TS. ĐỖ VĂN ĐẠI – ĐỖ VĂN KHA
Bên cạnh những
quy phạm được ghi nhận trong bộ luật, luật hay nghị định, chúng ta còn
thấy tồn tại một loại quy phạm khá đặc biệt với những đặc thù riêng. Đó
là những quy phạm được Toà án nhân dân tối cao (TANDTC)
thiết lập. Trong thực tế, vì văn bản pháp luật không rõ ràng, cụ thể
hay chưa đầy đủ nên Tòa án nhân dân tối cao đã phải xây dựng bổ sung một
số quy phạm thông qua thông tư, nghị quyết hướng dẫn hay qua những vụ
việc cụ thể. ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những quy phạm được TANDTC
xây dựng thông qua những vụ việc tương tự – hay vấn đề án lệ trong pháp
luật thực định Việt Nam.
1. Sự tồn tại của án lệ
Gần đây có một số tài liệu đề cập đến án lệ ở Việt
Nam. Nhìn chung, hiện nay tranh luận về án lệ phần nhiều mang tính hàn
lâm, lý thuyết. Những người cho rằng, nên thừa nhận án lệ như một nguồn
của pháp luật thường chỉ dừng lại ở đó và dường như chưa đưa ra được ví
dụ cụ thể nào về án lệ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực hợp đồng,
có tác giả viết “để thực hiện việc này, về mặt luật pháp cần quy định
nguyên tắc thừa nhận án lệ là nguồn giải thích pháp luật. Về mặt thực
tiễn đòi hỏi chúng ta phải thực hiện các bản án tiêu biểu, điển hình của
TANDTC để phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật và công tác xét xử
của Tòa án các cấp”[1]. Tuy nhiên, trong bài viết, chúng tôi không thấy
nêu một ví dụ cụ thể nào về án lệ. Để tăng tính thuyết phục của quan
niệm cho rằng nên coi án lệ là nguồn của pháp luật khi đó là những quy
phạm hợp tình, hợp lý, chúng tôi nêu một vài ví dụ về án lệ trong thực
tế Việt Nam.
Hình sự hay dân sự
Trong thực tế không hiếm gặp trường hợp giao dịch có
vi phạm pháp luật và người vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật hình
sự. Ví dụ, chị Mai dùng thủ đoạn để chị Ngọ cho mình vay 40 triệu đồng
với lãi suất 5% tháng. Hành vi của chị Mai được tòa án quy về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản công dân. Giao dịch dân sự vay tiền của chị Mai
đã vi phạm pháp luật hình sự. Giải quyết vấn đề dân sự như thế nào trong
những trường hợp như vậy? Khi giao dịch vi phạm pháp luật và có thể xử
lý theo pháp luật hình sự, tòa dân sự (theo nghĩa rộng là lao động, kinh
tế, thương mại, dân sự, hôn nhân và gia đình) có phải dừng xử lý giải
quyết hay không khi vụ việc được yêu cầu có yếu tố vi phạm pháp luật
hình sự? Về vấn đề này, Tòa dân sự TANDTC đã thiết lập một án lệ[2].
Trong một vụ tranh chấp được giám đốc thẩm năm 2003,
theo Tòa dân sự TANDTC, “lẽ ra, ngay từ khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án
cấp sơ thẩm đã phải xác định yêu cầu của bà Thìn và ông Lực không phải
là một yêu cầu dân sự hợp pháp, quan hệ giữa bà Thìn và bà Năm có dấu
hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý, giải quyết
theo trình tự dân sự là không đúng thẩm quyền. Tòa án cấp phúc thẩm tuy
có bác đơn yêu cầu của bà Thìn và ông Lực nhưng vẫn giải quyết theo
trình tự dân sự là không đúng”[3]. Như vậy, Tòa dân sự đã dùng phương
pháp loại trừ, nếu hành vi đến mức truy tố trách nhiệm hình sự thì không
giải quyết theo tố tụng dân sự.
Tòa dân sự đã
không hiếm cơ hội áp dụng giải pháp này. Trong một tranh chấp khác,
theo Tòa dân sự, “ông Chính và anh Hùng thống nhất xác định khoản tiền
11 triệu đồng ông Chính chuyển cho anh Hùng là để anh Hùng lo cho người
vào đại học bằng con đường không chính đáng. Đây là giao dịch bất hợp
pháp, có dấu hiệu phạm tội. Do vậy, vụ án cần được Viện Kiểm sát nhân
dân (VKSND) xem xét về trách nhiệm hình sự. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm
phải có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại
điểm d, khoản 1, Điều 45 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự và chuyển vụ án cho VKSND giải quyết. Trong trường hợp VKSND xác định
vụ việc không có dấu hiệu phạm tội hoặc không đến mức phải xử lý bằng
trình tự tố tụng hình sự, chuyển cho tòa án giải quyết về dân sự, nếu
không buộc anh Hùng trả tiền cho ông Chính thì cũng phải tịch thu số
tiền này. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án khi chưa được VKSND xem
xét về hình sự và Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu đòi tiền của ông
Chính đều là không đúng”[4].
Xác định bản chất hợp đồng
Khi giao kết, các bên thường xác định rõ bản chất của
hợp đồng. Chẳng hạn, theo các bên, đây là hợp đồng thuê tài sản hay mua
bán tài sản. Nhưng đôi khi, bản chất theo các bên xác định không đúng
với bản chất thực của hợp đồng. Đối với những hoàn cảnh như vậy, tòa án
có quyền xác định lại bản chất của hợp đồng hay không? Cũng như vấn đề
trên, ở đây, dường như thực tiễn pháp lý nước ta đã thiết lập một án lệ.
Trên thực tế, quyền của tòa án xác định lại bản chất của hợp đồng được thừa nhận. Ví dụ sau cho thấy điều này:
Ngày 29/08/1996, Hợp tác xã (HTX) Hồng Quang và Công
ty Tân Hồng ký hợp đồng liên kết sản xuất với nội dung HTX Hồng Quang
góp 1.350m2 nhà xưởng hiện có trên tổng diện tích đất được sử dụng
3.100m2, trị giá khoảng 2 tỷ đồng. Công ty Tân Hồng góp vốn đầu tư xây
dựng nâng cấp nhà xưởng, kho tàng phù hợp với nhu cầu sản xuất may xuất
khẩu; đầu tư toàn bộ dây chuyền thiết bị, may thêu nguyên vật liệu, phụ
tùng thêu may với tổng trị giá khoảng 6 tỷ đồng. Hợp đồng có thời hạn 5
năm kể từ ngày ký, hết hạn sẽ tùy thuộc vào thực tế để ký tiếp. Cùng
ngày, hai bên ký phụ lục Hợp đồng số 01 được công chứng với nội dung:
Công ty Tân Hồng cho HTX Hồng Quang vay 500 triệu đồng, lãi suất 1,2%
tháng, thời hạn vay là 02 năm. Nếu HTX Hồng Quang không thanh toán cho
Công ty Tân Hồng trong hạn 02 năm thì Công ty Tân Hồng sẽ trừ dần vào số
tiền khấu hao tài sản mà Công ty Tân Hồng trả cho HTX Hồng Quang mỗi
tháng 20 triệu đồng; Công ty Tân Hồng nộp cho HTX Hồng Quang 20 triệu
đồng /tháng vào ngày 05 đầu tháng, nếu chậm sẽ chịu phạt 2%/tháng. Ngày
10/01/1999, hai bên ký phụ lục hợp đồng số 2 với nội dung: Công ty Tân
Hồng đồng ý xóa nợ cho HTX Hồng Quang bằng cách khấu trừ dần số tiền đã
cho vay cùng với lãi suất vào việc thanh toán 20 triệu đồng khấu hao
tiền nhà xưởng. Tính từ ngày 10/10/1998 đến 10/04/2001 là xóa xong nợ
cũ. Kể từ ngày 11/04/2001, Công ty Tân Hồng phải trả cho HTX Hồng Quang
20 triệu đồng /tháng theo nội dung hợp đồng. Cuối năm 2001, hai bên có
tranh chấp và kiện ra tòa. Theo Hội đồng Thẩm phán TANDTC, “tuy hợp đồng
số 01/HT-HQ ngày 29/08/1996 ghi là hợp đồng liên kết sản xuất nhưng nội
dung của phụ lục Hợp đồng số 01 và phụ lục Hợp đồng số 02 đã thể hiện
bản chất của hợp đồng là thuê nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất,
chứ không phải là liên kết thành lập đơn vị kinh tế theo Quy định về
liên kết kinh tế (ban hành kèm theo Quyết định số 38/HĐBT ngày
10-04-1989 của Hội đồng Bộ trưởng)”[5]. Như vậy, Hội đồng thẩm phán đã
xác định lại bản chất của hợp đồng có tranh chấp. Cụ thể, các bên cho
rằng đây là hợp đồng liên kết sản xuất nhưng Tòa án lại coi đây là hợp
đồng thuê nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất. Khi xét như vậy, Hội
đồng Thẩm phán không nêu rõ là dựa vào văn bản nào để có quyền xác định
lại bản chất của hợp đồng. Do đó, có thể nói, Tòa án đã tự cho mình
quyền này. Đây không hẳn đã là đặc thù của pháp luật Việt Nam. ở Pháp,
Tòa án tối cao thường nhắc nhở trong quá trình giải quyết giám đốc thẩm
là thẩm phán có quyền xác định lại bản chất thực của hợp đồng. Trong
thực tế, chúng ta còn thấy nhiều ví dụ khác theo đó Tòa án tự cho mình
quyền xác định lại bản chất thực của hợp đồng, do đó có thể coi việc này
đã trở thành án lệ[6].
Người nước ngoài mượn tên
Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005, năng lực hành
vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật
của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác. Việc mua nhà ở tại Việt Nam là
một hạn chế đối với người nước ngoài so với công dân Việt Nam. Cụ thể,
theo Điều 19 của Nghị định 61-CP ngày 05/07/1994, “cá nhân là người nước
ngoài định cư ở Việt Nam được mua một nhà ở của các doanh nghiệp nhà
nước chuyên kinh doanh nhà ở của Việt Nam để ở cho bản thân và các thành
viên gia đình họ tại địa phương được phép định cư”. Hoặc Khoản 1, Điều 3
của Nghị định số 81/2001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 của Chính phủ quy định:
“người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc một trong những đối tượng
dưới đây… thì được mua nhà để ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại
Việt Nam: a) Người về đầu tư lâu dài tại Việt Nam; b) Người có công đóng
góp với đất nước; c) Nhà văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động
thường xuyên tại Việt Nam; d) Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt
Nam”.
Nhiều người nước ngoài gốc Việt mua nhà ở tại Việt
Nam thông qua tên của người thân vì họ không đủ điều kiện tự mua. Đã
xuất hiện tình trạng một thời gian sau khi mua, Việt kiều và người thân
có tranh chấp về nhà ở. Văn bản pháp luật hiện không có chế tài cụ thể
cho những tranh chấp này nhưng tòa án vẫn phải giải quyết. Trong một vụ
việc liên quan đến tranh chấp giữa ông Đức và người thân, Tòa án quyết
định “hủy hợp đồng mua bán nhà đất, giao căn nhà (có tranh chấp) cho cơ
quan thi hành án tỉnh tổ chức bán đấu giá, tiền bán nhà giao cho ông Đức
(Việt kiều) 5.300 USD (tương đương với tiền đã bỏ ra mua nhà). Số còn
lại sung vào công quỹ Nhà nước, nếu giá bán thấp hơn số tiền giao cho
ông Đức, thì ông Đức nhận theo số tiền bán nhà thực tế”[7].
Như vậy, liên quan đến những trường hợp mà Việt kiều
nhờ người khác mua hộ bất động sản do họ không thỏa mãn những điều kiện
của pháp luật, khi có tranh chấp thì phát mãi bất động sản để trả cho
Việt kiều số tiền, vàng đã bỏ ra nhờ mua giùm, số còn lại sung công quỹ
Nhà nước[8]. Quy phạm này được TANDTC và VKSNDTC cùng TAND địa phương áp
dụng thường xuyên nên có thể coi đã trở thành án lệ.
2. Giá trị pháp lý của án lệ
Phần vừa rồi cho thấy trong thực tế pháp lý, tòa án
đã thiết lập nhiều án lệ[9]. Các quy phạm do TANDTC thiết lập có tính
bắt buộc hay không là vấn đề được tranh luận tương đối nhiều ở nước
ta[10]. “Về lý luận chưa có một giáo trình luật nào của các trường đại
học ở nước ta đề cập đến vấn đề này một cách đầy đủ, khách quan và có hệ
thống”[11].
Theo giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường
đại học Luật Hà Nội năm 2007 (trang 24, 25) thì, “ở nước ta, thực tiễn
tư pháp (án lệ) không được nhìn nhận với tư cách là nguồn của pháp luật
nói chung và nguồn của tư pháp quốc tế nói riêng. Chỉ có các văn bản
pháp quy của Nhà nước mới là nguồn của luật pháp. Điều này khẳng định
quan điểm là toà án của Việt Nam là cơ quan xét xử và khi xét xử chỉ
tuân theo luật pháp, nó không có quyền ban hành văn bản pháp quy, cũng
như án lệ không thể là nguồn của pháp luật Việt Nam nói chung và nguồn
của tư pháp quốc tế Việt Nam nói riêng”. Tương tự, theo cuốn Từ điển luật học[12],
“ở Việt Nam hiện nay, mặc dù hàng năm khi tổng kết công tác xét xử,
TANDTC có đưa ra các vụ án điển hình để hướng dẫn tòa án cấp dưới xét
xử, tuy nhiên khi lập luận cho quyết định của mình, các thẩm phán vẫn
phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, chứ không dựa vào các bản án
đã xét xử. Việt Nam không có truyền thống áp dụng án lệ và không coi án
lệ là một hình thức pháp luật”.
Nhưng có quan điểm cho rằng, “trong các sách, báo
khoa học pháp lý nước ta phổ biến quan niệm coi nguồn của pháp luật là
những hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật, nói cách khác là
những văn bản pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật. Không coi
những án lệ và tập quán pháp là nguồn của pháp luật. Quan niệm như vậy
chỉ có tác dụng nhấn mạnh vai trò của những văn bản quy phạm pháp luật
trong hệ thống nguồn của pháp luật, nhưng chưa thật đầy đủ và toàn diện.
Thực tế ở nước ta trong nhiều trường hợp để quản lý phải dùng đến án lệ
ở trình độ khái quát, tổng hợp cao dưới hình thức những văn bản hướng
dẫn xét xử của TANDTC”[13].
Lý do công nhận
Theo chúng tôi, nếu hợp tình và hợp lý, những quy
phạm được thiết lập bởi TANDTC Việt Nam có tính ràng buộc. Điều đó có
nghĩa án lệ là một nguồn của pháp luật khi hợp tình, hợp lý, bởi:
Lý do pháp lý: trong pháp luật hiện hành của
Việt Nam, không một văn bản nào chính thức thừa nhận án lệ là một nguồn
của pháp luật và cũng không có văn bản nào khẳng định công khai án lệ
không là một nguồn của pháp luật. Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu
thừa nhận vai trò pháp lý của án lệ nhưng không đưa ra một văn bản nào
để làm cơ sở. Tương tự, giáo trình Tư pháp quốc tế của Trường đại học Luật Hà Nội và cuốn Từ điển luật học của
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp phủ nhận vai trò này của án lệ, song
cũng không dựa vào văn bản cụ thể nào. Do vậy, án lệ có là nguồn của
pháp luật hay không cần được giải quyết thông qua giải thích pháp luật
Việt Nam liên quan đến vấn đề này. Khoản 1, Điều 19 Luật Tổ chức TAND
năm 2002 quy định “TANDTC có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Hướng
dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử
của các Tòa án”[14]. ở đây, dường như Quốc hội đã “ngầm” thừa nhận rằng
các văn bản hiện hành của Việt Nam còn không hoàn thiện, đầy đủ, cụ
thể, nên đã cho phép và đồng thời bắt buộc TANDTC hướng dẫn các tòa án
áp dụng thống nhất pháp luật dường như cũng là cho phép và đồng thời bắt
buộc TANDTC thiết lập các quy phạm pháp quy khi cần thiết. Nói cách
khác, dường như Quốc hội đã “ngầm” ủy quyền cho TANDTC xây dựng một số
quy phạm pháp quy khi cần thiết (khi văn bản pháp luật còn ở dạng
“khung” hay còn khiếm khuyết). Những quy phạm được TANDTC thiết lập
thông qua các bản án cũng có vai trò hướng dẫn các tòa án địa phương áp
dụng thống nhất pháp luật. Và phủ nhận một cách máy móc tính bắt buộc
của những quy phạm thiết lập bởi TANDTC dường như cũng là phủ nhận Khoản
1, Điều 19 nói trên.
Lý do thực tiễn: Theo một Chánh án TANDTC, ở
nước ta hiện nay đã có những “án lệ ngầm”[15]. Sự khẳng định này không
có gì ngạc nhiên như đã trình bày ở phần I. Trên thực tế, các quy phạm
thiết lập bởi TANDTC có tính bắt buộc như những quy phạm khác. Nếu không
theo các quy phạm thiết lập bởi TANDTC khi xét xử, bản án của toà án
địa phương có nhiều khả năng bị huỷ và phải xét lại và để tránh bị huỷ
bản án của mình, toà án địa phương buộc phải tôn trọng những quy phạm
pháp quy này. Những ví dụ nêu trên là một minh chứng. Như vậy, những quy
định do TANDTC xây dựng thông qua những vụ việc tương tự có giá trị bắt
buộc trong thực tiễn pháp lý. Tương tự đối với các đương sự trong tranh
chấp: bên đương sự không thừa nhận các quy phạm thiết lập bởi TANDTC có
nhiều khả năng thua kiện và ngược lại.
Lý do lịch sử: vào những năm 50, khi văn bản
pháp luật còn sơ sài và chưa chặt chẽ, pháp luật nước ta cũng đã thừa
nhận vai trò của án lệ trong thực tế pháp lý. Theo thông tư số 442/TTg
ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ, “tới nay, các Toà án căn cứ vào
những văn bản nói trên và chính sách trừng trị của Chính phủ mà xét xử
đem lại kết quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xử
về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy
còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử do đó không được
thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những
án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn các Toà án
trừng trị một số tội phạm thông thường”. Hơn nữa, trong cổ luật Việt
Nam, “bên cạnh những điều luật có tính cố định và nhiều khi lỗi thời,
nhà làm luật, vì không muốn bộ luật có tính cách quá lý thuyết, không
còn phù hợp với nhu cầu của dân chúng, đã phải thêm vào các điều lệ. Lệ
bắt nguồn ở những bản án đã được phân xử và tâu lên vua”. Một ví dụ rõ
nét về việc sử dụng bản án trong cổ luật Việt Nam có thể thấy được trong
Bộ luật Hồng Đức (thế kỷ thứ 15) tại Điều 396. ở đây, chúng ta thấy
ghi: “Ông tổ là Phạm Giáp sinh con giai trưởng là Phạm ất, thứ là Phạm
Bính. Ông tổ Phạm Giáp có ruộng đất hương hỏa 2 mẫu đã giao cho con
trưởng là Phạm ất giữ. Phạm ất đã đem 2 mẫu ấy nhập vào với ruộng đất
của mình mà chia cho các con, chỉ còn 5 sào để cho con trai của Phạm ất
giữ làm hương hỏa. Con trai của Phạm ất lại sinh toàn con gái mà con thứ
là Phạm Bình có con trai lại có cháu trai, thì số 5 sào hương hỏa hiện
tại phải giao lại cho con trai, cháu trai Phạm Bình. Nhưng không được
đòi lại cho đủ 2 mẫu hương hỏa của tổ trước mà sinh cạnh tranh. Điều 396
trên đây chỉ là một bản án đã được phân xử trong một vụ kiện với tất cả
các chi tiết cá biệt như diện tích của phần hương hỏa mà nhà làm luật
vẫn giữ y nguyên để cho điều lệ có tính các cụ thể và dễ hiểu’[16]. Như
vậy, việc khai thác các bản án không xa lạ ở Việt Nam chúng ta.
Xu hướng chung: ngoài những lý do trên,
chúng ta có thể nói thêm là xu hướng thừa nhận vai trò của án lệ ngày
phát triển ở Việt Nam. Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, một trong những
nhiệm vụ cải cách tư pháp là “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ…”. Chủ
thể tham gia thực tiễn xét xử ngày càng quan tâm và thừa nhận vai trò
của án lệ. Chẳng hạn, trong tham luận mới đây của Tòa dân sự TANDTC,
liên quan đến vấn đề tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được từ giao dịch không hợp pháp, sau khi khẳng định “cho đến nay chưa
có một văn bản pháp luật nào quy định phải tịch thu tài sản giao dịch,
hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch không hợp pháp”, tham luận đã kết
luận rằng: “vấn đề này cũng đã có án lệ của Hội đồng thẩm phán
TANDTC”[17]. Hiện nay, một số luật gia đã tạo ra trang web “sưu tầm án
lệ Việt Nam” với các mục như “án lệ trong các lĩnh vực”, “bình luận án
lệ”…[18].
Điều kiện công nhận
Nếu những quy phạm được TANDTC thiết lập là hợp tình,
hợp lý thì chúng ta nên coi những quy phạm này như những quy phạm pháp
quy khác, tức thừa nhận án lệ là một nguồn của pháp luật. Chẳng hạn,
theo án lệ đã được nêu trong phần I, việc Tòa án có quyền xác định lại
bản chất của hợp đồng là một quy phạm hợp tình và hợp lý. Vì vậy, chúng
ta nên coi đó là một quy phạm có tính ràng buộc như những quy phạm khác.
Tuy nhiên, không phải án lệ nào cũng hợp tình, hợp lý. Do vậy, những
quy phạm tiềm ẩn trong án lệ này nên được thay đổi. Án lệ liên quan đến
thẩm quyền của Tòa dân sự khi vụ việc có yếu tố hình sự là một ví dụ cụ
thể. Khi trích dẫn Quyết định 48/GĐT -DS năm 2003, ông Nguyễn Văn Cường
có nêu rằng, “theo chúng tôi, Tòa dân sự TANDTC đã chuyển hồ sơ vụ án
cho Cơ quan Cảnh sát điều tra của Bộ Công an để xem xét theo thủ tục tố
tụng hình sự là đúng pháp luật”[19]. Tuy nhiên, thiết nghĩ nên cho phép
các đương sự lựa chọn việc giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự chứ
không nên nhất thiết buộc họ phải xử lý hình sự trước. Cụ thể, việc buộc
phải giải quyết theo tố tụng hình sự sẽ buộc chuyển hồ sơ sang thủ tục
hình sự. Điều này sẽ làm mất thêm thời gian và tốn kém cho nạn nhân.
Trên góc độ văn bản, pháp luật không có quy định là phải chuyển hồ sơ
sang thủ tục hình sự. Hơn nữa, vấn đề dân sự và vấn đề hình sự được điều
chỉnh bởi hai loại quy phạm tương đối độc lập, trong khi đó Tòa dân sự
chuyên về dân sự nên giải quyết sẽ tốt. Một người hoàn toàn có thể không
bị áp dụng chế tài hình sự nhưng vẫn có thể bị chịu chế tài dân sự. Do
vậy, án lệ của Tòa dân sự về vấn đề này là không hợp tình. Trừ trường
hợp ngoại lệ, thiết nghĩ giải pháp có tính thuyết phục hơn sẽ là cho
phép giải quyết dân sự theo thủ tục dân sự ngay cả khi có yếu tố hình
sự.
Trong quyết định năm 2002, Tòa dân sự viện dẫn quy
phạm theo đó toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
trong những trường hợp cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự (điểm d
khoản 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tương đương với
khoản 4 Điều 189 BLTTDS[20]).
Xét về góc độ pháp lý thì việc đình chỉ này chưa hẳn đã là hợp lý. Quy
phạm này dường như chỉ phù hợp khi vụ việc đang được xử lý trên góc độ
hình sự trong khi đó các trường hợp được Tòa dân sự giải quyết chưa được
thụ lý theo thủ tục hình sự. Hơn nữa, theo quy định trên thì việc thủ
tục dân sự bị đình chỉ khi cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự. Như
đã nói ở trên, nhìn chung những quy định về dân sự hoàn toàn có thể
được áp dụng độc lập nên không nhất thiết là khi có dấu hiệu hình sự
chúng ta phải đợi kết quả của việc giải quyết theo tố tụng hình trước.
Với cách giải quyết như Tòa dân sự, chúng ta không bảo vệ một cách hiệu
quả người bị thiệt hại mà là phần nào bảo vệ người gây thiệt hại. Vẫn về
góc độ văn bản, trong Quyết định năm 2006, Tòa dân sự lại viện dẫn Điều
192 (về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự) và Điều 168 (về trả lại đơn
khởi kiện) của BLTTDS. Việc không thống nhất trong việc viện dẫn cơ sở
pháp lý (văn bản) cho thấy những cơ sở pháp lý đó chỉ là cái cớ, phương
tiện để áp dụng một giải pháp mà Tòa dân sự muốn áp dụng. Khi nghiên cứu
hai điều luật trên của Bộ luật Tố tụng dân sự, chúng ta không thấy hoàn
cảnh mà chúng ta đang xem xét trong danh sách những vụ việc Tòa án phải
đình chỉ và trả lại đơn. Thiết nghĩ, việc này liên quan đến tố tụng
hình sự và dân sự nên vượt quá tầm xem xét của Tòa dân sự TANDTC. Do đó,
TANDTC và VKSNDTC nên kết hợp đưa ra một giải pháp chung và nên theo
hướng vẫn cho phép Tòa dân sự xử lý vụ việc.
Kinh nghiệm nước ngoài
Thực tiễn pháp lý một số nước cho thấy việc thay đổi
án lệ không hiếm xảy ra. Nhìn chung, việc thay đổi này dường như xuất
phát từ hai lý do.
Lý do thứ nhất: bản thân án lệ ngay từ đầu
đã bất hợp lý nên việc thay đổi là cần thiết. Xin dẫn một ví dụ trong
thực tiễn pháp lý Pháp[21]. Trong thực tế, có rất nhiều hợp đồng mà ở đó
các bên không xác định giá cả cụ thể khi giao kết. Ví dụ: một công ty
sửa chữa thiết bị điện thoại ký với công ty khác một hợp đồng 15 năm và
họ không xác định giá cụ thể của các linh kiện hay dịch vụ trong quá
trình giao kết. Khi xảy ra tranh chấp, bên nhận thiết bị thường yêu cầu
hủy hợp đồng vì cho rằng đối tượng của hợp đồng không được xác định; do
đó, hợp đồng vô hiệu. Trước năm 1995, Tòa án chấp nhận hủy những hợp
đồng như trên vì đối tượng (ở đây là giá cả của linh kiện hay dịch vụ)
của hợp đồng không được các bên xác định trong giai đoạn giao kết hợp
đồng. Để tuyên bố vô hiệu hợp đồng, Tòa án dựa vào Điều 1129 của Bộ luật
Dân sự; theo đó, “đối tượng của nghĩa vụ phải là một vật xác định, ít
nhất là xác định về chủng loại. Vật có thể không rõ, nhưng vật phải xác
định được”. Cách điều chỉnh trên dẫn đến hủy nhiều hợp đồng với lý do là
đối tượng của hợp đồng không được xác định tại thời điểm giao kết. Giải
pháp này có hậu quả xấu. Bởi thực ra các tranh chấp phát sinh giữa các
bên không phải xuất phát từ việc xác định giá cả cụ thể của linh kiện
hay của dịch vụ mà phần lớn do bên nhận linh kiện hay dịch vụ không muốn
thanh toán tiền linh kiện hay tiền dịch vụ đã nhận. Họ lợi dụng giải
pháp này để gây khó khăn cho đối tác của mình. Chính vì thế mà nhiều học
giả yêu cầu Tòa án thay đổi án lệ. Cuối cùng, ngày 01/12/1995, Tòa án
tối cao Pháp đã họp các Tòa lại và, đối với hàng loạt các hồ sơ tương
tự, Tòa án tối cao Pháp cho rằng Điều 1129 không được áp dụng vào vấn đề
giá cả; việc không định giá vào lúc giao kết không làm ảnh hưởng đến
hiệu lực của hợp đồng trừ khi có quy định cụ thể khác. Nếu sau này, một
bên lạm dụng để đưa ra giá không hợp lý, bên kia có quyền yêu cầu chấm
dứt hợp đồng và có thể yêu cầu bồi thường.
Lý do thứ hai: án lệ hoàn toàn hợp lý trong
một khoảng thời gian nhưng với sự phát triển của xã hội, quy phạm tiềm
ẩn trong án lệ không còn phù hợp nữa nên cũng cần thay đổi. Theo pháp
luật Pháp cũng như pháp luật nhiều nước, trong đó có Việt Nam, khi con
nợ lâm vào tình trạng phá sản thì tòa án có thể được yêu cầu mở thủ tục
phá sản. Chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ trong một khoảng thời gian nhất
định. Khi chủ nợ không gửi giấy đòi nợ trong hạn định thì không còn
quyền đòi nợ đối với con nợ. Vấn đề đặt ra là khi không còn quyền đòi
con nợ, chủ nợ có được quyền đòi người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh không? Trong suốt hàng trăm năm trước những năm 1980, theo Tòa án
tối cao Pháp, chủ nợ vẫn còn quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. Giải pháp này là quá nặng đối với người bảo lãnh,
trong khi đó, các chủ nợ thường cho vay với điều kiện có người bảo lãnh
và người bảo lãnh thường là những người thân của con nợ. Để giảm gánh nợ
cho người bảo lãnh và để người bảo lãnh có lợi khi con nợ yêu cầu mở
thủ tục phá sản, một số học giả yêu cầu thay đổi án lệ. Cuối cùng vào
năm 1984, Tòa án tối cao Pháp đã thay đổi án lệ. Theo Tòa án tối cao,
khi không gửi giấy đòi nợ trong hạn định, chủ nợ cũng không còn quyền
yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Thực tế Việt Nam
ở nước ta, việc thay đổi án lệ dường như cũng không
hiếm xảy ra. Sự thay đổi về cách xử lý trường hợp đồng sở hữu chuyển
nhượng di sản nhưng không có sự đồng ý của những người khác có thể là
một ví dụ. Chẳng hạn, trong một vụ tranh chấp, theo TANDTC, “ngôi nhà
tại cụm 4… mà ông Việt thỏa thuận bán cho bà Yến theo hợp đồng ngày
25/12/1996 tuy ông Việt đứng tên sở hữu chung nhưng thực tế là di sản
thừa kế chưa chia; thuộc quyền đồng sở hữu của nhiều người (anh, chị, em
của ông Việt). Trong số các anh, chị, em của ông Việt, ông Quảng và ông
Phát đã giao kỷ phần thừa kế của mình cho ông Việt. Như vậy, ông Việt
có phần quyền đồng sở hữu là 3/6, nhưng không phải là ông Việt có quyền
bán 1/2 nhà không cần có ý kiến của các đồng sở hữu khác. Theo quy định
của pháp luật, trong trường hợp đồng sở hữu cần bán phần quyền của mình
thì các đồng sở hữu khác có quyền ưu tiên mua. Do vậy, hợp đồng mua bán
nhà giữa bà Yến và ông Việt ký ngày 25/12/1996 là giao dịch vô hiệu toàn
bộ chứ không thể công nhận một phần như án phúc thẩm”[22]. Trong ví dụ
trên, TANDTC đã hủy quyết định của cấp phúc thẩm và cho rằng cần phải
tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn bộ chứ không được thừa nhận một phần hợp
đồng theo kỷ phần của người chuyển nhượng. Hai ví dụ sau cho thấy điều
ngược lại.
Khi còn sống, ông Hảo và bà Ngọc thỏa thuận nhượng
241m2 đất cho ông Điệp và bà Đời với giá 7 chỉ vàng. Chưa làm xong thủ
tục thì ông Hảo chết và anh Thạch con ông Hảo không muốn tiếp tục hợp
đồng. Về vấn đề này, theo TANDTC, “hợp đồng trên chỉ là hợp đồng viết
tay và chưa có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ông Điệp, bà
Đời cũng chưa làm thủ tục sang tên hợp pháp. Hơn nữa, đất trên có một
phần trong quy hoạch. Tuy nhiên, ông Điệp, bà Đời và bà Ngọc thừa nhận
đã nhận đủ tiền, đủ đất. Ông Hảo chết, phần của ông Hảo là di sản và bà
Ngọc, anh Thạch được thừa kế. Anh Thạch yêu cầu hủy hợp đồng và xin
hưởng thừa kế. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận cho tiếp tục thực
hiện hợp đồng 3/4 giá trị của bà Ngọc (kể cả phần bà Ngọc được thừa kế
của ông Hảo) theo yêu cầu của bà Ngọc, ông Điệp, bà Đời là có cơ sở, phù
hợp với thực tế và không gây xáo trộn không cần thiết về nhà đất của
các đương sự. Riêng đối với phần giá trị anh Thạch được thừa kế thì anh
Thạch không yêu cầu thực hiện hợp đồng, nên Tòa án phúc thẩm xác định
phần hợp đồng này vô hiệu, từ đó giao đất cho anh Thạch và buộc anh
Thạch thanh toán tiền cho ông Điệp, bà Đời là đúng”[23].
Những ví dụ vừa rồi cho biết quan điểm của Tòa dân sự
TANDTC liên quan đến tài sản thừa kế đã được một đồng thừa kế chuyển
nhượng. Trong ví dụ đầu, theo TANDTC thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ; còn
trong vụ thứ hai, hợp đồng chỉ vô hiệu một phần.
Khi vấn đề trong hai vụ tranh chấp tương đối giống
nhau, thì sự khác nhau này chỉ có thể giải thích: hoặc là TANDTC thay
đổi quan điểm về cùng một vấn đề và theo cách hiểu của người làm thực
tiễn thì đây là thay đổi án lệ. Hoặc là vì tình tiết ba vụ việc có phần
nào khác nhau; do đó, sự khác nhau này không phải vì thay đổi quan điểm
mà là do giữa các tranh chấp có thêm những yếu tố khác nhau dẫn đến giải
pháp khác nhau. Theo BLDS, “giao dịch dân sự vô hiệu
từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến
hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”. Có thể trong ví dụ thứ nhất,
việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu một phần làm ảnh hưởng đến hiệu lực của
phần còn lại của giao dịch; do đó, Tòa án không thể tuyên bố hợp đồng vô
hiệu một phần. Tuy nhiên, cách giải thích thứ hai có phần nào thuyết
phục hơn. Bởi, trong ví dụ thứ hai, TANDTC có nêu rằng việc chấp nhận
một phần của hợp đồng không “gây xáo trộn không cần thiết về nhà đất của
các đương sự”. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ ví dụ thứ nhất thì chúng ta
thấy, ở đây, TANDTC không chấp nhận tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng
và hoàn toàn không nói là việc tuyên bố vô hiệu một phần làm “ảnh hưởng
đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”. Trong tranh chấp này, Tòa
án dựa vào bản chất “đồng sở hữu” của tài sản để không chấp nhận tuyên
bố hợp đồng vô hiệu một phần. Yếu tố này không được nhắc lại trong ví dụ
thứ hai. ở đây Tòa án đã thay đổi quan điểm (thay đổi án lệ) và theo
chúng tôi, sự thay đổi này có ảnh hưởng tích cực. Bởi nó cho phép thực
hiện phần nào cam kết giữa các bên: hợp đồng đã được các bên tự nguyện
cam kết cần được các bên tôn trọng trong chừng mực có thể nhất.
Hiệu lực hồi tố của án lệ
Còn một vấn đề liên quan đến thay đổi án lệ mà hầu
như các học giả ở nước ta chưa đề cập đến C (ngoài một số người làm thực
tiễn), đó là sự hồi tố của sự thay đổi án lệ. Thực ra, thay đổi án lệ
tức là thay đổi quy phạm, thay đổi cách xử lý đối với những vụ việc
tương tự như ví dụ trên đã phân tích. Phần lớn các bản án của TANDTC
chưa được công bố nên nhận thức về án lệ cũng như hiệu lực hồi tố của
thay đổi án lệ còn hạn chế. Tuy nhiên, xu hướng công bố bản án của
TANDTC ngày càng được củng cố. TANDTC đã cho công bố hai cuốn về Quyết
định giám đốc thẩm năm 2003 và 2004 của Hội đồng Thẩm phán. Mới đây
nhất, TANDTC cho xuất bản hai cuốn tương tự đối với năm 2005 và 2006.
VKSNDTC cũng cho công bố cuốn về những quyết định giám đốc thẩm. Do vậy,
vấn đề hồi tố của thay đổi án lệ sớm muộn cũng được đặt ra. Sự thay đổi
án lệ sẽ được áp dụng đối với những trường hợp tương tự như thế nào?
Chẳng hạn, sự thay đổi vừa nêu ở trên sẽ được áp dụng với tất cả những
chuyển nhượng đã được thiết lập trước thay đổi án lệ hay chỉ giới hạn ở
những giao dịch được thiết lập sau này? Đối với những giao dịch đã được
thiết lập trước thời điểm thay đổi án lệ, phải chăng sự thay đổi sẽ chỉ
được áp dụng đối với những giao dịch trước đó nhưng chưa có tranh chấp
tại tòa án? Những câu hỏi này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng và hy
vọng trong thời gian gần đây sẽ có những công trình nghiên cứu trao đổi
về vấn đề này.
Chú thích:
[1]
Phạm Hoàng Giang, Một số vấn đề về vai trò của án lệ đối với sự phát
triển của pháp luật hợp đồng, Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 2-2007, số
3, tr. 44.
[2] Về vấn đề này, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam., Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Bản án số 4.
[3] Quyết định số 48/GĐT -DS ngày 21/3/2003 của Tòa dân sự TANDTC.
[4] Quyết định số 40/GĐT -DS ngày 20/3/2002 của Tòa dân sự TANDTC.
[5] Quyết định số 01/2004/HĐTP -KT ngày 26/02/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
[6] Về những ví dụ này, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam., Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Bản án số 36.
[7] Bản án số 60/DSPT ngày 23/5/1998 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh.
[8]
Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định phải tịch thu tài sản giao dịch,
hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch không hợp pháp, trừ trường hợp
pháp luật có quy định phải tịch thu. Theo tham luận của Tòa dân sự
TANDTC, “cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định phải
tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức. Do đó, trong trường hợp
này phải định giá giá trị quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và nếu
người đã đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà, quyền
sử dụng đất có nhu cầu sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đó thì công nhận
cho họ được sở hữu nhà, được sử dụng đất, đồng thời buộc họ thanh toán
cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đó bằng đúng số tiền họ đã bỏ ra
mua nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất; nếu sau khi thanh toán còn dư
ra (trong trường hợp giá trị nhà, quyền sử dụng đất ở thời điểm xét xử
cao hơn giá lúc mua) thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ được
hưởng 1/2 số tiền chênh lệch đó, còn lại 1/2 số tiền chênh lệch sẽ do
người đã đứng tên trong hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hoặc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
quyền sử dụng đất đã đồng ý nhận sử dụng nhà, đất đó được hưởng. Vấn đề
này cũng đã có án lệ của Hội đồng Thẩm phán TANDTC” (Tham luận: Một số
vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự, Hà
Nội, ngày 11/01/2008).
[9] Đối với những ví dụ khác, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam., Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2008.
[10]
“Trong sách báo pháp lý đã có một số tác giả đề cập đến vai trò của án
lệ đối với thực tiễn pháp lý ở nước ta, đồng thời kiến nghị phải có sự
thay đổi trong nhận thức về án lệ trong khoa học pháp lý, cần phải coi
đây là một nguồn quan trọng của pháp luật XHCN. Ngược lại cũng có ý kiến
hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của án lệ ở nước ta” (Nguyễn Nức Mai, Về vấn đề án lệ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 3/1998, tr. 47). Án lệ, theo cách hiểu như pháp luật theo hệ thống Anh,
Mỹ không tồn tại ở Việt Nam. Tuy nhiên các hướng dẫn và nguyên tắc xét
xử chung về các vụ án thương mại do TANDTC ban hành có là loại của nguồn
đặc thù của pháp luật thương mại hay không, là vấn đề hiện nay cần được
tranh luận thêm ở Việt Nam (Phạm Duy Nghĩa, Tìm hiểu Luật thương mại Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1999, tr. 26).
[11] Nguyễn Đức Mai, Về vấn đề án lệ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 3/1998, tr. 47.
[12] Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp, năm 2006, tr. 13.
[13] Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu, Luật hành chính Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr. 61.
[14] Xem tương tự, Khoản 2, Điều 20, Luật tổ chức TAND năm 1981; Khoản 1, Điều 18, Luật tổ chức TAND năm 1992, .
[15] Việt Nam cần có án lệ http://vnexpress.net/GL/Phap-luat/2002/04/3B9BB47B/.
[16] Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam lược khảo (Quyển thứ nhất), Sài Gòn 1969, tr. 16 và 17.
[17] Xem Tham lu? n “Một số vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự” của Tòa dân sự TANDTC, Hà Nội, ngày 11/01/2008.
[18] Xem http://www.e-lawreview.com/
[19] Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án Tiến sỹ.
[20] “Tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (khi) cần đợi kết quả giải quyết vụ án
khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ
quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
[21]
Pháp thường được coi là một nước thuộc hệ thống luật thành văn. Tuy
nhiên, cho dù các nhà lập pháp và hành pháp có cố gắng đến mấy đi chăng
nữa thì văn bản của họ vẫn không đầy đủ, hoàn thiện. Để giải quyết những tranh chấp, Tòa án đã buộc phải thiết lập những quy phạm mà người ta thường dùng từ án lệ để chỉ.
[22] Quyết định số 148/GĐT -DS ngày 30/7/2002 của Tòa dân sự TANDTC.
[23] Quyết định số 08/2006/DS-GĐT ngày 23/1/2006 của Tòa dân sự TANDTC.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 12 (128) THÁNG 8/2008
0 comments:
Post a Comment