Để làm tốt hoạt động thụ lý vụ án dân sự,
hôn nhân gia đình, tạo tiền đề giải quyết vụ án nhanh chóng và hiệu
quả, trước tiên Thẩm phán phải nắm vững kỹ năng chung trong hoạt động
thụ lý đối với tất cả các vụ án dân sự theo nghĩa rộng (dân sự; hôn nhân
gia đình; Kinh doanh, thương mại; Lao động)….Các kỹ năng bao gồm từ
việc nhận đơn; Kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ khởi kiện; Xác
định các điều kiện để thụ lý vụ án (Điều kiện về quyền khởi kiện
của người khởi kiện; điều kiện về thẩm quyền; điều kiện sự việc chưa
được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, trừ trường hợp quy định
tại điểm c, khoản 1 Điều 168 BLTTDS; điều kiện về người khởi kiện phải
nộp tạm ứng án phí và xuất trình biên lai thu tạm ứng án phí trong thời
hạn được thông báo, trừ trường hợp có lý do chính đáng khác); Thủ tục thụ lý và kỹ năng soạn thảo một số văn bản trong giai đoạn thụ lý…
Mục đặc thù trong thụ lý vụ án dân sự chỉ đề cập đến những kỹ năng cần phải chú ý thêm đối với một số vụ án dân sự cụ thể.
1.2.1. Kỹ năng thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng
Trước hết, cần nghiên cứu đơn khởi kiện
để xác định tính hợp pháp của đơn khởi kiện đã đáp ứng đầy đủ về nội
dung và hình thức theo quy định tại Điều 164 BLTTDS hay chưa. Đơn khởi
kiện phải trình bày cụ thể nội dung tranh chấp, yêu cầu cụ thể của
nguyên đơn và thể hiện rõ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị
xâm phạm hay tranh chấp như thế nào. Khi nghiên cứu đơn kiện cần đặc
biệt lưu ý đến yêu cầu khởi kiện: đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu, yêu cầu hủy hợp đồng, yêu cầu phạt hợp đồng, tranh chấp về các
biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng như đặc cọc, thế chấp, bảo lãnh….
Nguyên tắc chung khi xác định quyền khởi
kiện của đương sự cần phải kiểm tra tư cách chủ thể kiện. Nếu là cá
nhân, người khởi kiện phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nếu là
pháp nhân, người khởi kiện phải là người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy
quyền cho người khác khởi kiện, Thẩm phán cần kiểm tra tính hợp pháp của
hợp đồng ủy quyền về nội dung và hình thức theo quy định của BLDS về
hợp đồng ủy quyền và Nghị định số 75/CP về công chứng chứng thực. Thẩm
phán cũng cần có sự phân biệt việc ủy quyền giữa cá nhân, pháp nhân, ủy
quyền thường xuyên hay ủy quyền theo vụ việc.
Ví dụ, A xác lập hợp đồng vay
tiền ở Ngân hàng Công thương chi nhánh quận Đống Đa, Hà nội thời hạn vay
tiền từ ngày 20/5/2006 đến ngày 20/7/2006. Đến hạn trả nợ ngày
20/7/2006 A không trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy giám đốc chi nhánh Ngân
hàng Công thương quận Đống Đa đã đại diện cho Ngân hàng làm đơn khởi
kiện ra Tòa. Trong trường hợp này, khi kiểm tra điều kiện khởi kiện,
Thẩm phán cần lưu ý theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của các Ngân hàng
chuyên doanh (ví dụ, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng đầu tư và phát
triển…) thì các chi nhánh không có quyền tham gia tố tụng khi không có
ủy quyền của Tổng giám đốc. Vì vậy, khi thụ lý giải quyết tranh chấp này
Tòa án cần kiểm tra giám đốc chi nhánh Ngân hàng công thương quận Đống
Đa có được ủy quyền hợp lệ của Tổng giám đốc Ngân hàng công thương tham
gia tố tụng không.
Thẩm phán cũng cần kiểm tra hồ sơ khởi
kiện, các chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đối với loại vụ án tranh
chấp hợp đồng, các giấy tờ liên quan đến yêu cầu kiện của nguyên đơn
thông thường bao gồm:
- Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể
kiện: Nếu là cá nhân thì giấy tờ thường là chứng minh thư nhân dân, giấy
khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình; nếu là pháp nhân, tổ chức thì giấy tờ
bao gồm quyết định thành lập pháp nhân, tổ chức; Giấy phép đầu tư; giấy
đăng ký kinh doanh, điều lệ pháp nhân, ….
- Các giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản là đối tượng giao dịch của hợp đồng. Ví dụ,
tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở thì đương sự phải nộp các giấy tờ
về nguồn gốc nhà; Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đương sự phải nộp các giấy tờ chứng minh về nguồn gốc đất…
- Các bản hợp đồng, các giấy tờ liên quan đến giao dịch. Ví dụ,
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, nguyên đơn phải xuất trình các giấy tờ chứng minh như hợp đồng vay,
giấy biên nhận vay tiền, giấy khất nợ, tài liệu thừa nhận việc vay nợ,
giấy xác nhận của người làm chứng chứng kiến việc cho vay…;
- Các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.
Khi nghiên cứu về thẩm quyền theo lãnh
thổ, trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là bất động sản, khi thụ lý
yêu cầu khởi kiện của đương sự phải xác định rõ yêu cầu của đương sự là
tranh chấp về bất động sản hay tranh chấp về các nghĩa vụ khác phát
sinh từ hợp đồng để xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Nguyên tắc
chung, nếu tranh chấp là bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản
thuộc đối tượng của hợp đồng là Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp (điểm c, khoản 1 Điều 35 BLTTDS).
Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng
là bất động sản ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể lựa
chọn Tòa án nơi có một trong các bất động sản để giải quyết (điểm i khoản 1 Điều 36 BLTTDS). Thẩm phán cũng cần kiểm tra sự lựa chọn của nguyên đơn về Tòa án giải quyết tranh chấp, cụ thể là:
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt
động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ
chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết” (điểm b, khoản 1
Điều 36 BLTTDS);
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ
hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực
hiện giải quyết (điểm g, khoản 1 Điều 36 BLTTDS);
Khi nhận đơn khởi kiện, trong trường hợp
nguyên đơn được lựa chọn nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Thẩm
phán cần lưu ý hướng dẫn cho nguyên đơn cam kết trong đơn kiện chỉ khởi
kiện ở Tòa án nguyên đơn đã lựa chọn mà không khởi kiện tại các Tòa án
khác.
Xác định thời hiệu khởi kiện đối với các
tranh chấp về hợp đồng cần áp dụng quy định của pháp luật tương ứng với
thời điểm xác lập hợp đồng. Vấn đề mấu chốt để xác định thời hiệu trước
tiên phải xác định được tính chất của yêu cầu và thời điểm quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước bị xâm phạm. Ví dụ, đương sự tranh chấp về việc chậm thực
hiện nghĩa vụ, để xác định chính xác thời hiệu khởi kiện, Thẩm phán phải
xác định chính xác thời điểm thực hiện nghĩa vụ.
Nguyên tắc chung khi xác định thời hiệu
khởi kiện tranh chấp hợp đồng, Thẩm phán phải nắm vững quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật nội dung có quy định về thời hiệu khởi
kiện. Trong trường hợp, văn bản quy phạm pháp luật không quy định về
thời hiệu khởi kiện thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 159 BLTTDS để
xác định thời hiệu khởi kiện:
- Đối với tranh chấp hợp đồng dân sự xác
lập trước ngày 1/7/1991. Thời điểm này không có quy định áp dụng thời
hiệu khởi kiện, vì vậy thời hiệu khởi kiện được xác định theo quy định
tại Điều 159 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2.1. mục IV Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004. Việc bắt đầu thời hiệu
khởi kiện theo quy định tại Điều 162 BLDS 2005 cũng được áp dụng cho
việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng giao kết
trước ngày 1/7/1996;
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác
lập từ ngày 1/7/1991 đến ngày 1/7/1996 áp dụng Điều 56 Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự năm 1991, thời hiệu khởi kiện là 3 năm kể từ ngày “vi phạm
hợp đồng”;
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác
lập từ ngày 1/7/1996 đến ngày 31/12/2005 được quy định cụ thể tại tiểu
mục 2.1. mục IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS
năm 2004, cụ thể là:
+ Nếu tranh chấp hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005, thì thời hạn 2 năm, kể từ ngày 1/1/2005;
+ Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày
1/1/2005, thì thời hạn 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị
xâm phạm.
- Đối với tranh chấp hợp đồng được xác
lập kể từ ngày 1/1/2006 thì thời hiệu khởi kiện được xác định theo quy
định tại Điều 427 BLDS năm 2005. Theo đó, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 2 năm, kể từ ngày quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm
phạm.
Thẩm phán cần lưu ý việc tính thời hiệu kể từ “ngày tranh chấp phát sinh” (theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTPTANDTC cũng chính là ngày ‘vi phạm hợp đồng” (Điều 56 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự), “ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm” (điểm a, khoản 3, Điều 159 BLTTDS).
Trường hợp đương sự đề nghị Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì thời hiệu phụ thuộc vào các quy định
tương ứng của BLDS. Thẩm phán cần lưu ý trong việc áp dụng quy định tại
Điều 136 BLDS năm 2005 “Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu’ để kiểm tra về thời hiệu khởi kiện.
1.2.2. Kỹ năng thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất
Bên cạnh kiểm tra đơn khởi kiện theo
nguyên tắc chung, Thẩm phán cần kiểm tra năng lực hành vi tố tụng dân sự
của người khởi kiện, kiểm tra việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của người khởi kiện. Thẩm phán cũng phải xác định rõ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là gì trên cơ sở đó xác định các điều kiện thụ lý cụ thể
mang tính đặc thù riêng của từng quan hệ pháp luật tranh chấp về quyền
sử dụng đất. Trong thực tiễn xét xử các tranh chấp về quyền sử dụng đất
của đương sự thông thường rơi vào một trong các dạng tranh chấp cơ bản
sau:
- Tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất, tranh chấp về đòi lại đất do người khác đang sử dụng;
- Tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thừa kế quyền sử dụng đất.
Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất,
Thẩm phán cần lưu ý kiểm tra việc khởi kiện có đủ điều kiện khởi kiện
không. Theo quy định tại Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 các tranh chấp
đất đai phải được hòa giải tại cấp xã, phường trước khi đương sự khởi
kiện đến Tòa án. Khi các bên có tranh chấp đất đai mà không tự hòa giải
được thì gửi đơn đến ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất
tranh chấp. ủy ban nhân dân xã, phường, Thị trấn nơi có đất tranh chấp
có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp
đất đai.
Như vậy, Theo quy định của Luật đất đai
năm 2003, việc tổ chức hòa giải của UBND cấp xã, phường kết hợp với Mặt
trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hay các tổ
chức xã hội khác là điều kiện bắt buộc phải có trước khi Tòa án nhận đơn
của đương sự. Nếu không có việc hòa giải của UBND cấp xã, phường thì
các đương sự sẽ bị coi là chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại
điểm đ, khoản 1 Điều 168 BLTTDS.
Việc kiểm tra điều kiện về thẩm quyến
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cũng dựa trên cơ sở chung về xác
định thẩm quyền tương tự như các loại vụ án dân sự khác (nguyên tắc xác
định thẩm quyền theo loại việc, theo cấp Tòa án. Xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ ưu tiên xác định Tòa án nơi có bất động sản và xác định
thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu trong trường
hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất ở nhiều địa phương khác nhau.
Đặc trưng cơ bản khi xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai Thẩm phán phải có sự phân biệt giữa thẩm
quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của Tòa án và thẩm
quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của các cơ quan hành chính
(theo quy định của Luật đất đai năm 2003). Đồng thời để xác định chính
xác thẩm quyền, Thẩm phán cũng phải phân biệt rõ tranh chấp về quyền sử
dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân
sự với các quan hệ khiếu kiện liên quan đến quyền sử dụng đất thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính.
Cơ sở để xác định chính xác thẩm quyền
giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, trước tiên cần dựa
trên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án thuộc loại
tranh chấp đất đai nào. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003, Thẩm quyền giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự
thuộc các quan hệ tranh chấp nằm một trong 3 nhóm tranh chấp quyền sử
dụng đất sau:
- Nhóm 1: Tranh
chấp ai là người có quyền sử dụng đất: Đây là tranh chấp phát sinh
trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến các giao dịch về đất. Về
bản chất, khi giải quyết tranh chấp này Tòa án phải xác định chủ quyền
đất thuộc về ai. Đối với loại tranh chấp này, điều kiện bắt buộc để xác
định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là đương sự phải có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ được quy
định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003;
- Nhóm 2: Tranh
chấp liên quan đến các giao dịch về đất (các giao dịch này có thể là
tranh chấp về chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Chuyển đổi quyền sử dụng
đất; Cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; Thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn bằng quyền sử dụng đất; thừa kế quyền sử dụng đất…). Thẩm phán cần
lưu ý trong mọi trường hợp yêu cầu của đương sự thuộc loại tranh chấp
này đều thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân
sự. Đối với các dạng tranh chấp thuộc nhóm 2 này, Tòa án thụ lý giải
quyết vụ án không cần điều kiện đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hay có một trong các loại giấy tờ được quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 hay không;
- Nhóm 3: Tranh
chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Theo quy định tại khoản
1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 những tranh chấp về tài sản gắn liền
với quyền sử dụng đất đều do Tòa án nhân dân giải quyết. Khi thụ lý giải
quyết dạng tranh chấp thuộc nhóm 3, Thẩm phán cần xác định các tài sản
tranh chấp có thể là một trong các tài sản sau: Nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ
sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây hàng rào gắn với nhà
ở; Các công trình xây dựng trên đất được giao hoặc được thuê để sản xuất
kinh doanh (nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu, chuồng trại chăn
nuôi) hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây
ăn quả, các cây lâu năm khác gắn với việc sử dụng đất.
Đối với các dạng tranh chấp thuộc nhóm 3,
người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Khi có đơn khởi kiện về tranh chấp quyền
sử dụng đất, Tòa án căn cứ vào các quy định tại Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính Phủ về phương pháp xác định giá
đất và khung giá các loại đất, Điều 7, Điều 9 Nghị định 70/CP ngày
12/6/1997 của Chính Phủ về án phí, lệ phí Tòa án, Điều 130 BLTTDS có thể
tham khảo thêm ý kiến của cơ quan tài chính vật giá và các cơ quan chức
năng khác để tạm xác định giá quyền sử dụng đất có tranh chấp và trên
cơ sở đó tính tiền tạm ứng án phí của vụ án để thông báo về việc nộp tạm
ứng án phí cho đương sự.
Một số trường hợp cần tham khảo các
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao khi tính tạm ứng án phí: Những vụ
án tranh chấp đòi nhà cho mượn, cho ở nhờ, cho thuê thì là vụ án không
có giá ngạch (Công văn số 451/KHXX ngày 20/7/1994 của Tòa án nhân dân
tối cao;. Những vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất là vụ án có giá ngạch
(điểm 9 mục IV Công số số 16/1999/KHXX ngày 1/2/1999 của Tòa án nhân
dân tối cao).
1.2.3. Kỹ năng thụ lý vụ án tranh chấp về thừa kế
Thẩm phán kiểm tra đơn kiện, tư cách chủ thể kiện, xác định các loại tranh chấp về thừa kế thuộc dạng tranh chấp nào:
- Tranh chấp về quyền thừa kế: Quyền yêu
cầu chia di sản thừa kế, yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác;
- Tranh chấp thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật;
- Tranh chấp về di sản thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
Xác định các giấy tờ cần thiết mà người
khởi kiện phải xuất trình để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình
(căn cứ theo quy định tại Điều 165 BLTTDS): Di chúc (nếu có), giấy chứng
tử, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, sơ yếu lý lịch, các giấy tờ chứng minh
di sản…
Thẩm phán cần xác định yêu cầu khởi kiện
của đương sự, xác định thời điểm mở thừa kế – thời điểm người có tài sản
chết để kiểm tra về thời hiệu khởi kiện.
* Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được xác định là 10 năm kể từ thời
điểm mở thừa kế đối với các vụ án có thời điểm mở thừa kế kể từ ngày
1/7/1991 (khoản 1, Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1991; Điều 648 BLDS 1995; Điều 645 BLDS 2005);
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế, Thẩm phán cũng cần lưu ý một số các quy định khác về thời hiệu
được quy định trong BLDS, đặc biệt là những trường hợp không tính vào
thời hiệu khởi kiện. Cụ thể là:
- Vụ án có rơi vào trường hợp thời gian
không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 161 BLDS 2005:
Do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có
quyền khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu; Chưa có
người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa thành
niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự; Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác
mà không thể tiếp tục đại diện trong trường hợp người đại diện của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự chết;
- Thẩm phán cần lưu ý các quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 162 BLDS 2005;
- Quy định về thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện đối với việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp
lệnh thừa kế (30/8/1990). Việc xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế
trên thực tế cũng tương đối phức tạp liên quan đến khá nhiều các văn bản
khác nhau và việc xác định thời điểm mở thừa kế. Đối với việc thừa kế
đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thừa kế (ngày 30/8/1990), theo quy
định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế thì thời hiệu khởi kiện đến
hết ngày 9/9/2000. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số
58/UBTVQH10 ngày 25/8/1998 của Uỷ ban thường vụ quốc hội từ ngày
1/7/1996 đến ngày 31/12/1998 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với
giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 1/7/1991. Do vậy, thời hiệu
khởi kiện loại việc này được tính đến ngày 9/3/2003. Bắt đầu từ ngày
10/3/2003 đương sự không còn quyền khởi kiện đối với những vụ án thừa kế
có thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990.
Đối với những vụ án thừa kế có thời điểm
mở thừa kế từ ngày 10/9/1990 đến trước ngày 1/7/1991 đây cũng là loại vụ
án bị tạm đình chỉ giải quyết do đợi Nghị quyết 58/1998, thời gian từ
1/7/1996 đến 31/1/21998 cũng không tính vào thời hiệu khởi kiện, do vậy
những vụ án thừa kế có thời hiệu khởi kiện trong khoảng thời gian từ
10/9/1990 đến ngày 30/6/1991 đến 1/1/2004 mới hết thời hiệu khởi kiện.
Ngoài ra, khi thụ lý giải quyết vụ án
tranh chấp về quyền thừa kế, Thẩm phán cũng cần lưu ý quy định về “không
áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế’ được hướng dẫn tại Mục 2
Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP “Trường hợp trong thời hạn mười
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp
về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau
khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp
về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia
thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh
chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện
về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản
chung để giải quyết”.
Hướng dẫn này cho thấy có sự
chuyển hóa về quan hệ giữa yêu cầu chia thừa kế và yêu cầu chia tài sản
chung khi hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Khi đương sự có yêu cầu
chia tài sản chung ở thời điểm hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Tòa
án chỉ thụ lý và giải quyết khi có tài liệu thể hiện các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế, và có đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản:
- Đối với việc mở thừa kế trước ngày ban
hành Pháp lệnh thừa kế thì thời hiệu khởi kiện được xác định là 3 năm kể
từ ngày banh hành Pháp lệnh thừa kế (khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế
năm 1990);
- Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày ban
hành Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990) thời hiệu khởi kiện được xác định là 3
năm kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm
1990);
- Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày
1/7/1996 đến ngày 31/12/2005: áp dụng thời hiệu khởi kiện 2 năm quy định
tại Điều 159 BLTTDS để xác định thời hiệu khởi kiện về yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản
chi từ di sản (do tại Điều 648 BLDS 1996 không quy định về thời hiệu
khởi kiện đối với yêu cầu này);
- Đối với việc mở thừa kế kể từ ngày
1/1/2006 thời hiệu khởi kiện về về yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa
vụ do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được xác
định là 3 năm kể từ ngày người có di sản thừa kế chết (Điều 645 BLDS
2005)
Về thẩm quyền giải quyết, trường hợp vụ
án có tranh chấp di sản là bất động sản, khi xác định thẩm quyền theo
lãnh thổ lưu ý áp dụng quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 35 BLTTDS. Nếu
di sản thừa kế là bất động sản ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bất động sản giải quyết.
Việc xác định thẩm quyền này dựa trên cơ sở điểm i, khoản 1 Điều 36
BLTTDS.
Thẩm phán cũng cần xem xét trường hợp vợ
góa hoặc chồng góa có quyền yêu cầu chưa chia di sản nếu trong thời hạn
nhất định (không quá 3 năm) việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của họ (khoản 3 Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính Phủ quy định
chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000);
1.2.4. Kỹ năng thụ lý vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Khi kiểm tra đơn khởi kiện Thẩm phán cần
lưu ý nghiên cứu kỹ nội dung đơn kiện xem xét các dấu hiệu pháp lý nhằm
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của đương
sự và bản chất pháp lý của yêu cầu để Thẩm phán xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp thuộc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nào:
- Bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xây dựng trái pháp luật gây ra;
- Bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín;
- Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra;
- Bồi thường thiệt hại do người của Pháp nhân gây ra;
- Bồi thường thiệt hại do xúc vật gây ra…
Thẩm phán cần có sự phân biệt quan hệ
pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với quan hệ thực hiện
công việc không có ủy quyền và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng (đặc biệt là loại hợp đồng dịch vụ).
Các giấy tờ cần thiết mà đương sự phải
nộp để chứng minh cho yêu cầu của mình trong loại vụ án này là: Các giấy
tờ chứng minh tư cách chủ thể kiện; các chứng cứ chứng minh thiệt hại;
các văn bản, tài liệu giải quyết của các cơ quan chức năng (nếu có)…
Xuất phát từ đặc trưng của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải lúc nào người gây thiệt
hại cũng là người phải trực tiếp bồi thường, khi kiểm tra đơn khởi kiện,
Thẩm phán cần hướng dẫn cho đương sự (nguyên đơn) khởi kiện đúng đối
tượng trong những trường hợp người gây thiệt hại là vị thành niên và
trong những trường hợp người có trách nhiệm bồi thường không phải là
người trực tiếp gây thiệt hại (trường hợp thiệt hại do người của pháp nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước gây ra hoặc do tài sản của chủ sở hữu gây ra…).
Ví dụ: A là lái xe của pháp nhân
B, trên đường đi thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân B giao, A đâm vào C
gây tai nạn cho C. Trong trường hợp này C có quyền yêu cầu pháp nhân B
phải bồi thường thiệt hại cho mình theo quy định tại Điều 618 BLDS. Tuy
nhiên nếu C không kiện pháp nhân B mà chỉ kiện A, trong trường hợp này
Tòa án nên hướng dẫn C khởi kiện đúng đối tượng là pháp nhân B. Nếu C
vẫn không khởi kiện pháp nhân B, thì vẫn phải xác định A là bị đơn –
người bị nguyên đơn khởi kiện cho rằng đã xâm phạm lợi ích của họ. Tòa
án cần đưa pháp nhân B (người có trách nhiệm bồi thường – theo quy định
tại Điều 618 BLDS 2005) tham gia với tư cách người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan trong vụ án.
Khi kiểm tra tư cách chủ thể kiện, Thẩm
phán cần đặc biệt lưu ý xác định tư cách chủ thể khởi kiện, xác đinh
người đại diện cho đương sự tham gia tố tụng, các trường hợp ủy quyền và
ủy quyền lại;
Thực tiễn xét xử nhiều trường hợp vụ án
bồi thường thiệt hại được chuyển đến Tòa án từ cơ quan điều tra hình sự.
Trong những trường hợp này, Thẩm phán cần lưu ý phải hướng dẫn cho
nguyên đơn làm đơn khởi kiện theo đúng quy định của BLTTDS.
Về thẩm quyền giải quyết, trong vụ án yêu
cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nguyên đơn có quyền lựa chọn
Tòa án giải theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 36 BLTTDS: Tòa án nơi
nguyên đơn cư trú; Tòa án nơi nguyên đơn làm việc; Tòa án nơi nguyên
đơn có trụ sở; Tòa án nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết
Khi nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán cần lưu
ý giải thích cho nguyên đơn biết là chỉ có một Tòa án trong các Tòa án
được điều luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ án để họ lựa
chọn.
Khi kiểm tra thời hiệu giải quyết, nguyên
tắc chung Thẩm phán phải xác định ngày tổ chức, cá nhân có quyền và lợi
ích hợp pháp bị vi phạm theo quy định tại Điều 159 BLTTDS trong các
trường hợp cụ thể. Trong trường hợp ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm trước ngày 1/1/2006 thì
thời hiệu khởi kiện được xác định căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản
3 Điều 159 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2.1. mục IV Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004. Trường hợp ngày quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm kể
từ ngày 1/1/2006 áp dụng quy định tại Điều 607 BLDS năm 2005 thời hiệu
khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định là 2 năm, kể từ
ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị
xâm phạm.
Ngoài ra, theo quy định chung điều kiện
để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là vụ án chưa được giải quyết bằng bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, một số vụ án bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng mặc dù đã được Tòa án giải quyết và đang thi hành thì Tòa
án vẫn được quyền thụ lý giải quyết vụ án mới nếu người bị thiệt hại
khởi kiện lại cho rằng mức bồi thường đang thi hành không còn phù hợp
nữa.
Vụ án yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe thì Tòa án không yêu cầu người khởi kiện phải nộp
tạm ứng án phí (Điều 13 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 về án phí và lệ
phí Tòa án.
1.2.5. Kỹ năng thụ lý vụ án ly hôn
Khi kiểm tra đơn khởi kiện, Thẩm phán
phải xác định rõ yêu cầu của đương sự thể hiện trong đơn, kiểm tra các
điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn để xác định quan hệ hôn nhân của
đương sự là hợp pháp, hôn nhân trái pháp luật hay không phải là quan hệ
hôn nhân. Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có
đăng ký kết hôn, Thẩm phán phải làm rõ trong trường hợp nào họ được coi
là vợ chồng, trường hợp nào không được coi là vợ chồng để xác định quan
hệ pháp luật và thủ tục tố tụng (việc hôn nhân gia đình hay án hôn nhân
gia đình) để vào sổ thụ lý giải quyết.
Thẩm phán cần căn cứ theo yêu cầu của
đương sự và các chứng cứ mà đương sự xuất trình để áp dụng các căn cứ
pháp lý sau khi xác định quan hệ pháp luật:
- Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội khóa X về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Khi xem xét đơn khởi kiện, Thẩm phán cần
phải xác định các vấn đề về hôn nhân, tài sản và con cái có được các
đương sự thỏa thuận giải quyết không, thỏa thuận cụ thể của đương sự là
gì, vấn đề gì đương sự không thỏa thuận được. Việc khởi kiện vụ án ly
hôn phải do chính các đương sự khởi kiện không được ủy quyền cho người
khác thay mình, trừ các vấn đề tranh chấp về tài sản và con (khoản 3
Điều 73 BLTTDS);
Thẩm phán cần kiểm tra các giấy cần cần
thiết kèm theo đơn khởi kiện của nguyên đơn: Giấy khai sinh, giấy đăng
ký kết hôn, sổ hộ khẩu, giấy khai sinh của con, các giấy tờ chứng minh
tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng; giấy vay, nợ (nếu có)…
Thẩm phán cần tiến hành kiểm tra năng lực
hành vi tố tụng dân sự của người khởi kiện. Xác định người khởi kiện có
thuộc trường hợp hạn chế quyền khởi kiện đối với trường hợp người chồng
xin ly hôn mà vợ đang có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng (căn cứ
theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS);
Khi người vợ đang thuộc một trong các
trong các trường hợp đang có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng
tuổi (không phân biệt có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng
tuổi là ai), người chồng có yêu cầu xin ly hôn Tòa án trả lại đơn kiện
cho người nộp đơn (mục 6 hướng dẫn của Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000).
Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn
thì đương sự không được kiện lại trong thời hạn 1 năm. Sau một năm kể từ
ngày bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp
luật, người có đơn xin ly hôn mà bị Tòa án bác đơn xin ly hôn mới được
quyền kiện lại (mục c, điểm 10 Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000)
Thẩm quyền theo vụ việc được xác định
theo ý chí của các đương sự (thuận tình hay ly hôn do một bên yêu cầu…)
thể hiện trong đơn và tính chất của quan hệ hôn nhân. Nếu việc ly hôn do
một bên yêu cầu thì đó là vụ án dân sự, được thụ lý theo khoản 1 Điều
27 BLTTDS. Nếu thuận tình ly hôn, hủy hôn nhân trái pháp luật thì đó là
việc dân sự, được thụ lý theo khoản 2, khoản 1 Điều 28 BLTTDS.
Xác định thẩm quyền theo cấp Tòa án tương
tự như các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình khác. Lưu ý hướng dẫn tại
mục 4 “về khoản 3 Điều 33 BLTTDS, phần I “Thẩm quyền của Tòa án” Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy
định trong phần thứ nhất “Những quy định chung của BLTTDS năm 2004” thì
vụ án có đương sự ở nước ngoài; tài sản ở nước ngoài; Cần ủy thác tư
pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước
ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nhưng vụ
án có đương sự là nước ngoài, hiện đang sinh sống, làm việc ở Việt Nam
thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Đối với yêu cầu giải quyết việc ly hôn,
giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết của Tòa án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú
của công dân Việt Nam (khoản 3 Điều 102 Luật hôn nhân và gia đình 2000);
Việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ
nguyên tắc chung được xác định theo nơi cư trú hoặc làm việc của bị đơn
(điểm a, khoản 1 Điều 35 BLTTDS).
Khi kiểm tra điều kiện về thẩm quyền,
Thẩm phán cần lưu ý về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên
đơn, người yêu cầu:
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc của
bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú làm việc
cuối cùng (điểm a, khoản 1 Điều 36 BLTTDS);
- Nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
nguyên đơn cư trú, làm việc giải quyết nếu bị đơn không có nơi cư trú,
làm việc ở Việt Nam (điểm c, khoản 1 Điều 36 BLTTDS;
Về việc nộp tạm ứng án phí, về nguyên
tắc, khi đương sự có yêu cầu ly hôn (ly hôn do một bên yêu cầu), đương
sự chỉ phải nộp tạm ứng án phí của vụ án không có giá ngạch là 50.000
đồng (khoản 1 Điều 7 Nghị định 70 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 về án
phí và lệ phí Tòa án; Điều 130 BLTTDS). Trường hợp có tranh chấp về tài
sản thì người nộp đơn khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí theo tỷ lệ của
giá trị tài sản tranh chấp (khoản 3 Điều 7 Nghị định 70/CP ngày
12/6/1997 về án phí và lệ phí Tòa án; Điều 130 BLTTDS) Nếu các bên có
thỏa thuận được về tài sản thì tạm ứng án phí chỉ là 50.000 đồng (Công
văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về việc giải đáp một số vấn đề về
hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng…)
———————————————-
SOURCE: WWW.TAND.HOCHIMINHCITY.GOV.VN
0 comments:
Post a Comment