến nay, Nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất quán chính sách đối ngoại hòa bình hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của mỗi nước và những nguyên tắc cùng chung sống hòa bình. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử trong mỗi giai đoạn cụ thể, cách thể hiện trong các bản Hiến pháp nước ta không hoàn toàn giống nhau. Những năm gần đây, cùng với những thành tựu to lớn mà nhà nước và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được trong nước, hoạt động đối ngoại của chúng ta đã có những bước phát triển quan trọng. Với phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với các nước trên thế giới”, nhà nước ta đã không ngừng mở rộng quan hệ với các nước, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đường lối đó đã được thể chế hóa một cách đầy đủ và sâu sắc trong Điều 14 Hiến pháp năm 1992: “ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Đường lối đối ngoại thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta và truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta và phù hợp với xu hướng phát triển của tế giới hiện đại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.
3.1. Quan hệ chính trị/chế định chính trị - Bộ máy nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước
Như đã trình bày ở các phần trên, chế định chế độ chính trị liên quan trực tiếp và mật thiết đến việc tổ chức bộ máy nhà nước và quyền lực nhà nước. Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, “các quy định và nguyên tắc trong chương chế độ chính trị là cơ sở, nền tảng chính trị của các chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân, Toà án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.”
Có thể nói cả 14 điều trong chương Chế độ chính trị của Hiến pháp 1992 đều có ảnh hưởng, dù ít hay nhiều, đến các các chương về bộ máy nhà nước (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân, Toà án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân). Các quy định và nguyên tắc của chương Chế độ chính trị nêu ra định hướng, nguyên tắc về cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều 4 của Hiến pháp 1992 nêu ra nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Dù nguyên tắc này chỉ được quy định tại điều 4 của Hiến pháp, và không thể thấy rõ ràng sự phát triển của nguyên tắc này trong các chương về bộ máy nhà nước cũng như chưa có luật về Đảng, nhưng trên thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là rất lớn và không thể phủ nhận.
Phần này của bài thuyết trình chủ yếu đề cập đến điều 2 và điều 6 trong mối liên hệ của nội dung của hai điều này đối với các chương liên quan đến bộ máy nhà nước vì chúng nêu lên 2 nguyên tắc lớn trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và bản chất của Nhà nước Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
3.1.1 Nguyên tắc tập quyền XHCN:
Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...” Điều này thể hiện ở việc tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội,cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nắm cả 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 83, chương Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam..." Theo điều 83, Quốc hội có cả 3 quyền: lập pháp (quyền lập hiến, lập pháp), hành pháp (quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng,…), tư pháp và giám sát (toàn bộ các hoạt động của Nhà nước). Ngoài ra, cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội còn được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10 được Quốc Hội thông qua ngày 25/12/2001.
3.1.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Điều 6 , Hiến pháp 1992 “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Như vậy để thực hiện quyền lực nhà nước, nhân dân thông qua đại diện là Quốc hội, và HĐND các cấp. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc này được cụ thể hoá qua các điều trong chương về Quốc hội và Hội đồng Nhân dân như điều 97, 98, 121, 122. Các điều này quy định cụ thể hơn về công việc đại diện cho các cử tri của đại biểu hội đồng nhân dân và đại biểu quốc hội. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được quy định tại Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân.
3.1.3 Nhà nước pháp quyền XHCN
Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.” Như vậy, Nhà nước pháp quyền là một nguyên tắc hiến định. Ngoài ra, theo điều 2 của Hiến pháp 1992, sự tồn tại của ba loại quyền lực nhà nước, hành pháp, lập pháp và tư pháp, được ghi nhận.
Dựa trên nguyên tắc hiến định về nhà nước pháp quyền và việc thừa nhận sự tồn tại của ba quyền hành pháp – lập pháp – tư pháp, một số điều của các chương Chính phủ, Toà án nhân dân, … đã được quy định theo hướng phù hợp với tính chất riêng của các nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp và tư pháp).
Ví dụ, điều 109 “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất …”, Điều 110 “Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội …” cho phép Chính phủ (hành pháp) có một sự độc lập nhất định giữa với Quốc hội để thực hiện các công việc hành pháp liên quan. Điều 110 cũng quy định “Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, …”quy định Chính phủ phù hợp với tính chất hành pháp: chính phủ mạnh và dám chịu trách nhiệm.
Điều 130 “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật” và Điều 128 “Chế độ bổ nhiệm, …” có ý nghĩa tăng cường sự độc lập cho tư pháp.
3.1.4 Liên hệ thực tiễn:
Trong các phiên chất vấn của Quốc hội, có thể thấy hoạt động chất vấn của Quốc hội, một trong những hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, diễn ra khá sôi nổi. Các đại biểu quốc hội đã thực hiện các quyền đại diện của mình đối với các thành viên của chính phủ thông qua việc đặt câu hỏi về các vấn đề lớn hiện nay như hoạt động thanh tra của Chính phủ, tình trạng thiếu điện, dự án đường sắt cao tốc, dự án bô xit Tây Nguyên. Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết khi chất vấn về vụ Vinashin, đã yêu cầu thành lập Ủy ban điều tra, yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm Thủ Tướng, và các Bộ trưởng liên quan. Việc yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm một trong những quyền mà các đại biểu Quốc hội đại diện cho người dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Theo quy định tại Hiến pháp, Quốc hội, với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Tuy nhiên, ngược lại, không có cơ quan nào giám sát hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là hoạt động lập pháp. Ông Nguyễn Văn An, nguyên chủ tịch Quốc hội, phát biểu những quan ngại của ông về tình trạng vi hiến “Vi hiến mà chúng ta coi là thói quen, coi là bình thường thì rất đáng phải báo động.” Ngay cả tại các nước có trình độ kỹ thuật lập pháp cao vẫn có nhiều điều luật, văn bản pháp luật bị xem là vi hiến. Vì vậy, ở một nước mà trình độ kỹ thuật lập pháp chưa cao như nước ta, vi hiến là khó tránh khỏi và việc giám sát hoạt động lập pháp, đặc biệt là công tác bảo vệ hiến pháp là vô cùng cần thiết.
3.2.1 Khái niệm quyền và nghĩa vụ của công dân
Quyền công dân trong khái niệm quyền con người theo quan điểm của CN Mac-Lenin:
· Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nhất định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hôi, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc cơ bản.
· Quyền con người có mối liên hệ mật thiết với quyền công dân. Theo Mac, quyền con người và quyền công dân luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng với nhau, quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể, một chế độ chính trị-xã hội nhất định.
Nghĩa vụ của công dân
Mối quan hệ giữa công dân và nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản, thể hiện mối quan hệ pháp lý bình đẳng giữa nhà nước và cá nhân. Do đó người dân muốn được hưởng quyền làm chủ của mình và được nhà nước bảo đảm quyền đó thì người dân cũng phải có nghĩa vụ với nhà nước, nhà nước bằng quyền lực của mình buộc cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ của mình để tạo những tiền đề cho nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình với công dân, nghĩa vụ của công dân không xuất phát từ ý chí chủ quan của mỗi cá nhân mà được nhà nước quy định và cụ thể hóa bằng Hiến pháp và pháp luật. Như vậy nghĩa vụ của công dân là những quy định pháp luật buộc công dân phải hành động hay không hành động trong những trường hợp nhất định, mang tính cưỡng chế nhà nước.
3.2.2 Mối quan hệ giữa chế định chế độ chính trị với chế định quyền và nghĩa vụ của công dân
Từ nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ”, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ mật thiết giữa chế độ chính trị với các chế định khác trong Hiến pháp nói chung và chế định quyền và nghĩa vụ của công dân nói riêng. Những nguyên tắc, những quy định của chế định chế độ chính trị giữ vai trò nền tảng, chi phối và định hướng cho các quy định trong chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Mối quan hệ này được thể hiện rõ ràng trong Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo điều 2 – Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi bổ sung) quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Quy định này điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Theo đó, nhân dân là chủ của nhà nước, quyền lực của nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân và mọi chính sách của nhà nước đều hướng đến nhân dân.
Để cụ thể vai trò làm chủ của nhân dân theo điều 2 của chế định chế độ chính trị, điều 53, 54 và điều 69 của chế định quyền công dân quy định “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước có tổ chức trưng cầu ý dân.”,
“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ, văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định”
Và “Công dân có quyền được tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Để hiện thực hóa quyền của công dân, điều 3 – chế định chế độ chính trị quy định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Nhà nước đảm bảo quyền của công dân bằng các chính sách và biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Từ quy định này, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân cũng quy định các điều sau:
- Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh:
o Điều 57 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”
o Điều 58: Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tái sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh doanh”
- Thực hiện mục tiêu mọi người có cuộc sống ấm no, có điều kiện phát triển toàn diện:
o Điều 59 quy định “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân, bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.”
o Điều 60 quy định “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật… Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp”
o Điều 61 quy định “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe”
Ngoài các quy định về quyền cơ bản của công dân trong nhà nước pháp quyền, trong chế định chế độ chính trị còn quy định nghĩa vụ của công dân. Đối với công dân thực hiện quyền làm chủ ở cơ sở bằng cách tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội theo điều 11 phải “có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”.
Tương ứng với quy định trên, điều 77 quy định “bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân” và điều 78 quy định “công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng”
Về nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, điều 12 quy định “… công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật… Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”, thì tại điều 79 của chế định quyền và nghĩa vụ của công dân quy định “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”
Từ các phân tích trên có thể thấy, chế định chế độ chính trị tác động, chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Các quy định trong chế định chế độ chính trị là nên tảng để xây dựng các quy định trong chế định quyền và nghĩa vụ của công dân.
3.2.3 Thực tế việc thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay
Có thể nói việc thực hiện quyền công dân ở nước ta thời gian vừa qua đã có nhiều tiến bộ, một số quyền cơ bản của công dân đã được thực hiện triệt để. Tuy nhiên, tình hình thực hiện quyền công dân nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và chưa đầy đủ.
- Về kinh tế: Với việc quy định công dân có quyền tự do kinh doanh, nhà nước đã hiện thực hóa mong muốn được làm giàu, được hưởng lợi ích do chính bản thân mình tạo ra của người dân, xóa bỏ cơ chế bình quân, cào bằng của chế độ bao cấp. Tuy nhiên với việc thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, mọi nguồn lực của thành phần kinh tế này đều do nhà nước cung cấp trong khi tình hình quản lý tài sản công của nước ta còn yếu kém, thì vô hình chung, nhà nước đã tạo ra thế cạnh tranh không cân bằng giữa các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Như vậy quyền tự do kinh doanh của công dân và quyền bình đẳng trong kinh doanh của công dân có vẻ như bị xâm phạm (ví dụ trong lĩnh vực điện, nước, nông nghiệp, viễn thông…)
Mặt khác, việc quản lý tài sản của các công ty nhà nước ở nước ta theo tiền lệ “cha chung không ai khóc”, thái độ vô trách nhiệm của cán bộ quản lý đã gây lãng phí, thất thoát tài sản của nhân dân ảnh hưởng đến chính sách xã hội của nhà nước đối với công dân (gia đình chính sách và các đối tượng khác cần được hưởng trợ cấp từ xã hội) cũng như nghĩa vụ thuế của công dân đối với nhà nước (thâm hụt ngân sách nhà nước sẽ tiến hành thu thuế để bù đắp)
Các thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh tế còn quá rườm rà và thái độ cửa quyền, quan liêu của nhân viên hành chính cũng xâm phạm đến quyền của công dân.
- Về chính trị: Hiến pháp quy định “công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, biểu quyết khi nhà nước có trưng cầu ý dân”, việc trưng cầu ý dân là một biện pháp thể hiện quyền dân chủ cao nhất, mặc dù Hiến pháp có quy định nhưng nước ta lại chưa có luật nào quy định về quyền trưng cầu ý dân của công dân để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc quản lý nhà nước, quyết định các vấn đề liên quan đến kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và các vấn đề quan trọng của quốc gia. Trên thực tế, công dân của nước Việt Nam không thực hiện quyền trưng cầu ý dân, mọi vấn đề quan trọng của đất nước, người dân chỉ có thể thông qua đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nhưng đôi khi vì một mục đích chính trị nào đó, các quyết định quan trọng vẫn được thông qua dù không có sự đồng tình của người dân.
Một quy định nữa về việc được quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đây là quy định rất tiến bộ về mặt lý thuyết nhưng thực tiễn quy định này không khả thi vì các “vị” được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã được chỉ định và sắp đặt trước nên việc tự ứng cử của công dân (nếu có) cũng không có kết quả.
- Về văn hóa - xã hội: theo quy định của Hiến pháp “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”, trên thực tế quyền này được thực hiện không triệt để. Về tự do báo chí, tự do ngôn luận, các cơ quan báo chí, truyền thông đều do nhà nước quản lý nên các thông tin được cung cấp sẽ phụ thuộc vào ý chí của nhà nước, như vậy có thể nói quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở nước ta bị hạn chế. Đối với việc biểu tình (hình như chỉ cho phép người lao động biếu tình đối với tổ chức kinh tế, tiền lệ nước ta chưa có biểu tình chính trị)
Theo quy định của Hiến pháp “các cơ quan nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” nhưng thực tế các cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước thực sự là “nỗi khiếp sợ” của người dân khi cần liên hệ công tác vì thái độ hách dịch, cửa quyền, quan liêu (không phải tất cả nhưng tới 90% đặc biệt là ở các địa phương có trình độ dân trí thấp và trung bình, các cán bộ nhà nước có thể chỉ là COCC)…..
- Về hình sự, hành chính: theo điều 72 “người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thưởng thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” nhưng thực tế do trình độ dân trí thấp nên khi cơ quan nhà nước làm trái pháp luật nhưng người dân không biết thì nhà nước chỉ “cười mỉm chi” cho qua chuyện chứ không chủ động xin lỗi công dân, điển hình là vụ “bắt quả tang vụ mua bán dâm” ở Quảng Ninh, mặc dù báo chí đã đưa tin nhưng chưa có 1 cơ quan nào đứng ra xin lỗi người trong cuộc cũng như chịu trách nhiệm dù đó là nghề bị pháp luật cấm……
Cơ sở Hiến định: Điều 3 và Chương II Chế độ kinh tế của Hiến pháp 1992
Theo Marx, cơ sở hạ tầng (quan hệ kinh tế) quyết định kiến trúc thượng tầng, ngược lại những kiến trúc thượng tầng có thể tác động ngược lại cơ sở hạ tầng. Có thể nói, chương Chế độ kinh tế trong Hiến pháp có vị trí khá độc lập với các quy định trong chương Chế độ chính trị nhưng chế độ chính trị cũng có sự ảnh hưởng nhất định đối với chế độ kinh tế.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối Đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Như vậy, trên thực tế, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện kinh tế thị trường từ năm 1986, nhưng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ được thể chế hoá sau đó thông qua Hiến pháp năm 1992.
3.3.1 Khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ kinh tế đều được lượng hóa bằng tiền tệ, các đối tượng của sản xuất đều là đối tượng mua và bán, các doanh nghiệp đều có mục đích tự nhiên là tìm kiếm lợi ích cho chính mình theo sự dẫn dắt của những tín hiệu thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức tổ chức kinh tế vừa dựa trên các quy luật của thị trường vừa dựa trên các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
3.3.2 Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Mục đích: Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mọi thành viên trong xã hội.
Về sở hữu: tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Về phân phối: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Về cơ chế vận hành: cơ chế thị trường có sự quản vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.3.2 Liên hệ thực tiễn
Sau hơn hai mươi năm thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt là về kinh tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế. GDP bình quân theo đầu người của Việt Nam đã tăng trung bình gần 6% mỗi năm, và hàng triệu người đã thoát nghèo. Tuy nhiên, một số vấn đề liên quan đến cơ cấu kinh tế cần phải được xem xét như vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và việc sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất như đất đai.
Vụ Vinashin nổi lên như một điển hình về sự thất bại của mô hình kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước có ý nghĩa tạo rường cột cho nền kinh tế Việt Nam, giúp nâng cao tính cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới và đóng vai trò một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước để ổn định về kinh tế và chính trị. Về phía mình, để đảm nhận trọng trách này, các doanh nghiệp nhà nước được hưởng các chính sách ưu đãi, được tiếp cận về vốn, đất đai và các nguồn lực khác thuộc sở hữu nhà nước. Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp nhà nước không hoàn thành vai trò chủ đạo của mình. Các doanh nghiệp này kinh doanh không hiệu quả, không đóng góp được vào nền kinh tế. Đặc biệt, như Vinashin, doanh nghiệp nhà nước này còn tạo thêm gánh nặng quá lớn về ngân sách khi thua lỗ. Về vĩ mô, Vinashin chẳng những không thể gánh vác trách nhiệm tạo nên một nền công nghiệp đóng tàu cho Việt Nam, ngược lại, nợ xấu của Vinashin còn ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế Việt Nam nói chung khi các nhà đầu tư nước ngoài hạ thấp bậc tín nhiệm đối với trái phiếu Việt Nam. Ngoài ra, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, như đã nêu ở trên, cũng tạo ra một sự bất bình đẳng đối với nền kinh tế tư nhân trong nước, vốn được đánh giá là còn non trẻ.
Đất đai chiếm trên nửa tổng tài sản của xã hội và là một trong những tư liệu sản xuất quan trọng nhất, đặc biệt là đối với ngành kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, người nông dân hay không có quyền sở hữu loại tài sản này và việc quản lý đất đai theo Luật Đất đai vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế. Một trong những hậu quả của tình trạng này là một số người nông dân nghèo bị đẩy ra bên lề khi đất canh tác nông nghiệp của họ bị thu hồi để thực hiện các dự án khu dân cư hay khu công nghiệp, nhưng cuối cùng những dự án này lại trở thành dự án treo.
3.4. Quan hệ chính trị với các lĩnh vực khác: văn hóa, khoa học, giáo dục, an ninh quốc phòng, dân tộc, đối ngoại
3.4.1. Mối quan hệ đối với Văn hóa
3.4.1.1 Chính trị định hướng cho văn hóa phát triển
· Cơ sở hiến định:
Điều 3 HP 1992: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”
Điều 30 HP 1992 : “
· Chính trị định hướng cho văn hóa phát triển, đưa văn hóa đi theo đúng quỹ đạo của nền chính trị xã hội chủ nghĩa hướng tới một xã hội nhân văn, nhân đạo, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và nhân dân.Chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ phải hướng tới mục đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Để hoạt động văn hóa thực sự có hiệu quả, phát triển đúng theo định hướng XHCN rất cần có bàn tay nhà nước nhất là trong tình hình hội nhập thế giới như hiện nay khi mà những luồng tư tưởng mới mới xâm nhập ngày càng nhiều mà thời gian thẩm định thẩm định thì chưa có.
· Chính trị tạo điều kiện ổn định cho văn hóa phát triển. Nhà nước đảm bảo cho công dân có các quyền văn hóa thiết thực ( Đ30-34 HP 1992).
3.4.1.2 Tác động của văn hóa đến chính trị
Văn hóa là yếu tố nội sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là động lực của phát triển đất nước. Văn hóa Việt Nam mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, phản ánh tâm hồn, lối sống, tình cảm, hành động của người Việt Nam. Đối với chính tri, văn hóa Việt cũng thấm nhuần vào chủ trương, chính sách, đường lối phát triển của hệ thống chính trị và trở thành văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị có những đặc điểm sau:
· Một là, về lịch sử, văn hoá chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình hình thành ý thức dân tộc, quốc gia, kết tinh thành truyền thống dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam. Ý thức độc lập dân tộc, tự lực tự cường, tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng đã trở thành nội dung bền vững mang tính truyền thống của văn hoá chính trị Việt Nam.( Đ1, HP1992)
· Hai là, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nền văn hiến quốc gia, tinh thần yêu nước, đoàn kết, phát huy nội lực, sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, gắn liền với việc coi trọng, tôn vinh hiền tài đã tạo nênsức sống của văn hoá chính trị, và, khả năng phát huy những truyền thống, giá trị tốt đẹp đó của dân tộc đã tạo nên “độ cao” của văn hoá chính trị. (Đ3, HP1992)
· Ba là, tôn trọng đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý, quật cường dân tộc, nhưng nhân ái, khoan dung, độ lượng, vị tha. Những nét đẹp đó đã tác động, ảnh hưởng, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
do đặc điểm của địa chính trị nước ta, nên văn hoá chính trị Việt Nam có nột nét nổi bật là phải sáng tạo. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hoá dân tộc dã được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ.
Bên cạnh những nét đẹp đó, cũng cần nhận thấy rằng, do nước ta xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua quá nhiều các cuộc chiến tranh giữ nước, vì thế những yếu tố như tâm lý tiểu nông khá đậm, kinh nghiệm chủ nghĩa, triết lý chung chung, thiếu tính khách quan và cơ sở khoa học vững chắc, dễ hài lòng với mình, tâm lý chạy theo thành tích, “bệnh” hình thức..., nếu như không được hạn chế, khắc phục kịp thời, sẽ có tác động tiêu cực, bào mòn dần sức sống và khả năng sáng tạo của văn hoá chính trị Việt Nam.
3.4. 2 Mối quan hệ đối với Giáo dục
Điều 2: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữagiai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức “
[B]Nhà nước phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dướng nhân tài.
3.4.2.1 Tác động của chính trị đối với giáo dục
· Chính trị định hướng phát triển cho giáo dục. Giáo dục phải phù hợp với hệ thống quan điểm, lập trường chính trị của Đảng và Nhà nước.
Chẳng hạn: CN Mác- Lê, tư tưởng HCM là hệ tư tưởng chính thống mà học sinh phải học trong trường hiện nay.
· Đảng và nhà nước ta luôn quán triệt tư tưởng coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
· Mục đích phát triển giáo dục của Đảng ta trước hết là nâng cao trình độ của công dân, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
· Hệ thống chính trị dựa trên nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý đã tạo ra nhiều giá trị nhân đạo về quyền học tập của công dân.
Sự tham gia quản lý của nhà nước đối với công tác giáo dục đã cụ thể hóa Điều 3 HP 1992 trong chế định chính trị về thực hiện công bằng xã hội. Muốn có công bằng xã hội thì quyền của con người phải được đảm bảo, trong đó có quyền học hành, quyền lao động, quyền làm chủ xã hội; trong rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm chủ. Muốn làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri thức. Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để học, vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó. Nhà nước xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên hơn, tạo nhiều khả năng cơ hội khác nhau cho người học, đảm bảo công bằng xã hội trong học tập
3.4.2.2 Tác động của giáo dục đối với chính trị
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước
· Giáo dục hỗ trợ chính trị trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước đến gần dân hơn.
· Tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và trên hết là có lòng tự hào dân tộc, đạo đức và nhân cách tốt bổ sung các cơ quan quyền lực nhà nước.
· Điều 36 HP 1992 Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Suy cho cùng mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp giáo dục cũng là để xây dựng và bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
3.4.3 Mối quan hệ đối với khoa học công nghệ
· Cơ sở hiến định: Điều 44 hiến pháp 1992
“Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu khoa học…”
· Khoa học công nghệ giữ vai trò sống còn trong thời đại công nghiệp bùng nổ như hiện nay,nó góp phần đưa nuớc ta từ một nước có tỷ trọng nông nghiệp cao thành một nước đa dạng các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân.
· Nhà nước coi trọng và xem khoa học công nghệ là mũi nhọn trong quá trình đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 như nghị quyết của Đảng.
· Khoa học công nghệ được ứng dụng vào đời sống sẽ rút ngắn khoảng cách với thế giới về khoa học kỹ thuật
· Nhà nước thực hiện các chính sách ưu tiên,đầu tư cho khoa học để tạo ra đội ngũ trí thức biết áp dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống ngày càng cao.
· Những thành quả mà khoa học công nghệ đạt được trong những năm gần đây đã góp phần phát triển đất nước ngày càng mạnh mẽ. Sự phát triển này góp phần thúc đẩy sự bền vững của thể chế chính trị tại Việt Nam.
· Đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ của toàn dân thì các biện pháp, chính sách của nhà nước ngày càng rộng mở.
Ví dụ :
- Nhà nước đã dành những ưu đãi đầu tư cho các công ty khi tham gia vào khu công nghệ cao tại quận 9, được hưởng ưu đãi về thuê đất, được ưu tiên hợp tác với các trường đại học trong vấn đề tuyển dụng nhân sự.
- Các bệnh viện tư nhân thành lập ngày càng nhiều đã góp phần giải quyết được tình trạng quá tải của các bệnh viện lớn. Điển hình như bệnh viện tim Tâm Đức (quận 7) được thành lập trong thời gian gần đây theo chính sách xã hội hoá y tế của Nhà nước. Nó đã giảm áp lực rất lớn cho bệnh viện hàng đầu về tim mạch tại thành phố Hồ Chí Minh, đó là Viện tim TP. Hồ Chí Minh. (quận 10)
Tất cả những chính sách đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo tới khoa học ,công nghệ và đời sống của nhân dân
3.4.4 Chính sách đối với an ninh quốc phòng
· Cơ sở hiến định:
Điều 13 hiến pháp 1992: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc..”
Điều 44 hiến pháp 1992:“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân…”
An ninh quốc phòng là nhiệm vụ không phải chỉ của Nhà nước mà còn là nhiệm vụ của cả dân tộc.Có giữ gìn trọn vẹ lãnh thổ thì thể chế chính trị mới tồn tại. Đó là mệnh đề duy nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với biết bao xương máu của cha ông đã đổ xuống để giữ gìn sự trọn vẹn của lãnh thổ như ngày hôm nay.
Bằng công tác tuyên truyền và quản lý, Nhà nước xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng mạnh mẽ.
Thể chế chính trị thực hiện đường lối chính sách quốc phòng của mình theo định hướng XHCN (quốc phòng nhân dân).
Giữ vững an ninh quốc phòng cũng chính là giữ vững thành quả của cuộc cách mạng mà cha ông ta đã đổ xương máu để hoàn thành.
Hệ thống quốc phòng nhân dân phải ngày càng phát triển trong thời kỳ mới để có thể chống đỡ được các cuộc tấn công không những bằng vũ khí, khí tài quân sự mà còn bằng trí thức của người Việt Nam.
Việc thực hiện chính xây dựng từng bước đội quân tinh huệ ,vững mạnh đạ góp phần nâng cao vị thế của Nhà Nước trên toàn thế giới.
Chính sách quốc phòng gắn bó với nhân dân đã góp phần đập tan không ít các hành vi phản động của các thế lực thù địch gây ra trên lãnh thổ Việt Nam
* Xây dựng và Bảo vệ Hiến pháp – Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2010, GS. TS Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS. Trương Đắc Linh, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, ThS. Nguyễn Văn Trí
* Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội
* http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/in...062&Itemid=109 “Từ Chế định Chế độ chính trị bàn về cơ cấu của Hiến pháp”
* http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2010/12/3BA2441C/ “Moody’s hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu Việt Nam”
* Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, 28/9/2007.
* http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nha...hang/chinh-tr/ “ Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, 05/10/2010.
* http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/201...quyen-cua-dang “Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn về phương thức cầm quyền của Đảng”
0 comments:
Post a Comment