1. CƠ SỞ HIẾN ĐỊNH
Điều 21:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.
Điều 25:Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn,tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Điều 26:
Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.
---
NHÓM 10 - LUẬT 3B - VB2
Phần 2. Nội dung
I. Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng chính sách, kế hoạch, pháp luật.
1. Nhà nước quản lý kinh tế bằng chính sách.
1.1. Khái niệm chính sách kinh tế.
a. Khái niệm chính sách:
- Theo nghĩa rộng: Chính sách kinh tế là toàn bộ quan điểm, tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
- Theo nghĩa hẹp: Chính sách kinh tế là tổng thể các quan điểm, chuẩn mực, biện pháp, thủ thuật mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản nhằm đạt được những mục tiêu trong số những mục tiêu chiến lược chung của đất nước.
Theo quan niệm phổ biến thì Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Do đó, việc tuyên bố chính sách hay ban hành một chính sách là việc một cá nhân/hay tổ chức đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết những vấn đề tương tự.
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra những phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở nhà quản lý những vấn đề nào có thể và những vấn đề nào không thể. Bằng cách đó, các chính sách ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
b. Khái niệm chính sách kinh tế:
- Khái niệm chính sách kinh tế: là những chính sách điều tiết các mối quan hệ kinh tế nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế, nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô và đạt trạng thái toàn dụng lao động, còn được gọi là chính sách quản lý tổng cầu vì nó tác động đến phía cầu của nền kinh tế.
- Vai trò: Chính sách kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của đất nước, vì nó đóng vai trò tạo ra cơ sở để thực hiện tất cả các chính sách công khác.
1.2. Nội dung:
Chính sách kinh tế tạo thành một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chính sách như:
- Chính sách tài chính.
- Chính sách tiền tệ- tín dụng.
- Chính sách phân phối.
- Chính sách kinh tế đối ngoại….
1.3. Những đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế:
- Chính sách là tư tưởng điển hình về các kiểu can thiệp của Nhà nước vào kinh tế thị trường.
- Chính sách là hành động can thiệp của Nhà nước nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề chính sách chín muồi. Đó là những vấn đề lớn, có tầm ảnh hưởng rộng, mang tính bức xúc trong đời sống kinh tế.
- Chính sách giải quyết những mục tiêu bộ phận, có thể mang tính dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn, nhưng phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu chung, mang tính tối cao của đất nước.
- Chính sách không chỉ thể hiện kế hoạch của các nhà hoạch định chính sách, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện những kế hoạch trên.
- Chính sách được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của nhiều người hoặc của xã hội.
Như vậy, ở Việt Nam, đường lối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng. Các quan điểm, tư tưởng phát triển của đất nước là nguyên tắc thể hiện bản chất của chế độ xã hội, được dùng làm cơ sở xem xét mọi vấn đề trong tiến trình xây dựng đất nước. Đánh mất nó Nhà nước và xã hội sẽ biến chất. Hành động không quan điểm là múa rối, liên kết hội nhập không quan điểm là đầu cơ, nhượng bộ không quan điểm là đầu hàng, thủ đoạn không quan điểm là phá hoại. Các quan điểm còn là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả các phân hệ trong xã hội (lĩnh vực, ngành, địa phương). Nó là chuẩn mực lựa chọn các mục tiêu bộ phận và các mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn phát triển, đảm bảo không gây tổn hại tới mục tiêu chung, lợi ích chung của đất nước.
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các mục tiêu mà chúng ta đặt ra và lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mơ để đạt được các mục tiêu đĩ. Các mục tiêu lại đòi hỏi lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mơ phù hợp. Vì vậy, lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mơ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần thận trọng, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn.
Nền kinh tế Việt Nam đang nóng. Bằng chứng là lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng, thâm hụt ngân sách và thương mại ngày càng lớn, và bong bóng giá bất động sản ngày càng phình to.
Làm thế nào để giảm lạm phát và tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô? Tiếp theo Báo cáo "Lựa chọn thành công" được dư luận rất quan tâm mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu cùng độc giả, nhóm giáo sư, chuyên gia kinh tế Đại học Havard tư vấn chính sách kinh tế cho Việt Nam lại vừa đưa ra 5 khuyến nghị nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong một nghiên cứu mới của mình.
1. Phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách
Trong điều kiện nền kinh tế đang quá nóng như hiện nay, các chuyên gia của trường Đại học Havard cho rằng Chính phủ cần phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách để giảm tốc độ tăng trưởng của tổng cầu. Tuy nhiên, các chuyên gia lưu ý điều này cũng không thể dễ dàng thực hiện trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt Nam.
Cụ thể như trong trường hợp áp dụng tăng lãi suất (duy trì lãi suất thực dương) để giảm tổng cầu. Mức lãi suất cao hơn sẽ tạo thuận lợi cho thu hút thêm vốn nước ngoài từ đó làm tăng cung tiền. Kết quả của biện pháp này là gây thêm áp lực tăng lãi suất đối với Ngân hàng Nhà nước, và vòng xoáy tăng lãi suất - thu hút thêm vốn nước ngoài cứ thế được lặp lại.
Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng chính sách tiền tệ và ngân sách phải được phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với nhau. Chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ không phát huy tác dụng nếu ngân sách tiếp tục được nới rộng. Bên cạnh việc giảm đầu tư công, Chính phủ vẫn phải ưu tiên các dự án có mức sinh lời cao và việc cắt giảm đầu tư công cũng sẽ không giúp giảm lạm phát nếu như dòng vốn không được "thu hồi" một cách hiệu quả, lãi suất thực vẫn tiếp tục âm.
2. Một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấp
Đây là khuyến nghị mới, đáng chú ý nhất trong nghiên cứu này của các chuyên gia. Họ cho rằng tại thời điểm hiện nay, thẩm quyền ra quyết định chính sách ở Việt Nam quá phân tán, và điều này một mặt cản trở sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan hoạch định chính sách, mặt khác gây khó khăn cho các nhà lãnh đạo cao nhất khi họ phải phản ứng một cách quyết đoán nếu khủng hoảng xảy ra.
Một thông điệp chính được các chuyên gia kinh tế đưa ra là: "Để có thể duy trì sự nhất quán và ổn định trong hệ thống chính sách vĩ mô, Việt Nam cần tập trung thẩm quyền hoạch định chính sách trong tay một cơ quan duy nhất." Từ đó, các chuyên gia đề nghị thành lập một "siêu bộ" hay một cơ quan hoạch định chính sách chung cho ba mảng (đầu tư công, tài trợ đầu tư và chính sách tiền tệ) trực thuộc Thủ tướng và có quyền hạn lớn, cao hơn các bộ, ban ngành, chính quyền địa phương, và tất nhiên là cả các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng, cơ quan này có quyền đình chỉ hay cắt giảm những dự án đầu tư công chưa thực sự cần thiết hay lãng phí. Thành viên của cơ quan này phải được lựa chọn dựa theo năng lực, có mức lương tương đương với những chức vụ quản trị ở khu vực tư. Cơ quan này sẽ báo cáo trực tiếp cho Thủ tướng Chính phủ và phải được bảo vệ khỏi sức ép chính trị và sự tác động của các nhóm đặc quyền đặc lợi.
3. Tăng cường năng lực và tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước
Theo đánh giá của các chuyên gia thì hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không đủ thẩm quyền và công cụ chính sách, đồng thời cấu trúc quản lý lại bất cập để có thể vận hành như một ngân hàng trung ương thực thụ. Chính vì vậy, các nhà kinh tế của trường Havard khuyến nghị Chính phủ cần có kế hoạch tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước theo hướng tăng cường tính độc lập (đặc biệt là độc lập về mục tiêu và công cụ) và khả năng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong một nền kinh tế thị trường hiện đại.
Điều này đòi hỏi sự góp ý và tư vấn của các chuyên gia về ngân hàng trung ương, bao gồm một số thống đốc ngân hàng trung ương trong khu vực và một số chuyên gia kỹ thuật quốc tế đã từng làm việc tại các nước Đông Nam Á. Mặc dù việc thuê chuyên gia nước ngoài khá đắt nhưng vẫn còn rẻ hơn rất nhiều so với cái giá phải trả khi xây dựng một ngân hàng trung ương mà không có sự dẫn dắt của các chuyên gia giàu kinh nghiệm. Để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo tính bảo mật và làm chủ chính sách khi thuê chuyên gia nước ngoài, Chính phủ Việt Nam nên tự mình lựa chọn và trả lương cho chuyên gia chứ không nên dựa vào nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế.
4. Kiểm soát đầu tư công
Theo các chuyên gia, đầu tư công kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát. Chính phủ đã phê duyệt một danh sách các dự án đầu tư công đầy tham vọng từ nay cho tới 2015 với tổng số vốn ước tính lên tới 70 tỷ USD. Để đảm bảo lượng vốn khổng lồ này được sử dụng hiệu quả, Chính phủ cần phân tích thật cẩn thận những chương trình đầu tư công hiện tại, bao gồm cả những dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước để từ đó xây dựng danh mục các dự án ưu tiên đầu tư căn cứ theo tiêu thức hiệu quả kinh tế.
Đồng thời, cũng cần xây dựng các phương án dự phòng khi xảy ra tình huống xấu để có thể đình chỉ hay cắt giảm ngay một số dự án khi điều kiện kinh tế vĩ mô trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, cũng cần kiểm soát chặt các dự án vay thương mại trên thị trường tài chính quốc tế của các tập đoàn, DN nhà nước, hay dự án đầu tư công. Thực hiện hoạt động thẩm định và kiểm toán đầu tư công độc lập, sau đó công khai hóa các thông tin về thẩm định và kiểm toán này.
5. Giảm bong bóng bất động sản
Chính phủ cũng cần "xì hơi" bong bóng bất động sản từ từ để tránh sự đổ vỡ đột ngột của thị trường, điều mà nếu xảy ra sẽ gây náo loạn khu vực tài chính với nguy cơ tác động lan tỏa tới nền kinh tế thực (tức là hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng hóa và dịch vụ). Theo các nhà kinh tế, cách tốt nhất để xì hơi bong bóng là đánh thuế bất động sản. Bên cạnh đó, cần thắt chặt và kiểm soát sát sao các khoản tín dụng đầu tư bất động sản và các khoản cho vay được thế chấp bằng bất động sản.
- Chính sách kinh tế cần có “tầm nhìn”
Những dự báo trái chiều về tình hình kinh tế Việt Nam năm 2010 vẫn tiếp tục được đưa ra. Các chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng, muốn có được sự phát triển bền vững hơn, Việt Nam cần chính sách phát triển có “tầm nhìn”.
- “Liều lượng” chính sách nên vừa phải
TS Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu, quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng: “Một chính sách không nên thực hiện một lần, nhưng cũng không nên lặp lại nhiều lần”. Đồng tình với quan điểm này, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích, mỗi công cụ chính sách chỉ giải quyết được một mục tiêu nên không nhất thiết phải kéo quá dài. Mặt khác, sự thiếu cân bằng trong nền kinh tế cần đến sự can thiệp của chính sách không mang tính bền vững mà là vấn đề thời điểm nên cần được điều chỉnh phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét chi phí của mỗi phương án điều chỉnh để không gây lãng phí.
Theo TS Nguyễn Đình Cung - Phó Viện trưởng CIEM, các chính sách kinh tế của Việt Nam nên chú trọng vào các vấn đề vi mô, từ đó giúp cải thiện các vấn đề vĩ mô. Cụ thể như việc bãi bỏ các chính sách bao cấp, trợ cấp, bảo hộ, lấy những quy tắc chuẩn của thế giới để áp dụng vào Việt Nam. Những thay đổi như vậy được kỳ vọng sẽ giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn, từ đó ổn định các cân đối vĩ mô.
Cũng theo TS Nguyễn Đình Cung, Việt Nam không nên quay lại quản lý nền kinh tế bằng các biện pháp hành chính, bởi như vậy khó theo kịp những diễn biến của thị trường và gây lãng phí. Ông Cung ví dụ, trong vòng 4 năm, từ 2005-2008, Việt Nam đã ban hành 17.000 văn bản pháp lý liên quan đến điều hành kinh tế, trong đó có 50% là công văn hướng dẫn thi hành. Số công văn này bằng tổng số văn bản của 18 năm trước đó! Điều này thể hiện sự lạc hậu của cơ chế so với sự phát triển của thị trường.
Tuy nhiên, theo nhận định của TS Võ Trí Thành và TS Nguyễn Đình Cung, nhiều khả năng, Nhà nước sẽ dùng thêm các biện pháp hành chính để quản lý nền kinh tế. Điều này sẽ đặt kinh tế nước ta vào “thế” khó hơn mà nhãn tiền đã thấy, trong 2 năm qua, các biện pháp hành chính quản lý kinh tế buộc Việt Nam phải đặt ra trần lãi suất, trần thâm hụt ngân sách… khiến các mất cân đối có xu hướng tăng lên.
- Khái niệm: Kế hoạch là tập hợp các mục tiêu và các phương thức để đạt được mục tiêu.
Do đó, lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải đạt được gì? Phải làm như thế nào để đạt được? Làm bằng công cụ gì? Khi nào làm và ai làm?
Mặc dù chúng ta ít khi tiên đoán chính xác được tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vỡ cảc những kế hoạch tốt nhất đã có. Nhưng nếu không có kế hoạch thì các sự kiện sẽ diễn ra một cách ngẫu nhiên và sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
- Hệ thống kế hoạch của Nhà nước bao gồm những kế hoạch cơ bản như sau:
+ Chiến lược: là hệ thống đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa hệ thống đạt đến những mục tiêu dài hạn.
+ Nội dung của chiến lược bao gồm:
1. Các đường lối tổng quát, các đường lối mà chủ trương mà hệ thống sẽ thực hiện trong một khoảng thời gian đủ dài.
2. Các mục tiêu dài hạn cơ bản của hệ thống.
3. Các phương thức chủ yếu để đạt được mục tiêu.
+ Và, sau mỗi một giai đoạn chiến lược, hệ thống phải đạt tới một trình độ phát triển vượt bậc với những mục tiêu đặc trưng cho trình độ này.
+ Quy hoạch: là tổng thể các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực để thực hiện mục tiêu theo không gian và thời gian.
Khởi đầu bằng các quy hoạch phát triển đô thị, ngày nay rất nhiều loại hình quy hoạch phát triển kinh tế đã được xây dựng nhằm đảmbảo sự phát triển nhanh chóng, ổn định, có trật tự và hòa nhập với môi trường của nền kinh tế.
+ Kế hoạch trung hạn: (thường là kế hoạch 05 năm) để cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn là loại kế hoạch rất quan trọng, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Các chương trình mục tiêu: được xây dựng rất phổ biến nhằm xác định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng để thực hiện một ý đồ lớn, một mục đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương trình thường gắn với ngân sách cần thiết.
+ Kế hoạch năm: là sự cụ thể hóa nhiệm vụ phát triển kinh tế căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược vào kế hoạch trung hạn, kết quả nghiên cứu để điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch cho phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch.
+ Dự án: tổng thể các hoạt động, nguồn lực, các chi phí được bố trí chặt chẹ theo thời gian và không gian nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể.
+ Ngân sách: là bảng tường trình các con số sự huy động và phân bổ các nguồn lực cho các chương trình và dự án trong một giai đoạn nhất định.
- Đặc trưng của kế hoạch:
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện công tác kế hạch nhằm định hướng kinh tế xã hội, lự chọn mô hình tăng trưởng, lựa chọn các mục tiêu chủ yếu, xây dựng các chính sách kinh tế và cung cấp thường xuyên thông tin đã được xử lý nhằm định hướng, điều tiết hoạt động của thị trường.
Quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch có tiền đè khách quan từ bản thân nền kinh tế. tuy nhiên trong cơ chế thị trường tính chất của các kế hoạch nhà nước đã thay đổi và mang những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Tính định hướng và tổng quát
+ Điều tiết gián tiếp thông qua hệ thống đòn bẩy và khuyến khích kinh tế
+ Hướng vào hiệu quả kinh tế.
+ Kết hợp kế hoạch kinh tế với kế hoạch xã hội.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế thấy rằng: một trong những nội dung quan trọng mà các nhà kinh tế bàn đến là vai trò của nhân tố thị trường và nhân tố Nhà nước trong điều hành quản lý nền kinh tế. Bởi lẽ, vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua, không những ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
Đối với một nền kinh tế đặc thù như nước ta: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. Chẳng hạn như :
- Thứ nhất, Sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
- Thứ hai, Với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hóa được sử dụng như là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng XHCN.
Ngày nay, kế hoạch hóa (KHH) được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Bản chất, nội dung của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT).
Quan niệm về Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN khác hẳn trong nền kinh tế tập trung - bao cấp: nếu trước đây Nhà nước là cho phép và quyết định (theo cơ chế xin - cho), thì ngày nay là Nhà nước tạo khung khổ pháp luật để mọi công dân tự do kinh doanh theo pháp luật và hỗ trợ giúp đỡ, đồng thời giám sát để doanh nghiệp và dân doanh hoạt động sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Kế hoạch hóa trong nền KTTT định hướng XHCN cũng khác với KHH trước đây: nếu trước đây kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước, thì bây giờ kế hoạch phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội v.v...
Nhìn nhận kế hoạch hóa với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội thì mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 6, khóa VI khẳng định: "Trong nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, thị trường vừa là một công cụ vừa là một đối tượng của kế hoạch hóa".
Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường thiên nhiên v.v... Vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hướng và kế hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, Thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà nước, của ngành, của địa phương... Vậy thì xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng cao nhất ?
Nói tạo "một sân chơi bình đẳng" cho các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, vậy Nhà nước điều khiển "sân chơi" đó như thế nào để vừa không hạn chế sự thi thố tài năng của các chủ thể kinh doanh, lại vừa không làm chệch hướng XHCN của nền kinh tế, đảm bảo sự thỏa đáng giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội ?
Nhìn nhận kế hoạch hóa và thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, thì thực chất của vấn đề KHH và cơ chế thị trường được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội.
Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng: Kế hoạch hóa là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch. Bản chất, nội dung của kế hoạch hóa hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, nhà nước XHCN là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường (CCTT) là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Trong nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế - xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp.
Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực: nó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, CCTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển... Về mặt tiêu cực : trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị hủy hoại, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn lậu thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất, kinh doanh không làm những ngành nghề ít lợi nhuận. Để hạn chế những khuyết tật đó, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý nền KTTT. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch định hướng, bằng các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế... CCTT chịu sự tác động rất mạnh của các quy luật kinh tế thị trường, do đó sự can thiệp vĩ mô của nhà nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường.
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải xử lý hài hòa 3 vấn đề sau đây: Một là, giải quyết tốt vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, sao cho vừa đảm bảo cho các chủ thể KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và biện pháp không nên và không cần phải giữ bí mật. Nhà nước cần tăng cường khung khổ pháp lý, hạn chế tối đa mọi can thiệp mang tính áp đặt, trực tiếp và chuyển sang hình thức tác động gián tiếp và khuyến khích. Như vậy, những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hóa trước kia phải được thay bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Liên quan chặt chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng không gian (bao gồm cả quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị) và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua, quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mức, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong điều kiện "tĩnh" và "đóng cửa", không tính được đầy đủ những biến động trên thị trường thế giới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu không được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch những ngành mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông...), những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch : Bản chất quy hoạch là cụ thể hóa chiến lược về mặt không gian và thời gian. Quy hoạch lãnh thổ bám sát nguyên tắc phân cấp, việc xây dựng và thực hiện quy hoạch của cấp nào thì dựa chủ yếu vào tiềm lực của cấp đó, chính quyền cấp trên có trách nhiệm phối hợp điều hòa quy hoạch của chính quyền cấp dưới trực tiếp. Quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch đô thị là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và các cấp chính quyền. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngành khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức độ định hướng, dự báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguồn ngân sách để đầu tư cho các dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy chế công bố công khai các quy hoạch để các thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực thực hiện.
Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần phân cấp quản lý nhà nước theo nguyên tắc "những hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng".
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. Kế hoạch phải căn cứ vào hiện thực, phân tích quan hệ cung - cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước và quốc tế) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định mục tiêu. Việc xác định các mục tiêu phải đi kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự "trả giá", có khi phải hạ thấp yêu cầu mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác cao hơn.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ, quá trình toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng trên toàn thế giới, sự liên kết giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng gắn bó, nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sức ép ngày càng cao đối với mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp. Việc nhận thức đầy đủ những vấn đề này sẽ buộc những nhà hoạch định chính sách phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong bối cảnh chung, trong môi trường "động" và "mở cửa". Không chấp nhận những thách thức này, chắc chắn nền kinh tế sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, dẫn đến bất ổn định trong xã hội.
Trên cơ sở đổi mới về xác định mục tiêu và công cụ, quá trình xây dựng nội dung kế hoạch cần đổi mới theo hướng xác định các mục tiêu phải được làm cùng với xác định biện pháp tương ứng, công cụ chính sách đầu tư ngày càng giảm và công cụ chính sách khuyến khích ngày càng tăng nhằm phát huy hết tiềm năng của cả xã hội (ví dụ: chính sách khuyến khích các hoạt động xã hội hóa ở các lĩnh vực giáo dục, y tế,... đã làm giảm đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước).
Việc xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược có thời hạn 10-15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ; dự thảo chiến lược được công bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến. Mục tiêu chiến lược không được mang tính chủ quan, duy ý chí, những mâu thuẫn giữa các mục tiêu cần được phân tích và xử lý thông qua việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu nhằm đưa ra những biện pháp cụ thể cho từng thời kỳ. Nội dung chiến lược phải đảm bảo tính hệ thống, tính đồng bộ giữa các ngành, các vùng trong phát triển kinh tế.
Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hóa chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để toàn bộ nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng.
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, của tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết.
Nội dung của kế hoạch 5 năm bao gồm một số chương trình trọng điểm của Nhà nước và quan trọng hơn cả là một hệ thống cơ chế chính sách. Chính vì vậy, việc xây dựng kế hoạch 5 năm cần được thực hiện theo một quy trình mới với sự phối hợp chặt chẽ và phân công cụ thể giữa các cấp, giữa các bộ và có sự tham gia của các tầng lớp và tổ chức trong xã hội.
Hệ thống kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế bao gồm kế hoạch cấp quận huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia.
Hệ thống kế hoạch hàng năm ở tầng vĩ mô: Kế hoạch hàng năm vừa là bộ phận vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm chủ yếu chỉ mang nội dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hàng năm không nên đưa ra mục tiêu mang tính tổng quát.
Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt, vì thế kế hoạch kinh tế quốc dân trong giai đoạn này vẫn có mối quan hệ gắn bó với kế hoạch của những Tổng công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông...). Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc tính toán trong xây dựng và điều hành kế hoạch. Do vậy, các ngân hàng thương mại lớn và những Tổng công ty này cần phải định kỳ báo cáo về kế hoạch và tình hình sản xuất kinh doanh của mình để Chính phủ có những thông tin cần thiết phục vụ cho việc lập và điều hành kế hoạch. Điều hành kế hoạch cần dựa trên cơ sở thông tin báo cáo và mô hình phân tích dự báo hàng quý. Phối hợp kết quả này với ý kiến chuyên gia sẽ cho phép Nhà nước, các cấp xác định thời điểm, mức độ, phạm vi và cách thức can thiệp một cách hợp lý vào nền kinh tế.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa ở địa phương và ở các ngành. Nội dung kế hoạch của các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Kế hoạch của các ngành, địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành, các địa phương cần hỗ trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp các thông tin, dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngành trong việc dự báo tình hình thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh giá thực trạng trong nước, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hóa: Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các loại thông tin báo cáo cần thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo cáo; xác định hệ thống tổ chức bộ máy thu thập và xử lý thông tin; khắc phục tình trạng "thương mại hóa" thông tin một cách vô nguyên tắc, xác định rõ trách nhiệm cung cấp các loại thông tin đối với những cơ quan có liên quan; thiết kế cụ thể các nguồn thông tin và địa chỉ cần phân phối thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác kế hoạch hóa; xác định rõ ràng những thông tin mật không công bố.
Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. Dự báo và phân tích chính sách được thực hiện độc lập ở nhiều cơ quan; tập trung vào dự báo ngắn hạn; xác định một số mô hình không phức tạp không cần có độ chính xác quá cao nhưng phải kịp thời xử lý được những thông tin để phân tích giúp cho việc điều hành một cách nhanh nhạy.
Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. Hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở Trung ương và địa phương, thực hiện chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản.
Công tác kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, phát huy vai trò của các Bộ và Tổng công ty theo một phương pháp luận thống nhất. Công tác kế hoạch hóa cũng không chỉ được thực hiện bởi những người trong ngành Kế hoạch, mà cần được sự chú ý và tham gia của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt của những nhà doanh nghiệp, những nhà khoa học. Việc điều hành thực hiện kế hoạch không phải là công việc riêng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc một Bộ nào khác mà nó phải được thực hiện thông qua sự phối hợp một cách thống nhất và tương hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ.
3. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật Nếu không có các nguyên tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ cột thì thị trường không thể hoạt động được. Với chức năng, nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, Nhà nước là nhân tố sống còn trong việc đặt nền móng thể chế cho các thị trường. Tại những nước đang phát triển, ưu tiên số một của Nhà nước là thiết lập những nền tảng ban đầu của pháp luật trong điều kiện thị trường, đó là:
a. Bảo vệ đời sống và tài sản, chống lại những hành vi tội phạm.
b. Hạn chế các hành động độc đoán của các quan chức Nhà nước- kể từ việc ban hành những điều tiết phi thể thức và những khoản thuế, phí không lường trước được, đến tham nhũng, đó vốn là nhân tố làm rối loạn công việc kinh doanh.
c. Xây dựng hệ thống tư pháp trung thực và có thể lường trước được.
Một khi đã có một nền tảng pháp luật phù hợp với sự phát triển kinh tế, toàn diện và đầy đủ thì trọng tâm của vấn đề sẽ được chuyển sang những điều tiết phức tạp hơn nhằm mở rộng thông tin và tăng cường hợp tác.
Phạm vi của pháp luật rất rộng lớn, từ việc cấp giấy phép kinh doanh đến việc quản lý thị trường...Tuy nhiên cải cách trong những lĩnh vực này sẽ chỉ có kết quả ở những nơi có năng lực thể chế mạnh.
* Vai trò của pháp luật trong việc phát triển kinh tế một cách bền vững
1. “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Đây là định nghĩa do Ủy ban Liên hợp quốc về môi trường và phát triển đưa ra. Về nội dung, phát triển bền vững được hiểu là một quá trình bao gồm không chỉ các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mà còn có cả các mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành qua một khoảng thời gian tương đối dài, xuất phát từ yêu cầu giải quyết những vấn đề mà các quốc gia gặp phải trong tiến trình phát triển của mình. Trước đây, trong quan niệm về phát triển của các quốc gia công nghiệp, vấn đề tăng trưởng kinh tế được thể hiện chủ yếu qua chỉ tiêu GDP luôn được coi trọng. Quan niệm này cũng được coi là kim chỉ nam tại các nước công nghiệp mới và các nước đang phát triển trong những năm 50 và 60 của Thế kỷ, trước khi các nước này bắt đầu bước vào công nghiệp hóa nhằm mục đích đuổi kịp các nước phát triển.
Sau một thời gian, các hậu quả về mặt xã hội và môi trường bắt đầu xuất hiện. Tại nhiều nước, nghèo đói và bất bình đẳng không những không giảm đi mà có xu hướng tăng lên, dẫn đến các áp lực chính trị ngày càng lớn, nguy cơ xung đột, bất ổn định xã hội ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó, các nghiên cứu về phát triển bắt đầu nhấn mạnh tới yêu cầu phải phân phối thu nhập công bằng hơn và phải giảm nghèo đói. Mục tiêu phát triển của các quốc gia cũng được điều chỉnh, các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã được gắn liền với các mục tiêu về đảm bảo công bằng xã hội, đặc biệt là giảm nghèo đói. Vào đầu những năm 80 – Thế kỷ 20, khi môi trường bị hủy hoại với mức độ ngày càng nghiêm trọng và có nhiều dấu hiệu cho thấy sự xuống cấp của môi trường gây ra những trở ngại cho quá trình tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của phát triển.
Như vậy, khái niệm phát triển bền vững giờ đây bao hàm ba bộ phận có quan hệ tương hỗ với nhau, đó là: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Tính bền vững của từng bộ phận thể hiện ở những điểm sau:
• Tính bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng và sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, nhất là tình trạng nợ nần chồng chất mà nhiều nước hiện nay đang mắc phải.
• Tính bền vững về xã hội thể hiện ở việc giảm đói nghèo, đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo cho đại đa số người dân được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được tiếp cận với giáo dục, duy trì sự ổn định về an ninh, nâng cao mức hưởng thụ của người dân về văn hóa, tinh thần…
• Tính bên vững về môi trường thể hiện ở việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm môi trường, từng bước cải thiện môi trường sinh thái…
2. Phát triển bền vững là con đường tất yếu của Việt Nam.
Phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao phúc lợi của con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Mục tiêu phát triển ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra. Chỉ có phát triển bền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó phát triển kinh tế vẫn phải được coi là trọng tâm trong giai đoạn hiện nay, mới có thể đạt được mục tiêu cao nhất này.
Trong phát triển kinh tế thì hệ thống pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn là mối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, trang 188).
Lĩnh vực pháp luật dân sự – kinh tế được Nhà nước đặc biệt quan tâm, cả về số lượng văn bản cũng như nội dung thể hiện. Những sửa đổi cơ bản về chế độ kinh tế trong Hiến pháp 1992, sự ra đời của Bộ luật Dân sự với 838 điều cùng với các văn bản pháp luật quan trọng khác như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đất đai, Luật Dầu khí, Luật Khoáng sản, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật lao động, Luật Hải quan, các luật thuế, v.v… và việc ký kết một số điều ước quốc tế quan trọng đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho phát triển bền vững ở nước ta. Pháp luật về kinh tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích mọi tổ chức cá nhân đầu tư vào hoạt động kinh doanh, khẳng định nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm (Luật Doanh nghiệp năm 1999). Trong “phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001 – 2005” Đảng ta đã nhận định “nhiều đạo luật về kinh tế, xã hội được ban hành đã thể chế, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Sách đã dẫn, trang 249).
Năm 2003 đánh dấu những chuyển biến lớn về việc cải thiện môi trường pháp lý, tạo thuận lợi hơn nữa trong các hoạt động kinh doanh. Các luật quan trọng được ban hành trong năm bao gồm Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp Nhà nước (sửa đổi), Luật Hợp tác xã (sửa đổi), Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp mới thành lập thuộc khu vực tư nhân. Mỗi năm có hàng trăm nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Trong số đó đã có nhiều điển hình được nhận giải thưởng Sao đỏ, Sao vàng đất Việt. Những sửa đổi của Luật Doanh nghiệp nhà nước đã tiếp tục “cởi trói” cho các DNNN để các doanh nghiệp này có thêm điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Luật Hợp tác xã sửa đổi đã tạo thêm điều kiện pháp lý (quy định HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp) cho các HTX hoạt động theo mô hình mới và tham gia tích cực hơn vào các hoạt động kinh tế. Các luật thuế được sửa đổi theo hướng giảm bớt thuế suất, tăng thêm ưu đãi và thuận lợi cho doanh nghiệp.
Rõ ràng là những thay đổi theo hướng tích cực của hệ thống pháp luật về kinh tế trong thời gian vừa qua đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng GDP năm 2003 đạt 7,24 %, tám tháng đầu năm 2004 ước đạt khoảng 7,5 %. Thành công về tăng trưởng và ổn định kinh tế của những năm qua đã góp phần tạo đà cho các năm tiếp theo và để Việt Nam hy vọng có thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 với mức tăng trưởng bình quân 7,5 %/ năm. Nhờ những thành công trong kinh tế, Việt Nam có thêm điều kiện để thực hiện tốt hơn vấn đề công bằng xã hội và bảo vệ môi trường (thể hiện qua việc thực hiện một loạt chương trình quốc gia, ví dụ: chương trình 135, chương trình trồng 5 triệu ha rừng…). Qua gần 20 năm thực hiện đổi mới, chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư đã được cải thiện và nâng cao. Thành quả ấn tượng nhất mà Việt Nam đạt được là giảm tỷ lệ nghèo đói từ trên mức 70 % vào giữa thập kỷ 80 của Thế kỷ 20 xuống còn khoảng 30 % trong những năm gần đây. Tốc độ giảm nghèo như vậy là vào loại nhanh nhất từ trước đến nay ở tất cả các nước đang phát triển
II. Nhà nước phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp một cách hợp lý.
1. Nguyên tắc quản lý, phân công trách nhiệm
1.1. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, được hiểu là:
- Quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp là một chức năng riêng có của Bộ máy nhà nước- chức năng công quyền, mà nội dung chủ yếu của nó là quản lý về mặt luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra.
- Bên cạnh chức năng quản lý nhà nước, bộ máy nhà nước với mức độ khác nhau, còn thực hiện chức năng dịch vụ, hỗ trợ cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển, can thiệp khi cần thiết để bảo hộ hoặc hạn chế những rủi ro có thể ảnh hưởng đến sự phat triển của đất nước.
- Bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng dịch vụ đối với doanh nghiệp thông qua hệ thống các cơ quan hành chính và sự nghiệp công ở các cấp chính quyền từ Chính phủ đến chính quyền cấp xã, tùy theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được phân công, phân cấp theo luật định.
- Các DNNN phải hoạt động theo cơ chế thị trường và tự chủ hơn trong kinh doanh.
- Nhà nước nên để cho DNNN hoạt động theo luật và trả lại quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên xây dựng một hành lang pháp lý tốt cho doanh nghiệp hoạt động và định hướng chiến lược phát triển mỗi ngành nghề trong bức tranh tổng thể chung của nền kinh tế.
- Quản lý nhà nước là để điều phối hoạt động chung của cả nền kinh tế, khác với doanh nghiệp là trực tiếp sản xuất và kinh doanh.
- DNNN phải hoạt động dựa trên vốn vay, ngoài số vốn điều lệ ban đầu. Việc tự chủ vay vốn trong kinh doanh sẽ giúp cho các DNNN có trách nhiệm hơn trong hoạt động kinh doanh.
1.2. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa tập thể với cá nhân, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực trong quản lý kinh tế, được hiểu là:
- Phân cấp chính là phân quyền giữa trung ương và địa phương. Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp, các hạng. Phân cấp có sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những việc sự vụ. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
- Phân cấp còn được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm quyền từ cơ quan quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý cấp dưới nhằm đạt mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả quản lý.
- Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước của mỗi cấp chính quyền đối với doanh nghiệp nhà nước tuỳ theo quy mô, đặc điểm, tính chất và tầm quan trọng của mỗi loại hình doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ quản lý thống nhất thể chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi và quyết định hỗ trợ trong những trường hợp cần thiết đối với doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Chính quyền cấp tỉnh quyết định việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước do địa phương trực tiếp quản lý theo đề án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trực thuộc.
- Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
Trả Lời Với Trích Dẫn 2. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước đòi hỏi sự phân công lao động để đạt được mục tiêu và hiệu quả quản lý, cần bám sát và tiến hành các bước sau đây:
- Khảo sát đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước với các nội dung: đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tế áp dụng các quy định đó trong việc phân cấp giữa trung ương - địa phương và giữa các cấp địa phương với nhau;
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cập trong quản lý nhà nước về lĩnh vực kinh tế cụ thể;
- Đề xuất nội dung phân cấp giữa các chủ thể quản lý theo tinh thần xác định rõ địa chỉ phân cấp và trách nhiệm của từng chủ thể. Việc đề xuất nội dung phân cấp có thể liên quan đến việc chuyển giao thẩm quyền từ trung ương cho địa phương, từ cấp trên xuống cấp dưới và không loại trừ trường hợp ngược lại: vì mục tiêu thống nhất quản lý nhà nước và vì tính hiệu quả, nhiệm vụ cấp dưới được kiến nghị chuyển giao lên cấp trên hoặc cấp trung ương.
- Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân cấp quản lý nhà nước là một hệ thống quy định pháp luật về phân định thẩm quyền quản lý nhà nước và cơ chế thực hiện những thẩm quyền đó. Như vậy, suy cho cùng, phân cấp bao gồm các nội dung cụ thể như sau:
- Xác định những thẩm quyền đặc biệt của trung ương trong việc quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực công tác cụ thể nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước;
- Xác định những thẩm quyền riêng của từng cấp chính quyền theo tiêu chí “cấp tốt nhất”;
- Xác định thẩm quyền chung của hai (hoặc một số) cấp chính quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm quyền chung đó. Thực tiễn quản lý nhà nước cho thấy không loại trừ sự tác động của một số chủ thể lên cùng một đối tượng và khách thể quản lý. Trong trường hợp này, không nên tuyệt đối hoá việc phân định thẩm quyền theo nghĩa “mỗi việc chỉ do một chủ thể đảm nhiệm”. Vấn đề đặt ra là cần xác định phạm vi trách nhiệm của mỗi chủ thể “đồng quản lý” và có cơ chế quản lý thích hợp.
Song để đảm bảo sự phân quyền có hiệu lực và bảo đảm cho sự thống nhất quốc gia cần phải có các điều kiện cơ bản sau :
- Phải có sự thống nhất nhất chính trị mạnh và một nền kinh tế tương đối phát triển, tăng trưởng tương đối vững chắc.
- Phải có đủ nguồn lực và nguồn tài chính để tiến hành các hoạt động phân quyền.
- Phải có hệ thống pháp luật đầy đủ nhằm xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp trong hệ thống tổ chức, tránh trùng lặp, đùn đẩy trách nhiệm hoặc bao biện làm thay.
- Phải có một chính sách và chiến lược phân quyền : khi nào và vấn đề nào có thể phân quyền và cần tính đến hiệu quả kinh tế xã hội, mức độ phân quyền còn phải tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể.
- Phải có đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo cơ bản và hệ thống theo một chương trình chuẩn, có năng lực quản lý.
- Trình độ dân trí phát triển. Nếu chính trị không ổn định, tính thống nhất dân tộc và trình độ giác ngộ của dân chúng không cao thì phân quyền là mầm mống của chia rẽ, cát cứ.
3. Thực trạng tổ chức quản lý kinh tế Việt Nam hiện nay:
Về mặt tổ chức quản lý doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang có những tồn tại, bất hợp lý chủ yếu sau đây:
A/ Chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, mỗi cấp hành chính nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, cụ thể là:
- Việc tổ chức quản lý, phân công, phân cấp xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch phát triển các loại hình doanh nghiệp theo ngành và theo lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý, tùy tiện. Hiện nay Bộ kế hoạch và Đầu tư, các Bộ quản lý ngành và các cấp chính quyền địa phương đều có nhiệm vụ xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch nhưng chưa rành mạch, cụ thể, có chỗ trùng chéo, có chỗ bỏ sót, có chổ quả cụ thể, có chỗ lại quá chung chung. Kết quả là các doanh nghiệp được xây dựng và phát triển tùy tiện, nhất là các DNNN, không phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng địa phương, từng ngành; dẫn đến hậu quả tất yếu là sự lãng phí, kém hiệu quả xảy ra tràn lan và rất nghiêm trọng ở khắp nơi.
Một yếu kém lớn trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển doanh nghiệp hiện nay là chưa tính đến đầy đủ sự kết hợp phát triển giữa 2 khu vực: DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước trong từng ngành, từng địa phương, mà mới chỉ quan tâm đến khu vực DNNN. Do vậy việc phát triển doanh nghiệp đang được chi phối bởi 2 kênh tách rời nhau: doanh nghiệp ngoài nhà nước thì theo sự điều tiết của thị trường tự do, còn DNNN thì theo ý muốn chủ quan của bộ máy nhà nước ở Trung ương và địa phương. Có thể nói công tác quy hoạch chiến lược hiện nay còn chưa tính đến đầy đủ sự tác động của các quy luật thị trường và còn coi nhẹ khu vực ngoài nhà nước, do vậy sự phát triển của các doanh nghiệp hiện còn rất tùy tiện, bất hợp lý, chưa có sự cân đối giữa các ngành, nghề, cũng như với nhu cầu của xã hội.
- Việc phân công, phân cấp xây dựng thể chế, chính sách quản lý doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được các bộ quản lý ngành (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại...) và các Bộ quản lý lĩnh vực (Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, ...) thực hiện theo chức năng của mình. Còn chính quyền địa phương thì có vai trò cụ thể hóa chính sách, cơ chế quản lý và trong một chừng mực nhất định, được ban hành một số chính sách riêng để khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển một số ngành nghề nhất định trong chừng mực không vi phạm pháp luật nhà nước.
Về mặt này, bên cạnh những cố gắng đáng kể của các ngành các cấp trong việc tạo lập một môi trường pháp lý đồng bộ, bình đẳng cho họat động của các loại hình doanh nghiệp thì đang bộc lộ những bất hợp lý, không ăn khớp, thiếu đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ngành khác nhau ban hành, mà nguyên nhân chủ yếu về mặt tổ chức là do sự phối hợp giữa các Bộ ngành chưa chặt chẽ, chưa có cơ chế cụ thể đẻ ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan phối hợp, nên chủ yếu phụ thuộc vào cơ quan chủ trì .
Hiện nay một số địa phương đã chủ động ban hành một số cơ chế cụ thể để thu hút đầu tư, tạo môi trường pháp lý và dịch vụ thuận lơi cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng lại đang bị sự phê phán, chỉ trích của một số cơ quan ở cấp Trung ương. Có lẽ cần phải có quan điểm rõ hơn về vấn đề này để không làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của địa phương trong bối cảnh mới.
- Việc phân công, phân cấp thực hiện chức năng quản lý việc thực thi Luật pháp, chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp (đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, kiểm tra viêc chấp hành các quy định của Nhà nước về hoạt động kinh doanh, sử dụng tài nguyên, đất đai, lao động, bảo vệ môi trưòng...) bên cạnh những tiến bộ, đổi mới nhất định theo tinh thần các luật mới sửa đổi, đang còn có những bất hợp lý cần khắc phục. Chẳng hạn việc đăng ký kinh doanh hiện do Ngành kế hoạch & đầu tư đảm nhiệm, trên thực tế mới chỉ quản lý được đầu vào (khi thành lập doanh nghiệp) vì phù hợp với chức năng của ngành này, còn việc quản lý hoạt động thực tế của doanh nghiệp và việc thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp có phần đang bị bỏ trống vì chưa rõ đây là chức năng, trách nhiệm chính của cơ quan nào. Do vậy hiện có nhiều doanh nghiệp “ma”, có thành lập mà không hoạt động, không có trụ sở, không có giao dịch tại ngân hàngv.v...
Mặt khác đang có sự không rõ về trách nhiệm quản lý cụ thể của mỗi cấp chính quyền đối với các doanh nghiệp đang hoạt động.
Trong khi đó, đối với DNNN, thì hiện đang vẫn tiếp tục duy trì chế độ Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản, tức là vẫn có doanh nghiệp thuộc Bộ này, bộ kia, thuộc UBND tỉnh, Thành phố...Trên thực tế, các cơ quan nhà nước vẫn còn can thiệp trực tiếp vào nhiều việc cụ thể của quản lý kinh doanh, vẫn còn thăm hỏi doanh nghiệp nhiều và có khi không đúng chức năng, nhiệm vụ..
Như vậy đang tồn tại hai khuynh hướng trái ngược nhau trong việc thực hiện chức năng quản lý việc thực thi chính sách luật pháp của các cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp là : với DNNN thì quá cụ thể, tới mức không cần thiết trong khi với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì lại quá buông lỏng, mới chỉ chỉ quản lý được đầu vào (khi thành lập doanh nghiệp), còn việc hậu kiểm còn đang còn nhiều hạn chế .
Một vấn đề nữa đang tồn tại trong quản lý doanh nghiệp là việc tổ chức thực hiện sự kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ còn nhiều lúng túng, chồng chéo mang nguyên nhân chủ yếu là do chưa đủ rõ, đủ cụ thể về nội dung, nhiệm vụ, phương thức phối hợp mà về mặt lý luận chưa được giải quyết. Điều đó dẫn đến hậu quả hai mặt : một là có sự tranh chấp nhiệm vụ hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương và hai là gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp.
- Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với việc thực thi luật pháp, chính sách của các doanh nghiệp hiện còn khá rắm rối, chưa rõ ràng, mạch lạc về nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các ngành, các cấp; tình trạng chồng chếo, dẫm đạp lẫn nhau trong khi có những chỗ lại bỏ sót, lỏng lẻo còn tồn tại khá phổ biến, đang gây nên nhiều phiền toái cho doanh nghiệp và suy giảm hiệu lực, hiệu quả qủn lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Trên khía cạnh sử dụng đồng vốn nhà nước, hiện các DNNN đang hoạt động theo các nghị định của Chính phủ, chứ không theo một đạo luật nào. Trong khi đó Nhà nước, với vai trò chủ sở hữu nguồn vốn trong DNNN, lại chưa thể giám sát được cách thức sử dụng nguồn vốn này.
- Thực tế hiện nay, việc giám sát DNNN thường được các bộ chủ quản đảm nhiệm. Tuy nhiên, bộ chủ quản chỉ quản lý chuyên ngành, việc quản lý đồng vốn, quản trị doanh nghiệp hoàn toàn nằm ngoài chuyên môn của bộ chủ quản. Chưa kể, khi các cơ quan giám sát thanh tra, kiểm tra, DNNN còn được “nương nhẹ” vì là “người nhà”.
B/ Về thực hiện các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.
Gần đây Chính phủ, các Bộ, Ngành, Chính quyền địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc gia tăng các dịch vụ hõ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh như đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, hỗ trợ, ưu đãi vốn, đất đai, khuyến nông, khuyến lâm, ...Tuy nhiên về mặt này vẫn đang còn nhiều hạn chế, yếu kém; đáng chú ý là:
+ Còn có sự phân biệt giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện, bảo hộ, ưu đãi ...Các chính sách giải pháp hỗ trợ, dịch vụ đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước còn ít, chưa bình đẳng so với DNNN.
+ Một số giải pháp, chính sách hỗ trợ của Nhà nước còn mang tính bình quân chung, chưa phân biệt rõ, cụ thể những lĩnh vực hoạt động, những doanh nghiệp hoạt động tốt, cần ưu tiên; một số chỗ còn có những sơ hở, bị lợi dụng, chưa thực sự đưa lại tác dụng, hiệu quả.
4. Một số đề xuất kiến nghị
Để đổi mới vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, hoàn thiện nội dung, phương thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xét về mặt tổ chức quản lý, cần tiếp tục giải quyết những vấn đề chủ yếu sau:
a/ Phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chưc năng dịch vụ, hỗ trợ đối với doanh nghiệp nói chung, không phân biệt hình thức sở hữu, cụ thể là:
- Các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương thực hiện quản lý doanh nghiệp theo chức năng của mình , được pháp luật quy định. Nhưng cần tiếp tục rà soát lại chức năng thẩm quyền quản lý doanh nghiệp của các Bộ ngành và UBND các cấp để khắc phục những chồng chéo, hoặc bỏ sót ; phân công, phân cấp rõ ràng, mạch lạc cho các cấp, các ngành trong việc thực hiện từng nội dung, nhiêm vụ của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Đổi mới mạnh mẽ chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kế hoạch và đầu tư và Ngành tài chính trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp về lĩnh vực quy hoạch, chiến lược và tài chính- ngân sách, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, xoá bỏ cách quản lý kế hoạch và tài chính theo cơ chế cũ, mang nặng tính chủ quan, gò bó, cứng nhắc, cơ chế xin - cho.Nghiên cứu để sắp xếp lại về mặt tổ chức sao cho có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa 2 lĩnh vực hoạt động kế hoạch và tài chính, vốn có liên quan trực tiếp và chặt chẽ với nhau.
- Điều chỉnh lại chức năng, thẩm quyền quản lý doanh nghiệp của các Bộ quản lý ngành (Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,...) theo hướng tập trung vào việc xây dựng, ban hành các chính sách cơ chế, các tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật cần thiết của ngành; thực hiện chức năng dịch vụ, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp; thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đối với hoạt động của doanh nghiệp.
- Kiên quyết loại bỏ những nhiệm vụ, thẩm quyền của các Bộ theo chế độ Bộ chủ quản đối với DNNN để xoá bỏ tình trạng con đẻ (DNNN) và con nuôi (doanh nghiệp ngoài nhà nước) và xoá bỏ sự can thiệp tuỳ tiện vào hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đồng thời còn góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng trong bộ máy quản lý nhà nước.
b/ Tổ chức lại cơ quan đăng ký thành lập doanh nghiệp, theo hướng là một cơ quan độc lập, tổ chức theo ngành dọc, có thể trực thuộc một Bộ nào đó nhưng hoạt động có tính chất độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức nhân sự.
c/ Tăng cường các hoạt động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp;Tách các tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công cho doanh nghiệp khỏi các cơ quan quản lý nhà nước để hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ ; từ đó tạo điều kiện nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất- kinh doanh, mở rộng thị trường, và tạo mối quan hệ đối tác bình đẳng giữa các doanh nghiệp với các tổ chức cung ứng dịch vụ công...
d/ Tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và tổ chức nội bộ các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế để giảm bớt đầu mối theo mô hình đa ngành, đa lĩnh vực, tạo tiền đề thực tế để cắt bỏ dần những công việc không đúng với nội dung, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, khắc phục những chồng chéo, không đồng bộ về chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan, từ đó mà nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
e/ Tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước đối với daonh nghiệp, nhất là các nhiệm vụ mang tính chất thực thi pháp luật, chính sách và thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các daonh nghiệp trên địa bàn; và kể cả việc ban hành một số chính sách, cơ chế cụ thể để khuyến khích sự phát triển các daonh nghiệp trên cơ sở khai thác, phát huy các tiềm năng, thế mạnh của địa phương, trong chừng mực không vi phạm pháp luật chung.
f/ Tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn về mặt lý luận và thực tiễn của nội dung quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN, phân biệt nó với chức năng quản lý nhà nước và chức năng dịch vụ công của các cơ quan quản lý nhà nước; từ đó mà phân công, phân cấp cụ thể việc thực hiện từng chức năng này cho các cấp, các ngành một cách hợp lý, góp phần tạo “luật chơi “ và “sân chơi “ bình đẳng cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
g/ Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thể hiện ở các mặt sau:
1/ Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành chính, bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối xử, nhất là đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;
2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự chủ hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số 5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có hiệu quả nếu tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu hao;
3/ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh...
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ trương kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo các hướng sau đây:
Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt số lượng doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước mắt phấn đấu chỉ còn các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng. Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động trong các lĩnh vực, ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân không có khả năng làm, như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao.
Thứ hai, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu ở các DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực hiện việc bán, khoán, cho thuê các DNNN loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản các DNNN hoạt động không có hiệu quả.
Thứ ba , xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo đảm sản xuất kinh doanh bình thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản vay ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời hạn cho vay trung, dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo khung pháp lý bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tiến tới xây dựng một luật chung cho các loại hình doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khi quyết định đầu tư, quyết định phương án kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự quyết về nhân sự và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ năm, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt việc thành lập mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và thông qua thị trường vốn; giảm dần sự ưu đãi, bao cấp và bảo hộ đối với các DNNN, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích và bảo đảm cho khu vực tư nhân phát triển trong sự cạnh tranh lành mạnh và được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp quốc doanh;
Thứ sáu , bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là giám đốc; thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ của giám đốc với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
ợi ích kinh tế Như chúng ta đã biết hoạt động kinh tế gắn với lợi ích ở nhiều cấp độ: lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích dân tộc. Nhóm lợi ích được hình thành từ tập hợp những cá nhân và tổ chức có lợi ích tương đồng trong từng lĩnh vực, ngành kinh tế, địa bàn hoạt động. Trong trường hợp lợi ích nhóm hài hòa với lợi ích dân tộc thì nhóm lợi ích có tác động tích cực đến việc thúc đẩy tăng trưởng và hiệu quả kinh tế. Ngược lại, bằng nhiều thủ đoạn từ vận động, thuyết phục, gây sức ép về chính trị, viện cớ bảo vệ lợi ích dân tộc, cho đến mua chuộc bằng tiền bạc …, nhóm lợi ích tìm cách bảo vệ lợi ích của mình bất chấp hiệu quả kinh tế – xã hội của quá trình phát triển.
1. Lợi ích kinh tế
1.1. Bản chất, hệ thống và vai trò của lợi ích kinh tế:
+ Bản chất: Lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế, phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định.
+ Đặc trưng của lợi ích kinh tế:
- Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế.
+ Nó chỉ xuất hiện khi những người SX có mối quan hệ KT với nhau và là hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ kinh tế.
+ Quy luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua sự hoạt động của con người mà biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
-Lợi ích kinh tế vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan.
+ Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế mà quan hệ kinh tế là khách quan.
+ Biến các tác động khách quan của quy luật kinh tế thành các động cơ hoạt động của con người.
- Lợi ích kinh tế còn bao hàm trong nó mục đích và sự lựa chọn những phương thức hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
- Lợi ích kinh tế có tính lịch sử và tính giai cấp.
1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế
- Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy mọi tiến bộ kinh tế.
- Có tác dụng củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu.
-Quan điểm lợi ích trước hết là quan điểm duy vật biện chứng coi cơ sở kinh tế là gốc phù hợp với nhu cầu thiết yếu của con người, là quan điểm định hướng cơ bản và quan điểm xuất phát cho việc xây dựng cơ chế quản lý SX-KD.
- Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là đảm bảo quyền con người trong CNXH. lợi ích cá nhân không mâu thuẫn với CNXH.để thoả mãn lợi ích cá nhân cần phải phát triển CNXH ở mức tối đa.
1.3. Hệ thống lợi ích kinh tế:
- Tùy góc độ xem xét mà có thể phân chia thành các nhóm,các loại lợi ích kinh tế khác nhau:
- Đứng trên góc độ toàn xã hội thì có lợi ích:
+ Cá nhân
+ Tập thể
+ Xã hội.
Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập lẫn nhau. không có lợi ích nào tách rời riêng rẽ ,vì vậy cần quan tâm đúng mức đến cả 3 loại lợi ích.
- Trong đó xét về lâu dài lợi ích XH đóng vai trò chủ đạo, thể hiện những nhiệm vụ phát triển và tiến bộ xã hội nó cũng bao quát những lợi ích kinh tế căn bản của tập thể và XH.
- Ba lợi ích trên thống nhất, nhưng không phải là một mà nó có phạm vi tồn tại độc lập, có ranh giới nhất định.
- Dưới góc độ thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái SX có lợi ích của người SX, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
1.4. Vận dụng:
- Việc vận dụng đúng đắn các lợi ích kinh tế, nhằm khai thác tối đa những tiềm năng to lớn của các thành viên xã hội tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế được coi là chính sách XH cơ bản nhất.
- Để có chính sách tối ưu phải kết hợp được các lợi ích tạo thành một hợp lực.
- Lợi ích vừa có tính vật chất, lại vừa có tính XH, việc vận dụng đúng đắn lợi ích kinh tế là đảm bảo cho công băng xã hội được thực hiện, nếu công bằng được đảm bảo sẽ được một tổng hợp lực lớn nhất để phát triển SX được coi là chính sách quan trọng nhất, cơ bản nhất.
- Để có chính sách kinh tế tối ưu, phải kết hợp các lợi ích đa dạng tạo thành hợp lực.
+ Trên thực tế, việc kết hợp các lợi ích có 2 khâu cơ bản:
1. Phát hiện đúng các nhu cầu :
- vật chất
- tinh thần .
- chính trị
- kinh tế
- văn hoá
2. Tổ chức, lãnh đạo, quản lý, điều tiết các hoạt động SX, xã hội để từng bước thỏa mãn các nhu cầu của các chủ thể trong sự ràng buộc xã hội, đặc biệt là ràng buộc pháp luật ở những điều kiện cụ thể
" Nói lợi ích mà không nói nhu cầu là không nói gì cả, nói con người mà không nói lợi ích là không nói gì cả”. Hê ghen
" Lý tưởng mà không gắn với lợi ích, lý tưởng bị bôi nhọ"
Ph.ăngghen
“Chính trị mà không có lợi ích, chính trị bị làm nhục”
Ph.Ăngghen
- Tổng hợp động lực là sự phát triển xã hội, triệt tiêu động lực làm tan rã xã hội.
2.Vai trò cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.1. Sự phát triển của các nhóm lợi ích: Trong những năm gần đây, ở nước ta đã nổi lên nhiều vấn đề trong nền kinh tế như tình trạng thiếu điện năng, các tập đoàn đua nhau mở rộng phạm vi hoạt động ở nhiều ngành nghề, các doanh nghiệp gây áp lực với chính phủ để kéo dài bảo hộ mậu dịch; một số địa phương “phá rào”, ban hành nhiều chủ trương vi phạm luật pháp của nhà nước, trái thẩm quyền; một số Bộ sử dụng quyền và thế của mình vượt quá quy định của nhà nước. Những vấn đề đó có liên quan đến hoạt động của các nhóm lợi ích, đang làm tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích dân tộc.
VD 1: Vì sao để xảy ra tình trạng thiếu điện và ai chịu trách nhiệm trước nhân dân về tình trạng đó (?). Điện năng là một loại hàng hóa, nhưng là nguồn năng lượng cho sự phát triển kinh tế; Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh “điện lực phải đi trước một bước”. Đã từ lâu, việc tổ chức và quản lý ngành điện nước ta theo hướng độc quyền, không cạnh tranh và hiện tại cũng chưa có tín hiệu phá vỡ tình trạng đó, nên ngành điện là điển hình của nhóm lợi ích đang chi phối đáng kể tình hình đầu tư, sản xuất và kinh doanh trên thị trường.
Ngày 3/9/1997, Chính phủ đã phê duyệt Tổng sơ đồ giai đoạn 1996 -2000 có xét triển vọng đến 2010, với mục tiêu đến năm 2010 nước ta sẽ có tổng công suất 19.000 MW, công suất tăng thêm là 1.5260 MW; cho đến tháng 7 năm nay, gần 12 năm chỉ tăng thêm được 8.000 MW (!), đạt hơn 60% mục tiêu, bởi vì nhiều dự án điện đã bị chậm trễ (Vietnamnet 7/7/2007).
VD 2: Trên tờ Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 4/12/2007 đưa tin hai sự kiện có liên quan đến PetroViệt Nam đáng được lưu ý: Ngày 3/12/2007 Tập đoàn này đã công bố kết quả cuộc thi kiến trúc và dự kiến sẽ xây dựng Tổ hợp khách sạn 5 sao và căn hộ lớn nhất Hà Nội với vốn đầu tư trên 500 triệu USD; Dự án nhà máy lọc dầu số 1 ở Dung Quất được đánh giá là chậm thêm 6 tháng so với dự kiến gần nhất ( nếu so với ý đồ ban đầu của Chính phủ thì chậm gần 10 năm)(!). Hai sự kiện đó là điển hình của tình trạng phổ biến của nhiều Tập đoàn kinh tế nhà nước; trong khi các công trình trọng điểm đúng chức năng thì chậm trễ kéo dài, nhưng các tập đoàn lại sẵn sàng chi hàng trăm triệu USD đầu tư vào nhiều dự án trong các lĩnh vực khác.
2.2. Giải pháp để hạn chế nhóm lợi ích:
Người dân Việt Nam đang chịu đựng một nghịch lý, thu nhập còn thấp nhưng giá ô tô thì thuộc loại cao nhất thế giới (!). Những nhà hoạch định chính sách cần phải suy nghĩ một cách nghiêm túc về nghịch lý đó; chứ không phải chỉ bằng một vài giải pháp như giảm thuế nhập khẩu và gây sức ép với nhà sản xuất như Bộ Tài chính đã thực hiện. Là một nước công nghiệp hóa sau, nước ta cần học hỏi kinh nghiệm thành công của nhiều nền kinh tế mới ở châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan; mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế chứ không phải là kéo dài chính sách bảo hộ mậu dịch để gia tăng tỷ lệ nội địa hóa trong điều kiện mỗi nhà sản xuất chỉ có sản lượng tính từng trăm, hoặc nghìn ô tô/năm. Trong điều kiện toàn cầu hóa, Việt Nam cần coi trọng việc tham gia hệ thống sản xuất quốc tế, đầu tư tới hạn vào sản xuất linh kiện sản phẩm để đạt đến quy mô đủ lớn, cung ứng cho các nhà sản xuất thế giới; khi thị trường đã có dung lượng đủ lớn thì tự khắc sẽ chuyển sang sản xuất sản phẩm cuối cùng trong chuỗi giá trị.
Làm thế nào để nhóm lợi ích không thể chi phối, gây tác động tiêu cực đến lợi ích dân tộc (?).
1) Trước hết và quan trọng nhất là chính sách và luật pháp nhà nước phải được hình thành trên cơ sở lợi ích dân tộc, không để các nhóm lợi ích chi phối trong quá trình xây dựng, thông qua và thực hiện. Trong đó cần đặc biệt lưu ý đến chính sách và luật pháp chuyên ngành là mảnh đất mà các nhóm lợi ích quan tâm nhiều nhất, bởi vì trực tiếp tác động đến mọi hoạt động của họ. Các doanh nghiệp được quyền và được tạo điều kiện tham gia quá trình hình thành chính sách và luật pháp, nhưng việc quyết định phải do Nhà nước, để bảo đảm tính khách quan thông qua cơ chế và quá trình thực hiện vì lợi ích chung.
2) Cho đến nay, quy hoạch phát triển từng ngành được giao cho các tập đoàn hay tổng công ty nhà nước xây dựng, sau đó trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tình trạng đó đã tạo ra ưu thế cho các nhóm lợi ích khi họ được trao quyền quyết định sự phát triển từng ngành, lĩnh vực của cả quốc gia (!). Đó là di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu mà sau hơn 20 năm nước ta đổi mới theo cơ chế thị trường vẫn còn được duy trì; trong khi các doanh nghiệp nhà nước khó có đủ tầm nhìn, năng lực và điều kiện để dự báo tình hình và lập quy hoạch phát triển cho cả nước. Thiết nghĩ, đã đến lúc phải trả lại việc quy hoạch ngành cho các cơ quan dự báo và các viện nghiên cứu thực hiện phù hợp với nguyên tắc thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế. Tập đoàn, tổng công ty nhà nước trở lại đúng vị thế của họ, kinh doanh bình đẳng trên thị trường.
3) Kinh nghiệm của thế giới đã chỉ ra rằng, các tập đoàn lớn thường có xu hướng tạo ra tình trạng độc quyền bằng nhiều hình thức như thôn tính, sáp nhập, mua lại; đã có nhiều Chính phủ can thiệp bằng mệnh lệnh không cho phép một số trường hợp được thực hiện, để bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh trên thị trường. Nhiều tập đoàn ở nước ta mới được hình thành, nhưng đã bắt đầu có những biểu hiện lợi dụng danh nghĩa đóng ” vai trò chủ đạo” để tạo thế độc quyền, sử dụng thương hiệu trong “liên kết”. Tình trạng đó cần được các cơ quan nhà nước lưu ý để có cơ chế thích ứng trong việc điều tiết thị trường, bảo đảm cạnh tranh, chống độc quyền trong mọi ngành và lĩnh vực hoạt động.
4) Các dự án được thực hiện bằng vốn ngân sách nhà nước cần được triển khai đúng với quy định pháp luật về đấu thầu, xét thầu và cấp vốn đầu tư bảo đảm tính công khai và minh bạch; không thiên vị dành ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước; cũng như cần có cơ chế để có thể thực hiện việc giám sát của các cơ quan thanh tra và nhân dân. Trong việc thực hiện cam kết WTO thì chi tiêu chính phủ là một vấn đề đã được nước ta cam kết; do vậy cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng nhằm bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả cho đất nước.
Nhóm lợi ích hình thành một cách khách quan; nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động các nhóm lợi ích càng trở nên mạnh mẽ vì họ có đủ vị thế, phương tiện vật chất, kênh quan hệ để thực hiện mục tiêu. Các cơ quan nhà nước cần và có thể thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp bảo đảm lợi ích nhóm chính đáng; đồng thời hướng vào phục vụ lợi ích dân tộc; không để nhóm lợi ích chi phối trong quá trình ra quyết định, gây thiệt hại cho lợi ích chung.
3. Lợi ích cá nhân có làm xuống cấp đạo đức xã hội?
Công cuộc đổi mới đất nước trong 15 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn. Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng với tốc độ nhanh, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về mặt kinh tế, công cuộc đổi mới đang đặt ra cho Việt Nam nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm, trong đó có vấn đề sự xuống cấp của đạo đức. Điều đó có liên quan đến mặt trái của cơ chế thi trường, đến sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước tình hình đó, một số người cho rằng, sự xuống cấp về đạo đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động, rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp với nhau. Bên cạnh đó, một số tác giá lại khẳng định rằng, sự chấp nhân và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên là lợi ích cá nhấn chính đáng), tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cua mỗi cá nhân về nhiều phương diện, nhất là phương diện tài năng và trí tuệ. Nói cách khác, cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tất cho nhân cách phát triển trong điều kiện hiện nay. Để góp phần làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội, cũng như sự tác động của lợi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội ấy trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay nói riêng: Song, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chủ yếu bàn đến sự tác động của lơi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội, chứ chua bàn đến sự tác động ngược trở lại của đạo đức xã hội đối với lợi ích cá nhân.
Khi nghiên cứu hệ thống các động lực thúc đẩy con người hành động, người ta thường nhắc đến vai trò của nhu cầu, lợi ích, cũng như của các động cơ tư tưởng.
Hơn 100 năm trước, Ph.Ăngghen đã từng chỉ ra rằng: "Đáng lẽ phải giải thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình… thì người ta lại quen giải thích hoạt động của mình từ tư duy của mình…". Sở dĩ như vậy vì nhu cầu là đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Có thể nói, không chỉ các nhà triết học mácxít, mà cả các nhà triết học phương Tây cũng thừa nhận vai trò to lớn của nhu cầu trong việc thúc đẩy hoạt động của con người. Chính vì vậy, một trong những tiêu chuẩn của xã hội hiện đại là khả năng đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu mới nảy sinh.
Nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động. Sự thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thê hành động, là lợi ích. Vì vậy, lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và nó chỉ có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối quan hệ đó, cái được coi là lợi ích không còn là lợi ích nữa. Xét về bản chất, lợi ích chính là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu.
Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu quyết định lợi ích. Do đó, nó là cơ sở của lợi ích, còn.lợi ích thì ngược lại, xuất phát’ từ nhu cầu, dựa trên nhu cầu là sự thể hiện của nhu cầu.
Như vậy tính chất động lực của nhu cầu được thực hiện không phải một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua lợi ích, còn lợi ích là khâu trực tiếp hơn cả trong việc tạo nên động cơ tư tưởng thúc đẩy con người hành động nhằm thoa mãn nhu cầu. Nhu cầu ngày càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích đối với chủ thể càng lớn và do đó động cơ tư tưởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích này cũng càng cuốn hút con người, thúc đẩy con người lao vào hành động.
Chính C.Mác cũng đã từng nhấn mạnh, tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói rằng, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người đang theo đuổi những mục đích của mình. Trong cuộc đấu tranh vì sự sống còn của bản thân mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân những nhu cầu chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chunggiữa họ. Song, ngoài những lợi ích chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh trên cơ sở của các nhu cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử – cụ thể. Bên cạnh đó, bản thân những nhu cầu chung của cộng đồng và xã hội, cũng như những nhu cầu riêng của cá nhân lại có nhiều loại: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần… Những nhu cầu này là cơ sở để hình thành nên các lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần…
Như vậy, tất cả những gì thúc đấy con người hành động đều gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ. Điềm khác nhau chỉ là ở chỗ có hành vi chịu sự chi phối của lợi ích vật chất, có hành vi bị chi phố bởi lơi ích tinh thần, có hành vi chịu sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân, có hành vi chịu sự thúc đẩy của lợi ích tập thể, xã hội. Khống có hành vi nào của con người hoàn toàn thoát khỏi sự thúc đẩy của lợi ích.
Song, trong xã hội, các lợi ích khác nhau đó, đặc biệt là giữa lợi ích riêng và lợi ích chung lợi ích tập thế và lợi ích xã hội), có thể phù hợp với nhau, cũng có thể không phù hợp, thậm chí còn trái ngược nhau. Điều đó còn xảy ra đối với cả những lợi ích chungcủa các cộng đồng khác nhau, cũng như đối với các lợi ích riêng khác nhau. Để những hành vi và những hoạt động của từng người cụ thể đang theo đuổi các lợi ích khác nhau không triệt tiêu nhau và làm rối loạn xã hội, xã hội cần đến những phương thức điều tiết hành vi của con người mang ý nghĩa phổ biến. Đạo đức là một trong những phương thức như vậy và là phương thứcđầu tiên mà loài người sử dụng. Cùng với sự phát triển xã hội, khi mà sự phân công xã hội càng chặt chẽ, khi khả năng và tính tất yếu của sự hợp tác giữa người và người càng lớn, thì người ta càng tuân thủ những yêu cầu đạo đức và quy phạm pháp luật nhất định; cần áp dụng các biện pháp không gây tổn hại đối với người khác. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói rằng lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là toàn bộ cơ sở của đạo đức.
Với tư cách là phương thức đặc thù điều tiết hành vi của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động, đao đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh lợi ích trực tiếp của các giai cấp, dân tộc, thời đại. Vì đạo đức bao giờ cũng có mối quan hệ trực tiếp với những lợi ích chung nên khách thể của ý thức đạo đức bao gốm những quan hệ giữa người và người trong xã hội, quan hệ giữa con người với những sự kiện của đời sống xã hội và quan hệ của con người với chính bản thân mình với tư cách là một thành viên của một đơn vị xã hội nhất định.
Khác với phương thức điều tiết bằng pháp luật, tức là phương thức điều tiết có tính chất cưỡng chế, đạo đức thuộc lĩnh vực của sự tự nguyện, của hành vi vị tha vì người khác và vì xã hội. Tất nhiên, tính vị tha của đạo đức hoàn toàn không có nghĩa là loại bỏ tất cả những gì thuộc về cá nhân, cá tính của con người. Trái lại, tính vị tha của đạo đức chỉ loại bỏ những gì thuộc về cá nhân và cá tính đối lập với xã hội; có hại cho xã hội. Những lợi ích cá nhân của từng người cụ thể với tính cách là thành viên của xã hội, nếu không đối lập với lợi ích xã hội thì luôn là động cơ của những hành vi đạo đức chân chính.
Vì vậy, hành vi đạo đức cao thượng được thề hiện rõ khi có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của người khác hoặc của tập thể, cộng đồng; trong trường hợp đó, chủ thể đạo đức có thể tiết chế hoặc hy sinh những lợi ích cá nhân của mình. Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là đạo đức gạt bỏ hết lợi ích cá nhân. Trái lại, trong phạm vi hợp lý và chính đáng, đạo đức vẫn cho phép con người đạt tới những lợi ích cá nhân. Những hành vi tìm kiếm lợi ích cá nhân với tiền đề đã được xã hội chấp nhận và bảo đảm, đồng thời không làm tổn hại đến xã hội, đến tập thể, đến người khác đều không phải là hành vi phi đạo đức. Đó chính là cơ sở lý luận để xem xét mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường của ViệtNam.
Kể từ khi Việt Nam áp dụng cơ chế thị trường, những thay đổi to lớn trong các quan hệ kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới các lợi ích của con người. Bơi lẽ lợi ích của con người được biểu hiện tập trung ở các quan hệ kinh tế. Sự thay đổi của quan hệ kinh tế được thể hiển trên các lĩnh vực: sở hữu, phân phối và quản lý. Trong lĩnh vực sơ hữu với đường lối đổi mới, từ chỗ chỉ có hai hình thức toàn dân và tập thể, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ. công hữu về các tư liêu sản xuất chủ yếu, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sự thay đổi trong lĩnh vực phân phối được thể hiện ở chỗ, nếu như trước đây, Việt Nam chủ yếu chỉ sử đụng hình thức phân phối theo lao động thì hiện nay, các hình thức phân phối ngày càng trở nên đa dạng hơn. Chính sự đa dang của các hình thức phân phối đã góp phần thực hiện công bằng xã hội – một mục tiêu quan trọng của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hối chủ nghĩa, đồng thời huy động được vốn đầu tư để phát triển sản xuất.
Trong lĩnh vực quản lý, cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp. Chính cơ chế đó đã cho phép các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp có được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến hành hoạt động kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ việc theo đuổi các lợi ích cá nhân khác nhau mà hoạt động của con người không những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội.
Nhờ những thay đổi trên đây, chỉ tính riêng từ năm 1996 đến nay, hàng năm nước ta đã giải quyết được 1,2 triệu việc làm mới. Điều đó góp phần giảm bớt sự căng thắng trong xã hội. Bởi lẽ, không có một chính sách xã hội nào tất hơn là tạo ra cho những người có khả năng lao động đi và muốn lao động, đó là cơ hội kiếm được việc làm. Nhờ tiến hành công tác xoá đói, giảm nghèo có được những bước tiến bộ đáng kể, chúng ta đã giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) từ trên 30% xuống 10%.
Như vậy, hoạt động vì lợi ích cá nhân chính đáng của con người đã góp phần làm giàu cho bản thân con người, đồng thời góp phần giảm bớt sự nghèo đói cho xã hội. Đến lượt nó, sự giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh ở con người những tấm lòng hào phóng, từ thiện, sự thân ái, lòng vị tha. Điều đó không những góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội, mà còn tạo ra bầu không khí thân ái trong xã hội, góp phần tạo cơ sở cho việc xây dựng đạo đức mới.
Mặt khác, dưới sự tác động của lợi ích trong nền kinh tế thị trường, một số quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cũng có sự thay đổi. Một số hành vi trước đây bị coi là phi đạo đức thì hiện nay, trở thành hành vi có đạo đức. Ví dụ, nếu như trước đây, việc thuê lao động bị coi là hành vi bóc lột và vô nhân đạo, thì hiện nay, việc thuê mướn lao động mà người thuê và người được thuê đã thoả thuận hợp lý, hợp tình về quyền lợi của nhau thì lại được coi là hành vi nhân đạo, bởi nó không những góp phần giúp xã hội tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà còn trực tiếp góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, giúp họ thoát khỏi cảnh thất nghiệp.
Có thế nói rằng, lợi ích cá nhân có vai trò tích cực đối với sự hình thành các quan hệ đạo đức, cũng như làm thay đổi một sô quan niệm về các chuẩn mực đạo đức.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, lợi ích cá nhân cũng có tác động tiêu cực đối với đạo đức Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mọi quan hệ xã hội có thể bị biến thành quan hệ tiền nong, mua bán, trao đổi.
Mặc dù Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường 15 năm, song tình hình đó cũng diễn ra tương tự. Đồng tiền bắt đầu thâm nhập sâu vào các quan hệ xã hội. Vì tiền, vì lợi ích cá nhân, người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích xã hội, bất chấp luân thường đạo lý. Tình trạng thương mại hoá đã thâm nhập sâu vào những lĩnh vực vốn xưa kia là mảnh đất nuôi dưỡng những hành vi đạo đức, như giáo dục – đào tạo và y tế .
Kinh tế thị trường, thông qua lợi ích cá nhân, đã có tác động tiêu cực tới đạo đức truyền thông. Những biểu hiện của sự tác động tiêu cực đó là:
Thứ nhất, xuất hiện thái độ coi thường đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường đạo lý, chạy theo lối sống xa hoa, trụy lạc.
Trong những năm gần đây, do kinh tế phát triển nhiều gia đình trở nên giàu có Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là ở chỗ, bên cạnh những gia đình giàu có đó chịu khó làm ăn, biết kinh doanh, sản xuất giỏi, thì một số kẻ giàu có, do lợi dụng chức quyền, đã làmgiàu bất chính. Khi đồng tiền kiếm được một cách quá dễ dàng, không phải độ lao động thì nó rất dễ dẫn con người đến chỗ ăn chơi sa đọa. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, do chây lười hoặc không biết làm ăn nhưng lại thích ăn ngon, mặc đẹp, một số người đã rơi vào cảnh khốn quẫn. Để tồn tại, không ít kẻ trong số đó đã đi vào con đường phạm tội. Không ít kẻ chỉ vì vài ngàn đông mà có những hành vi vô đạo đức, mất tính người.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy sự suy thoái về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường thông qua một số dẫn chứng về tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự trong những năm gần đây.
Chẳng hạn, theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, số vụ hiếp dâm nói chung và hiếp đâm trẻ em nói riêng có xu hướng ngày càng tăng lên. Nếu như năm 1993 phát hiện được 500 vụ hiếp dâm, trong đó có 73 vụ nạn nhân là trẻ em (chiếm 14,6%), năm 1994 phát hiện được 861 vụ hiếp dâm, trong đó có 143 vụ nạn nhân là trẻ em (chiếm 16,6%), thì đến năm 1997 phát hiện 1097 vụ hiếp dâm, tăng 27% so với năm 1996, trong đó vụ hiếp dâm trẻ em tăng 41%. Trong vài năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, số vụ trọng án giết người, cướp của, cố ý gây thương tích đối với người thân tăng lên. Chẳng hạn, nghiên cứu những vụ trọng án, đặc biệt là những vụ giết người cho thấy, có 90 % các vụ giết người có nguyên nhân mang tính xã hội; trong số các vụ án giết người được nghiên cứu trong mấy năm gần đây thì có tới 24,4% số vụ nạn nhân lại chính là thân nhân của thủ phạm (nạn nhân là vợ, chồng, con cái,.anh, chị, em ruột). Tính chất côn đồ, trắng trợn của hành vi giết người không chỉ phản ánh sự xem thường pháp luật của kẻ phạm tội, mà còn thể hiện sự biến đổi trong tính nhân bản thuộc về đạo đức của con người.
Thứ hai, phản ứng của xã hội đối với các hành vi phi đạo đức cũng giảm đi. Chẳng hạn, nếu như trước đây, những hành vi suy đồi về đạo đức như rượu chè bê tha, trai gái đĩ điếm, ăn gian, nói dối, đã bị xã hội lên án hết sức mạnh mẽ, thì ngày nay, sự phản ứng của xã hội cũng có mức độ.
Thứ ba, trong xã hội xuất hiện thứ đạo đức giả. Thực ra, bất cứ xã hôi nào cũng có hiện tượng đạo đức giả tồn tại. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ở nước ta đã xuất hiện hiện tượng đạo đức giả được che đậy hết sức tinh vi vừa qua chúng ta đã phát hiện ra không ít những hiện tượng làm ăn phi pháp, nhưng lại núp dưới danh nghĩa từ thiện, nhận nuôi dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng xây nhà tình nghĩa, tài trợ cho các hoạt động thể dục, thể thao nhằm tạo vỏ bọc, trốn tránh sự truy cứu của pháp luật.
Tất cả những biểu hiện trên đây đều bắt nguồn từ lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất đơn thuần. Mọi mối quan hệ xã hội trong xã hội đều được giải quyết chỉ dựa trên lợi ích kinh tế. Chính điều đó vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những sự xung đột giữa các thế hệ, giữa các thành viên trong giạ đình, giữa những người có trình độ và hiểu biết khác nhau về xã hội.
Như vậy, có thể nói, lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường đã tác động đến đạo đức theo hai hướng trái ngược nhau. Theohướng tích cực, lợi ích cá nhân góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo đức mới theo hướng tiêu cực, vì lợi ích cá nhân mà con người có thể làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống của mình. Cả hai xu hướng đó đều song song tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, không thể nói một cáchchung chung rằng lợi ích cá nhân có tác động tích cực hay tiêu cực đến đạo đức xã hội. Để đánh giá tính tích cực hay tiêu cực của lợi ích cá nhân đối với đạo đức, cần xem xét hiệu quả mà lợi ích đó đem lại có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời không thể nói một cách giản đơn răng, sự xuống cấp về đạo đức hoàn toàn bắt nguồn từ việc khuyên khích lợi ích cá nhân của người lao động.
Theo Từ điển Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam, xung đột là sự va chạm, đánh nhau, tranh giành giữa những nhóm người, tập đoàn người hay giữa các quốc gia, dân tộc vì những mâu thuẫn đối địch về tư tưởng, ý thức hệ, về quyền lợi vật chất, về tôn giáo, chủng tộc hay lãnh thổ, v.v…
Xung đột có thể dừng lại ở mức “chiến tranh lạnh” vấn đề được giải quyết thông qua đối thoại, hoà giải nhưng cũng có thể bùng nổ lên thành những cuộc ẩu đả bằng bạo lực, thành những cuộc nội chiến hay chiến tranh biên giới đẫm máu, nhất là những xung đột về tôn giáo và sắc tộc.
Lợi ích là một trong những động lực quan trọng trực tiếp thúc đẩy hành động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc và xã hội. Một cách tương ứng, người ta phân biệt lợi ích riêng (cá nhân) và lợi ích chung (của gia đình, tập thể, tập đoàn, giai cấp, dân tộc hay xã hội). Lợi ích có thứ bậc khách quan: lợi ích xã hội cao hơn lợi ích giai cấp, lợi ích giai cấp cao hơn lợi ích bộ phận, lợi ích tập thể cao hơn lợi ích cá nhân, v.v…
Lợi ích là nguyên nhân thật sự, căn bản của hoạt động lịch sử và hành vi xã hội của con người. Lợi ích được con người ý thức trở thành động cơ tư tưởng của hoạt động thực tiễn có mục đích.
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích gia đình và lợi ích cá nhân phụ thuộc vào lợi ích giai cấp, vai trò hàng đầu thuộc về lợi ích giai cấp. Tính đối kháng giữa các lợi ích giai cấp là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Giai cấp thống trị nêu lợi ích của giai cấp mình thành lợi ích chung của toàn xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu của chính đảng của giai cấp bị trị là làm cho giai cấp bị trị giác ngộ về lợi ích giai cấp của mình.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích cơ bản của các giai cấp, của tầng lớp trong xã hội, của cá nhân là thống nhất; lợi ích của tiến bộ xã hội trở thành lợi ích chung của toàn xã hội – đó là tiền đề để kết hợp hài hoà các loại lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Lợi ích kinh tế là những lợi ích tạo thành động lực khách quan trong đời sống kinh tế và trong hoạt động kinh tế của con người trong xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Nội dung, hình thức biểu hiện và thực hiện lợi ích kinh tế do các quan hệ sản xuất quyết định. Những lợi ích kinh tế đều mang tính lịch sử và giai cấp. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm nảy sinh sự đối kháng lợi ích giữa kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất mà không lao động, và người lao động bị tước đoạt tư liệu sản xuất. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là cơ sở khách quan của sự thống nhất và hài hoà giữa ba loại lợi ích: toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động. Điều này không loại trừ những mâu thuẫn không đối kháng về lợi ích nảy sinh trong xã hội. Trong khi giải quyết những mâu thuẫn đó, vừa phải bảo đảm lợi ích toàn dân có tính chất chủ đạo, đồng thời coi trọng lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động, vì đó là động lực trực tiếp, thúc đẩy hoạt động kinh tế, cơ sở tạo điều kiện để thực hiện đầy đủ lợi ích xã hội và lợi ích tập thể.
Về mặt triết học, lợi ích kinh tế biểu hiện những quan hệ kinh tế khách quan của xã hội, quyết định phương hướng của ý chí và hành động con người. “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” (Enghen). Trong hệ thống các lợi ích, lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng nhất; lợi ích tinh thần xét cho cùng cũng tuỳ thuộc lợi ích kinh tế.
0 comments:
Post a Comment