Bây giờ chúng ta quay lại Trung Hoa cội nguồn phát sinh ra học thuyết
Nho giáo để nghiên cứu sự thăng trầm của Nho giáo trong thời cận, hiện
đại. Sau khi cách mạng Tân Hợi thành công (1911), chế độ phong kiến tồn
tại hàng mấy ngàn năm bi lật đổ, Trung Hoa Dân quốc được thành lập Thái
Nguyên Bồi nhận chức Tổng trưởng Giáo dục. Do thấy trong tôn chỉ giáo
dục đời Thanh có hai điều là: "Trung quân và tôn Khổng, mà trung quân
thì không hợp với chính thể cộng hòa, tôn Khổng thì trái ngược với tự do
tín ngưỡng nên xóa việc tôn thờ Đức Khổng Tử. Mùa thu năm Dân Quốc thứ
năm (1916), Khang Hữu Vi đệ thư lên cho Lê Nguyên Hồng và Đoàn Kỳ Thụy
yêu cầu lấy Khổng giáo làm quốc giáo, đưa vào hiến pháp. Bởi những việc
đó gây cản trở cho phong trào dân chủ nên dẫn tới sự chống đối của Trần
Độc Tú. Trần Độc Tú cho rằng Khổng giáo không dung hòa được với chế độ
lập hiến, do vậy đạo Khổng đi ngược với cuộc sống hiện đại. Lý lẽ đó hợp
với tâm lý ghét chế độ đế chế của thanh niên và trí thức đương thời dẫn
đến sự công kích toàn diện truyền thống Nho giáo (3). Do vậy, họ bỏ học
thuyết duy lý nhã nhặn, kín đáo của Khổng Tử, đi theo học thuyết duy lý
máy móc của phương Tây. Vả lại đạo Khổng bảo thủ, dung hòa được sự hăng
hái của tuổi trẻ và sự thận trọng của tuổi già. Cách mạng chỉ biết có
tuổi trẻ, và mỉm cười trước lời khuyên này của Khổng Tử "Người nào cho
những bờ đê cũ là vô ích và phá bỏ đi thì một ngày kia sẽ bị tai hại của
nạn lụt lội” (4).
Khi phong trào chống Nho gia đạt đến cao trao thì Lương Thấu Minh là
người mở đầu cuộc cách mạng tư tưởng, dựng ngọn cờ Nho giáo bắt đầu đề
xướng Khổng học. Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), Lương Thấu Minh mở một
cuộc "Hội thảo triết học Khổng Tử” ở sở Nghiên cứu triết học. Ông đã nói
lên quan điểm lập trường của ông khi mở cuộc hội thảo triết học ấy"… ở
Trung Quốc ngày nay có người đề xướng Tây học, có người đề xướng Phật
học, chỉ về Khổng Tử là ngượng mồm không ai đám nói đến. Sự thật về
Khổng Tử nếu tôi không đề xướng thì chẳng ai đề xướng? Đó là duyên cớ
bức tôi tự mình đến sống ở nhà họ Khổng” (5).
Trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Trung Quốc, để đoàn kết nhân tâm cùng nhau
chống Nhật, chủ nghĩa dân tộc được hình thành. Nhà nước cũng nêu cao
tinh thần dân tộc, khôi phục đạo đức vốn có. Quốc Dân Đảng thúc đẩy
phong trào đời sống mới, việc đó được xây dựng trên luân lý truyền
thống. Chính trong không khí chân hưng luân lý truyền thống này, năm Dân
Quốc thứ 23 (1934) khôi phục lại ngày lễ kỷ niệm Thánh Đản của Đức
Khổng Tử đã bị Thái Nguyên Bồi bãi bỏ từ năm đầu Dân Quốc (1912). Trong
lễ kỷ niệm nay người được mời nói về học thuyết của Khổng Tử chính là
Lương Thấu Minh - người đầu tiên nêu ngọn cờ phục hưng truyền thống Nho
giáo (6).
Trong các thập kỷ 50, 60, 70 ở Trung Quốc vẫn tiếp tục phê phán Nho
giáo. Nhưng vì nghiên cứu theo định hướng trước nên thiếu phần khách
quan trong phân tích và nhận định không có sức thuyết phục. Trong thời
kỳ này người ta biết phê phán, học thuật thành phê phán chính trị, người
ta gắn “phê phán” Khổng Tử với phê phán các nhà chính trị, quân sự
đương đại của Trung Quốc. Họ phủ nhận sạch trơn Nho học, Nho giáo theo
chủ nghĩa hư vô, thậm chí oán ghét quá khứ, đập phá quá khứ (7).
Ngày nay, ở Trung Quốc vai trò của Nho giáo đã được căn bản khẳng định.
Giới học thuật Trung Quốc đã có Tạp chí nghiên cứu riêng về Khổng Tử.
Hàng trăm đầu sách nghiên cứu về Nho học - Nho giáo ở Bắc Kinh, Thượng
Hải và các tỉnh đã được xuất bản. Các học giả nổi tiếng như Lý Trạch
Hậu, Trương Đại Niên, Thái Thượng Tư, Trương Lập Văn, Thang Nhất Giới,
Phương Lập Thiên... đều lên tiếng "phản tư” (suy nghĩ lại). Họ khẳng
định những giá trị xã hội của Khổng Tử, Mạnh Tử, đồng thời chỉ ra những
nhân tố hợp lý và những nhân tố còn hạn chế của Nho giáo (8).
Nho học - Nho giáo là thành tố văn hóa truyền thống của nhiều nước Đông
Á. Ở Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đã có nhiều cuộc thảo luận về
Nho học Nho giáo. Các học giả nghiên cứu Nho học - Nho giáo ở Đ
ài Loan như Dư Thời Anh, Phó Bội Vinh, Thẩm Thanh Tùng, ở Nhật Bản như
Morishima Michio, Hoàng Sơn Mẫn Thu, ở Hàn Quốc như Lý Hữu Thành, Di Ngư
Thuần đều có những công trình nghiên cứu sâu sắc về Nho giáo, đều nêu
lên những ưu điểm nổi trội của Nho giáo như về các vấn đề gia đình, đất
nước về học thuyết Nhân và Lễ. Ở Pháp giáo sư Léon Vandermeerch cũng
khẳng định tác dụng tích cực của Nho giáo ở các nước Đông Á. Rõ ràng gần
đây có cái "nhiệt Nho giáo” trong nghiên cứu khoa học xã hội hiện đại ở
nhiều nước (9).
Ở Nhật Bản và "bốn con rồng Châu Á" nhiều tác giả và các Nhà quản lý lại
cho rằng, Nho giáo có nhiều yếu tố tích cực giúp cho các nước này tăng
trưởng và phát triển.
Singapore là một xã hội đa nguyên, đa dân tộc, đa tôn giáo, người Hoa
chiếm đa số. Tháng 2/1982 các nhà đương cục về giáo dục Singapore tuyên
bố đưa các môn luân lý học và nho giáo vào các khóa trình tôn giáo để
các học sinh năm thứ 3 và thứ 4 trung học lựa chọn. Tháng 6/1982 phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục Ngô Khánh Thụy cầm đầu một phái đoàn sang
Hoa Kỳ bàn với các học giả Nho giáo người Mỹ gốc Hoa về những nguyên
tắc và kế hoạch thúc đẩy việc thực hiện luân lý Nho giáo. Tháng 7/1982
có 8 vị học giả từ Mỹ đến Singapore để tìm hiểu tình hình, giúp các học
giả Singapore thực hiện việc đó. Các nhà lãnh đao Singapore là Lý Quang
Điệu và Ngô Khánh Thụy đã phát biểu ý kiến nhấn mạnh tầm quan trọng của
luân lý Nho giáo và mối quan hệ sâu sắc giữa tư tưởng Nho giáo với xã
hội người Hoa. Năm 1987 các học giả Singapore và Trung Quốc tổ chức một
cuộc hội thảo quốc tế lớn về Nho học ở Khúc Phụ quê hương Đức Khổng
(l0).
Tại Hội nghị khoa học quốc tế về nghiên cứu Khổng Tử và Đại hội thành
lập liên hiệp Nho học quốc tế nhân kỷ niệm 2.545 năm sinh Khổng Tử tháng
10/1994 ở Bắc Kinh, Lý Quang Diệu - nguyên Thủ tướng Singapore đã nói
lên mối quan hệ xã hội Singapore và Nho giáo. Ông cho rằng, nội dung
giáo dục con người hiện nay ở nước ông là phát huy các giá trị quan và
quy phạm luân lý Nho gia: "76% nhân khẩu Singapore là người Hoa. Văn hóa
dân tộc Hoa chú trọng ngũ luân, cũng tức cha - con có tình thân, vua -
quan thì có nghĩa, chồng - vợ có khác biệt, trưởng - ấu có thứ tự, bạn -
bè có điều tin. Họ xem lợỉ ích xã hội cao hơn lợi ích cá nhân, do đó
không tiếp thu chủ nghĩa cá nhân vô hạn độ của Mỹ" (11).
Ông Lý Quang Diệu nêu rõ một số ý kiến về kết quả thực tế về giá trị
quan Nho giáo đưa lại: "Từ kinh nghiệm quản lý nước Singapore, đặc biệt
là trong những ngày gian khổ từ năm 1959-1969 khiến tôi tin tưởng sâu
sắc rằng, nếu không phải là đại bộ phận nhân dân Singapore, đặc biệt là
trong đại bộ phận nhân dân Singapore được hun đúc giá trị quan của Nho
học thì chúng tôi không có cách gì có thể khắc phục được những khó khăn
và trở ngại đã vấp phải (12).
Cũng tại hội nghị trên ông Cốc Mục, Hội trưởng Hội nghiên cứu Khổng học
Trung Quốc cũng đã nói triển vọng của Nho học - Nho giáo trong phạm vi
quốc tế: "Nho học, văn hóa truyền thống cổ xưa của phương Đông này có
khả năng thu hút được giá trị mới, gây được ảnh hương tích cực trong sự
phát triển mới của xã hội loài người trên thế giới ở một khu vực rộng
lớn (13).
Năm 1995, Hội nghị quốc tế về Nho giáo tồ chúc tại Bắc Kinh đã bầu ông
Lý Quang Diệu làm Chủ tịch Hội Khổng học thế giới. Còn ở Việt Nam vấn đề
nghiên cứu Nho giáo như thế nào? Gần đây ở Việt Nam việc nghiên cứu Nho
giáo lại có chiều hướng mở rộng với các học giả Trần Văn Giàu, Nguyễn
Khắc Viện, Vũ Khiêu, Nguyễn Tài Thư, Quang Đạm, Lê Sĩ Thắng… riêng giáo
sư Nguyễn Tài Thư thuộc Viện Triết học là thành viên tham dự Hội thảo
quốc tế về Khổng Tử tại Bắc Kinh năm 1994.
Ý kiến của các nhà nghiên cứu Việt Nam nói trên có điểm không thống nhất
ngay từng học giả riêng biệt cũng không nhất quán, hiện tại không giống
trước kia: Nói chung các nhà nghiên cứu chỉ tập trung phân tích sâu sắc
ảnh hưởng tích cực và những hạn chế của Nho giáo ở Việt Nam. Nội dung
nghiên cứu của Nho học và Nho giáo trong gần thập kỷ 90 của thề kỷ trước
chủ yếu là tìm hiểu hệ thống giá trị của Nho giáo, sự bất lực của nó
đối với xã h
ội trong thời gian khoảng hơn thế kỷ vừa qua. Trên thực tế các nhà
nghiên cửu Việt Nam chưa đề cập nhiều đến vấn đề lịch sử phát triển của
Nho giáo ở Việt Nam và đặc điểm Nho giáo Việt Nam giống và khác với
Trung Quốc ở điểm nào (14).
Kế thừa tinh hoa Nho học - Nho giáo hoàn toàn không có nghĩa là quay trở
lại với xã hội Nho học - Nho giáo ngày xưa. Xã hội phong kiến đã qua
không bao giờ trở lại những tinh hoa của Nho giáo vẫn là công cụ hữu ích
cho quá trình phát triển xã hợi ngày nay. Để kết thúc tôi xin mượn lời
của Will Durant nhận xét về học thuyết tư tưởng Khổng Tử: Không nên
trách Khổng Tử về tất cả những nhược điểm ấy. Không ai lại đòi một triết
gia phải suy tư cho hai chục thế kỷ. Trong một đời người làm sao có thể
tìm được con đường đưa tới tri thức cho hết thảy các đời sau. Mà rất ít
người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng Tử. Càng hiểu rõ ông,
chúng ta càng ngạc nhiên rằng chỉ có một phần nhỏ trong đạo của ông là
không hợp với khoa học, với những sự biến đổi do thời gian. Khi ta nhận
thấy rằng ngay ở thời đại chúng ta, ông vẫn còn là người chỉ đường chắc
chắn cho chúng ta thì chúng ta quên những lời đôi khi hơi nhàm của ông
và đức độ quá hoàn toàn của ông làm cho ta có lúc chịu không nổi.“(l5).
0 comments:
Post a Comment