NGUYỄN MINH HẰNG - Học viện tư pháp
NGUYỄN MINH HIẾU – Toà dân sự TAND TP HCM
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 lần
đầu tiên đã pháp điển hóa các quy định về thủ tục giải quyết việc dân
sự, trong đó có việc hôn nhân và gia đình. Có thể nói, đây là một bước
đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc giải
quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có
tranh chấp, nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án công nhận một
sự kiện pháp lý, công nhận quyền về dân sự, hôn nhân gia đình… Bên cạnh
những ưu điểm, thực tiễn thụ lý và giải quyết các việc dân sự (theo
nghĩa rộng) nói chung và việc hôn nhân gia đình nói riêng đã và đang đặt
ra khá nhiều vướng mắc cần tháo gỡ và cần có sự hướng dẫn thống nhất.
Điều 28 của BLTTDS liệt kê 7 loại việc về hôn nhân và
gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Khi phát sinh quyền
yêu cầu đối với mỗi loại việc này thì thủ tục giải quyết được dẫn chiếu
tới các quy định tại phần thứ 5 “thủ tục giải quyết việc dân sự” của BLTTDS. Nhìn từ góc độ đối sánh, nếu như trong thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự các quy định về thủ tục từ nhận đơn, hướng dẫn
bổ sung nội dung đơn kiện, trả lại đơn hay thụ lý đơn, việc ra các quyết
định và các thủ tục khác… được quy định rất chi tiết thì đối với thủ
tục giải quyết việc dân sự, phần nhiều các quy định của Luật còn mang
tính khái quát, thiếu cụ thể và chi tiết.
Về nguyên tắc chung việc giải quyết việc dân sự, những quy định tại chương XX “Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự” được ưu tiên áp dụng, những vấn
đề chưa được quy định cụ thể tại chương XX thì được áp dụng các quy
định khác của BLTTDS (Điều 311 BLTTDS). Tuy nhiên, ngay trong một số vấn
đề giải quyết việc hôn nhân và gia đình mặc dù có hướng dẫn áp dụng
nhưng chưa có sự thống nhất quan điểm dẫn tới các cách hiểu khác nhau.
Điều này dễ kéo theo sự “tùy tiện” trong việc áp dụng luật. .
Xin được trao đổi về những vướng mắc của thủ tục thụ
lý, hòa giải và đường lối giải quyết… xung quanh việc hiểu và áp dụng
các quy định về thủ tục giải quyết việc hôn nhân gia đình khi chưa có
những quy định thủ tục giải quyết cụ thể đối với các tình huống như
thuận tình ly hôn, hủy kết hôn trái pháp luật và không công nhận quan hệ
vợ chồng…
1.Thuận tình ly hôn
Thụ lý việc thuận tình ly hôn
BLTTDS quy định hai thủ tục giải quyết ly hôn theo
thủ tục vụ án dân sự – ly hôn do một bên yêu cầu (Điều 27 khoản 1, Điều
179) và giải quyết thuận tình ly hôn theo loại việc dân sự (Điều 28
khoản 1, Điều 311). Cơ sở để xác định thủ tục tố tụng khi thụ lý giải
quyết vụ án hay việc hôn nhân và gia đình xuất phát từ việc xác định thế
nào là sự thể hiện ý chí thuận tình ly hôn. Trên thực tế, có trường hợp
cả hai vợ chồng ký tên vào đơn thuận tình ly hôn và yêu cầu toà án công
nhận, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp thỏa thuận (thuận tình) ly hôn
không được thể hiện trong hình thức và nội dung đơn. Chẳng hạn, trường
hợp vợ (chồng) nộp đơn yêu cầu ly hôn (ly hôn do một bên yêu cầu), sau
khi thụ lý thì chồng (vợ) gửi đơn đồng ý ly hôn hoặc trong biên bản tự
khai thể hiện ý chí cũng đồng ý với đơn xin ly hôn của vợ (chồng). Như
vậy, trong trường hợp này có xác định được là sự thuận tình hay không,
để nhận đơn thụ lý theo việc hay vụ án hôn nhân và gia đình? Về vấn đề
này, Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) đã có hướng dẫn tại công văn số
62/2001/KHXX ngày 13/6/2001 về cách hiểu thế nào là thuận tình ly hôn,
cụ thể là: “Trường hợp vợ chồng cùng viết một đơn xin thuận tình ly
hôn, thì họ là đồng nguyên đơn. Khi thụ lý tuy chỉ có một bên nộp tạm
ứng án phí nhưng cần hiểu là có sự thoả thuận với nhau ”. Hiện nay,
BLTTDS không có quy định cụ thể về trường hợp nào là thuận tình ly
hôn để thụ lý theo thủ tục việc dân sự. Vấn đề đặt ra là, có thể dựa vào
tinh thần của công văn trên để thụ lý vụ, việc dân sự theo quy định của
BLTTDS không?
Chúng tôi cho rằng, cách xác định của công văn trên
là hợp lý. Bởi lẽ, thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ và chồng cùng
yêu cầu chấm dứt hôn nhân, được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của
vợ chồng. Đơn xin thuận tình ly hôn là văn bản xác nhận chính thức ý chí
và yêu cầu của cả hai người (theo quy định tại Điều 312 BLTTDS) ngay từ
khi nộp đơn yêu cầu toà án giải quyết. Do vậy, đó là cơ sở để thụ lý
theo thủ tục việc dân sự (Điều 311 BLTTDS). Còn khi thụ lý đơn yêu cầu
ly hôn của một bên đương sự, trong quá trình toà án giải quyết vụ án,
thì nếu có sự thoả thuận ly hôn (đơn trình bày của bị đơn có nội dung
chấp nhận ly hôn, bản tự khai thể hiện ý chí thuận tình ly hôn) cũng
không làm thay đổi thủ tục giải quyết vụ án.
Thực tiễn xét xử cũng gặp những vướng mắc nhất định
khi áp dụng các quyết định tố tụng liên quan đến việc thể hiện ý chí
thuận tình ly hôn sau khi tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án. Chẳng hạn,
trường hợp vợ (chồng) làm đơn xin ly hôn (ly hôn do một bên yêu cầu) sau
đó trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án tiến hành hòa giải,
vợ (chồng) lại thuận tình ly hôn và thỏa thuận được tất cả các vấn đề
giải quyết trong vụ án. Tòa án có thể áp dụng được Điều 187 BLTDS để ra
quyết định công nhận thuận tình ly hôn trên cơ sở biên bản hòa giải đoàn
tụ không thành được hay không? Về vấn đề này, hiện nay tồn tại 2 quan
điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không thể áp dụng Điều
187 BLTTDS để ra quyết định trong trường hợp này được, do đây là loại
quan hệ mang đầy đủ những tính chất đặc trưng của quan hệ hôn nhân gia
đình, vì vậy phải áp dụng quy định hướng dẫn của Luật nội dung về vấn đề
này. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2000/NĐ- HĐTP ngày 23/12/2000
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, tại mục 10b hướng dẫn về thủ tục ly hôn do một bên yêu cầu có quy
định rõ: “trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì tòa án
lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên
tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung”. Như vậy, kết quả của việc
hòa giải đoàn tụ không thành là cơ sở để ra phán quyết bằng một bản án
chứ không thể là một quyết định công nhận thuận tình ly hôn được.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: áp dụng mục 7, phần I Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005: “nếu các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết toàn bộ vụ án thì tòa án phải lập biên bản về sự thỏa thuận
đó và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự theo quy định
tại Điều 187 BLTTDS”.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ nhất bởi lẽ, theo
BLTTDS, khi các đương sự thoả thuận được với nhau về các vấn đề phải
giải quyết trong vụ án thì toà án lập biên bản hoà giải thành (Điều 186
khoản 2). Căn cứ vào biên bản hoà giải thành, toà án ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự (Điều 187). Còn trong vụ án xin ly
hôn, toà án có tiến hành hoà giải trên cơ sở để các đương sự đoàn tụ
với nhau. Nếu các đương sự vẫn thuận tình ly hôn, có nghĩa là toà án
hoà giải không thành, do đó, sẽ không thuộc trường hợp toà án lập biên
bản về sự thoả thuận và ra quyết định công nhận sự thoả thuận, theo
hướng dẫn của Mục 7.1 phần I Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005
đã nêu ở trên. Vì vậy, tòa án phải mở phiên toà xét xử vụ án, theo hướng
dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000.
Khi thụ lý giải quyết việc thuận tình ly hôn cũng cần
xác định thời điểm chung sống để xác định tính hợp pháp của quan hệ hôn
nhân, đặc biệt đối với trường hợp kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân
một vợ một chồng. Việc xác định thời điểm chung sống là căn cứ để phân
biệt việc thụ lý theo quan hệ thuận tình ly hôn hay hủy kết hôn trái
pháp luật. Theo đó, cần lưu ý hai trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Nam nữ kết hôn trước ngày 13/1/1960
(ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực pháp luật) thì dù
không tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, khi họ có đơn xin
thuận tình ly hôn cần phải xác định đây là việc về thuận tình ly hôn chứ
không phải là hủy kết hôn trái pháp luật.
Đối với trường hợp một người sinh sống ở miền Nam có
nhiều vợ trước 25/3/1977 (ngày ban hành Nghị quyết 76/CP của Chính phủ
công bố văn bản luật áp dụng trong cả nước), nay nộp đơn yêu cầu thuận tình ly hôn với một trong các
người vợ, cần xác định quan hệ chung sống như vợ chồng giữa họ là quan
hệ hôn nhân thực tế. Do đó, việc thụ lý giải quyết yêu cầu này phải theo
thủ tục thuận tình ly hôn. Điều này cũng phù hợp với hướng dẫn tại điểm
a) khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn thi hành pháp lệnh thừa kế năm 1990 “Trường hợp một
người có nhiều vợ (. . . trước ngày 25/3/1977 – ngày công bố các danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước đối với miền
Nam . . .) thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất
của người chồng…”
- Trường hợp 2: Đối với cán bộ, bộ đội ở miền Nam đã
có vợ (có chồng) ở miền Nam tập kết ra Bắc năm1954 lại lấy vợ hoặc chồng
khác ở miền Bắc, theo hướng dẫn tại Thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978
của TANDTC thì đây là những trường hợp ngoại lệ, có vi phạm nguyên tắc
hôn nhân một vợ, một chồng nhưng không nhất thiết phải xử hủy việc kết
hôn của họ.
Thủ tục hòa giải
Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được toà án giải
quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự, trong khi đó, bản chất của
việc dân sự là sự xác nhận một sự kiện pháp lý nên về nguyên tắc, không
có thủ tục hòa giải và không có thủ tục phản tố. Vấn đề là, đối với việc
thuận tình ly hôn, tòa án có áp dụng quy định chung về việc dân sự để
không tiến hành hòa giải hay không? Chúng tôi cho rằng, quan hệ hôn nhân
mang tính chất đặc thù riêng, vì vậy tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải
với mục đích để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau.
Nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì tòa án mới mở phiên họp ra quyết
định giải quyết việc dân sự. Đây cũng là quy định hợp lý vì Điều 311
BLTTDS cũng không cấm việc hòa giải: “toà án áp dụng những quy định của
chương này (chương quy định giải quyết theo thủ tục việc dân sự),
đồng thời áp dụng những quy định khác của Bộ Luật này không trái với
những quy định của chương này để giải quyết việc dân sự” Tại Điều 10
BLTTDS cũng quy định: “toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Điều 90 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định: “trong trường hợp vợ chồng
cùng yêu cầu xin ly hôn thì tòa án phải tiến hành hòa giải. Trong
trường hợp tòa án hòa giải không thành thì tòa án lập biên bản về sự tự
nguyện ly hôn và hòa giải đoàn tụ không thành”. Như vậy, có cơ sở pháp
lý trong việc tòa án tiến hành hòa giải riêng đối loại việc thuận tình ly hôn.
2.Không công nhận quan hệ vợ chồng (Hộp)
Từ quy định của Luật nội dung đối với loại quan hệ
này, công tác xét xử đang gặp lúng túng khi xác định thẩm quyền của toà
án khi thụ lý vụ, việc dân sự. Điều 27, Điều 28 BLTTDS chỉ quy định về
thủ tục giải quyết các vụ, việc về ly hôn; không quy định về thủ tục thụ
lý yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.
Khó khăn ở chỗ, có trường hợp một người nộp đơn đề
nghị toà án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa họ với người
mà họ đang chung sống. Người yêu cầu thực sự khó khăn trong việc xây
dựng tiêu đề cho lá đơn. Pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng, tức
là không có sự hình thành một quan hệ hôn nhân, nên không thuộc trường
hợp loại tranh chấp khác hoặc loại việc khác theo Điều 27 khoản 6 hoặc
Điều 28 khoản 7 BLTTDS, để toà án thụ lý theo sổ thụ lý vụ án. Nếu đương
sự làm đơn với tiêu đề “yêu cầu ly hôn” thì họ biết chắc yêu cầu của họ
sẽ không được toà án chấp nhận. Điều 11 khoản 1 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: “nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”.
Vì vậy, xét về bản chất vụ việc, đây là việc xác nhận
một sự kiện pháp lý. Chúng tôi cho rằng cần đi từ đặc trưng, tính chất
của việc dân sự, hôn nhân gia đình để xác định thủ tục thụ lý vụ hay
việc trong hai trường hợp sau:
(1) Nếu người yêu cầu thỏa thuận về việc đề nghị
không công nhận quan hệ vợ chồng, tài sản, con cái thì giải quyết đồng
thời trong quyết định giải quyết việc không công nhận quan hệ vợ chồng
(thụ lý và giải quyết theo việc hôn nhân gia đình). Tuy nhiên, nếu người
liên quan đến việc thỏa thuận tài sản có tranh chấp với người có đơn
yêu cầu thì phần tranh chấp đó không thể được giải quyết theo thủ tục
việc dân sự. Chẳng hạn, A, B đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ
chồng và cùng thỏa thuận mỗi người trả một nửa số nợ với C là 20 triệu
đồng/1 người. Nhưng khi được thông báo C cho rằng A, B nợ C 50 triệu
đồng chứ không phải là nợ 40 triệu đồng thì quan hệ nợ này phải được
tách ra giải quyết ở vụ án khác;
(2) Nếu người yêu cầu chỉ đề nghị tòa án không công
nhận quan hệ vợ chồng nhưng về tài sản và con cái, họ có tranh chấp với
nhau. Trong trường hợp này cần xác định hai thủ tục để giải quyết. Một
là giải quyết theo việc hôn nhân gia đình với yêu cầu không công nhận
quan hệ vợ chồng, hai là giải quyết theo án với yêu cầu giải quyết tranh
chấp về tài sản và con cái.
3. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật
Thời hiệu yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã liệt kê
những trường hợp kết hôn trái pháp luật: kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa
dối; kết hôn mà chưa đủ tuổi; kết hôn với người đang có vợ hoặc có
chồng; với người mất năng lực hành vi; kết hôn giữa những người có cùng
dòng máu về trực hệ hoặc có họ hàng trong phạm vi ba đời; kết hôn giữa
cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với
những người đã từng là con nuôi, giữa bố chồng với con dâu, giữa mẹ vợ
với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng; kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2002 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành luật Hôn nhân và Đgia đình năm
2000 quy định: nếu sau khi bị ép buộc, lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn
mà bên bị ép buộc, bị lừa dối, bị cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm
và tiếp tục chung sống hoà thuận, thì không quyết định huỷ kết hôn trái
pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu toà án giải quyết
việc ly hôn, thì toà thụ lý vụ án để giải quyết việc ly hôn theo thủ tục
chung.
Qớuy định trên liên quan đến quy định của BLTTDS về
thời hiệu yêu cầu giải quyết việc “huỷ kết hôn trái pháp luật” và có
những bất cập. Theo Điều 159 khoản 2 BLTTDS, toà án chỉ thụ lý giải
quyết việc huỷ kết hôn trái pháp luật trong thời hạn một năm, kể từ ngày
biết quyền lợi của mình bị xâm hại, làm phát sinh quyền yêu cầu. Sau
thời hạn này tòa án sẽ không thụ lý giải quyết nữa. Vấn đề là hiểu như thế nào về ngày phát sinh quyền yêu cầu?
Chẳng hạn, A và B kết hôn trái pháp luật tháng 1/2005 đến thời điểm
tháng 1/2007 mới có đơn yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật. Trong
trường hợp này tòa án có xác định là hết thời hiệu yêu cầu giải quyết
việc dân sự hay không? Có đặt ra vấn đề quyền yêu cầu phát sinh ngay từ
khi quan hệ hôn nhân trái pháp luật đó diễn ra trên thực tế hay đây
thuộc trường hợp ngoại lệ không hạn chế về thời gian yêu cầu? Đây là một
vấn đề cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể. Chúng tôi cho rằng, quan hệ
hôn nhân hợp pháp gắn chặt với quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ.
Điều 24 của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định: “quyền nhân
thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác”. Tại khoản 2 Điều 25 BLDS có quy định việc bảo vệ quyền nhân thân “Khi
quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền yêu cầu
người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai”. Vì vậy, đối với việc hủy hôn nhân trái pháp luật có cơ sở trong việc áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 160 BLDS năm 2005: “Không áp dụng thời hiệu yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng, việc xác định thời
hiệu yêu cầu và giải quyết những trường hợp hết thời hiệu phải căn cứ
vào tính chất của từng yêu cầu:
Đđối với yêu cầu toà án giải quyết việc “huỷ kết hôn trái pháp luật”
do bị lừa dối, bị ép buộc hoặc bị cưỡng ép kết hôn (Điều 15 khoản 1 của
Luật ĐHôn nhân và gia đình năm 2000), ườợnhưng nếu cuộc sống hôn nhân
của người bị lừa dối, bị ép buộc hoặc bị cưỡng ép kết hôn đã ởêđược
thông cảm, tiếp tục chung sống hoà thuận (như hướng dẫn tại Nghị quyết
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán) khi có yêu cầu
chấm dứt quan hệ chung sống, toà án sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật
tương ứng để giải quyết cho ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ
chồng.
Đđối với yêu cầu toà án giải quyết việc “huỷ kết hôn trái pháp luật’
do kết hôn mà chưa đủ tuổi; kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng;
với người mất năng lực hành vi; kết hôn giữa những người có cùng dòng
máu về trực hệ hoặc có họ hàng trong phạm vi ba đời; kết hôn giữa cha mẹ
nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với những
người đã từng là con nuôi; giữa bố chồng với con dâu; giữa mẹ vợ với con
rể; bố dượng với con riêng của vợ; mẹ kế với con riêng của chồng, chủ
thể nào có quyền yêu cầu? Và chủ thể của quyền yêu cầu này có bao gồm cả
cơ quan viện kiểm sát hay không? Theo quy định tại Điều 15 khoản 2 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì :
“Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền
yêu cầu toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của luật này” và Điều 21 khoản 1 BLTTDS quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp
thời, đúng pháp luật”. Vấn đề là, quyền yêu cầu của viện kiểm sát
theo quy định của pháp luật hiện hành là gì, có bao gồm quyền yêu cầu
giải quyết việc dân sự hay không? Chúng tôi cho rằng, cần phải xác định
lại quyền khởi kiện vụ án dân sự hay việc dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và
lợi ích của nhà nước với các chủ thể được quy định cụ thể tại Điều 162
BLTTDS mà không có chủ thể là viện kiểm sát. Điều này cũng phù hợp với
hướng dẫn tại mục 1 phần III “Quyền yêu cầu của viện kiểm sát đối với tòa án”
trong thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT – VKSNDTC-TANDTC ngày 1/9/2005
hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của viện kiểm sát
trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Thông tư này đã giải thích rõ Điều
21 của BLTTDS về quyền yêu cầu của viện kiểm sát đối với tòa án đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chứ không phải quyền yêu cầu tòa án
giải quyết việc dân sự.
Về thủ tục tố tụng
Điều 28 khoản 1 và Điều 311 BLTTDS quy định: Yêu cầu
huỷ kết hôn trái pháp luật được giải quyết bằng loại việc dân sự. Còn
Điều 27 khoản 1 quy định giải quyết nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
bằng một vụ án dân sự.
Vậy khi có yêu cầu giải quyết việc huỷ kết hôn trái
pháp luật và giải quyết tranh chấp về quan hệ con cái, tài sản, ậthì toà
án có phải giải quyết riêng đối với yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật
bằng loại việc dân sự và xét xử vụ án đối với tranh chấp về con cái,
àtài sản hay không? Có hai loại quan niệm đang tồn tại trên thực tế:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, căn cứ Điều 27 khoản 1, 2, và Điều 28 khoản
1 BLTTDS, phải giải quyết riêng yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật bằng
thủ tục việc dân sự và nuôi con, chia tài sản bằng vụ án dân sự. Còn
quan điểm thứ hai cho rằng, nên căn cứ vào yêu cầu chính của
đương sự để áp dụng thủ tục tố tụngảế. Yêu cầu chính trong vụ việc này
là yêu cầu “huỷ kết hôn trái pháp luật”, trên cơ sở đó thì các đương sự
mới yêu cầu giải quyết tranh chấp nuôi con và phân chia tài sản. Vậy nên
áp dụng thủ tục việc dân sự để giải quyết chung ba mối quan hệ trên.
Chúng tôi cho rằng, cần giải quyết việc huỷ kết hôn
trái pháp luật theo thủ tục việc dân sự, đối với tranh chấp nuôi con và
chia tài sản thì thụ lý và giải quyết theo án dân sự doì thủ tục tố tụng
của hai loại vụ, việc này là óáhoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, để đảm
bảo nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con thuộc diện được cấp dưỡng, thì
trong quyết định giải quyết việc huỷ kết hôn trái pháp luật nên áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời (giao con chưa thành niên cho cá nhân, tổ
chức trong nom nuôi dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp
dưỡng) theo Điều 102 khoản 1, 2 và Điều 119 BLTTDS.
Trường hợp nếu đương sự yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp
luật và thoả thuận được về quan hệ nuôi con và chia tài sản, thì căn cứ
vào Điều 28 khoản 1, 2 BLTTDS giải quyết chung theo thủ tục việc dân
sự.
Vấn đề giải quyết việc huỷ kết kết hôn trái pháp luật đối với trường hợp kết hôn chưa đủ tuổi
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 quy định
tuỳ trường hợp mà quyết định. Nếu đến thời điểm yêu cầu huỷ việc kết hôn
trái pháp luật mà cả hai đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ
trong thời gian qua đãkhông hạnh phúc, thì quyết định huỷ việc kết hôn
trái pháp luật. Còn cả hai đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian qua họ
đã chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung, thì không quyết
định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có
yêu cầu toà án giải quyết việc ly hôn, thì toà án thụ lý vụ án để giải
quyết việc ly hôn theo thủ tục chung.
ằVới quy định trên, ậvô hình trung, Luật chỉ dự liệu
trường hợp các đương sự trong vụ tảo hôn đều còn chung sống vào thời
điểm có yêu cầu toà án giải quyết. Thực tiễn, nhiều quan hệ hôn nhân
trái pháp luật yêu cầu huỷ việc kết hôn xuất phát từ động cơ tranh giành
di sản hơn là chống tảo hôn. Ví dụ, một người nam 20 tuổi xác lập quan
hệ hôn nhân với người nữ 16 tuổi. Sau ba năm chung sống thì người nam
chết, cũng không có con chung và cha mẹ của người chết cũng đã chết
trước đó. Toà án sẽ có hai quan điểm xử lý như sau: Quan điểm 1
thừa nhận quan hệ hôn nhân không thể bị huỷ được nữa, nên người vợ sẽ
là người thừa kế theo pháp luật duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất (khoản
1, Điều 679 của BLDS). Còn quan điểm 2 thì cho rằng, kết hôn trái pháp
luật vẫn có thể bị huỷ, dù người chồng đã chết. Sìau khi kết hôn trái
pháp luật bị huỷ, những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ
hai hoặc thứ ba sẽ được nhận di sản.
Chúng tôi cho rằng, pháp luật đã dành cho đương sự
quyền yêu cầu toà án giải quyết huỷ kết hôn trái pháp luật trong thời
hạn một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Trong thời hạn một năm
này, nếu đương sự vẫn không yêu cầu, tức là đương sự đã có cuộc sống
chung hoà thuận hạnh phúc. Vấn đề còn lại là, khi xác định người còn
sống cóả thuộc diện thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất theo
nghĩa vợ (chồng) của người đã chết hay không, thì căn cứ vào thời điểm
mở thừa kế, các bên đã đủ tuổi kết hôn hay chưa. Nếu các bên đã đủ tuổi
kết hôn thì được coi như là vợ chồng hợp pháp và được thừa hưởng di sản
của nhau. Nếu các bên chưa đủ tuổi kết hôn thì không coi là vợ chồng hợp
pháp và không được hưởng di sản thừa kế.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
0 comments:
Post a Comment