- Chế độ kinh tế dưới góc độ của Luật Hiến pháp là tổng thể những quy định của Nhà nước nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế cơ bản như: mục đích, chính sách phát triển kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên tắc tổ chức, quản lý nền kinh tế quốc dân cũng như các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội.
- Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước ta hiện nay được ghi nhận tại điều 15 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
1.2 Nội dung chính sách kinh tế của Nhà nước theo Hiến định
- “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”
2.1. Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước- Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia.
2.1.1. Cơ sở hiến định
- Các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế được đưa vào nội dung Hiến pháp của nước ta từ Hiến pháp 1959 đến nay. Những chính sách và mục tiêu này thay đổi qua từng thời kỳ lịch sử, tương ứng với những lần thay đổi, chỉnh sửa Hiến pháp.
- Trong Hiến pháp 1992, chính sách phát triển kinh tế được quy định tại Điều 15 và Điều 16 như sau:
Điều 15: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”
Điều 16: “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.”
- Đến năm 2001, Điều 15 và Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 15: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
Điều 16: “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị truờng thế giới.
- Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. - Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Theo Điều 15 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), Nhà nước ta hiện nay đang theo đuổi 2 chính sách phát triển kinh tế. Một là “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.”
Hai là “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” Trong đó xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là chính sách mới.
2.1.2. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế như thế nào?
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, chính trị... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Ví dụ: Khả năng đảm bảo an ninh lương thực.
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường bên ngoài, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy tri sự ổn định và phát triển kinh tế tài chính quốc gia cũng như sự ổn định định hướng phát triển;
Ví dụ: Trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, tuy chịu ảnh hưởng rất lớn nhưng Việt Nam đã nhanh chóng khắc phục khó khăn và là một trong những quốc gia phục hồi sớm sau khủng hoảng.
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế đứng trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn về kinh tế và chính trị.
Ví dụ: Cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam từ 1976 đến 1994; các vụ kiện chống bán phá giá giày dép, tôm cá…và gần đây là việc WFF đưa cá basa của Việt Nam vào danh sách đỏ trong Cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản 2010 cho Châu Âu.
2.1.3. Vì sao phải bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế?
- Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế gắn liền với độc lập tự chủ về chính trị và chủ quyền quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều là con nợ và chủ nợ của nhau, nhưng nếu nền kinh tế không đủ mạnh để đứng vững thì có nguy cơ sụp đổ về kinh tế, đất nước trở thành con rối bị giật dây trên chính trường thế giới và có nguy cơ mất cả lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.
Ví dụ: điển hình như sự kiện vỡ nợ của Hy Lạp trong năm 2010, Hy Lạp hiện mất trả năng trả nợ do nhiều nguyên nhân. Ngay lập tức báo chí Đức – một trong những chủ nợ của Hy Lạp lên tiếng gợi ý Hy Lạp bán bớt các hòn đảo hoang. Tiếp theo, báo chí Pháp – một con nợ khác của Châu Âu, cũng lên tiếng rằng, Hy Lạp còn có đảo hoang để bán, chứ Pháp sẽ bán gì khi bị vỡ nợ? EU đã gia hạn thời hạn trả nợ cho Hy Lạp thêm 3 năm. Như vậy án treo vẫn đang lơ lửng trên đầu Hy Lạp cho đến 2013.
- Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định hướng xa hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phải chờ đến khi có trinh độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đó phải bảo đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Việc xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trinh lâu dài, đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững.
- Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không nên hiểu đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với chính sách mở cửa, hội nhập, xu hướng toàn cầu hóa chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế cạnh tranh so sánh của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng được cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phong - an ninh.
2.1.4. Những yếu tố cơ bản để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
- Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với kinh tế quốc tế thì chúng ta phải cần có những yếu tố cơ bản sau đây: Một là, phải có đường lối chính sách kinh tế độc lập, tự chủ về phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, phải có thực lực và tiềm lực kinh tế đủ mạnh ở mức độ cần thiết.
Ba là, phải xây dựng được thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN vững mạnh và giữ ổn định kinh tế vĩ mô.
- Độc lập tự chủ về kinh tế nhưng phải gắn với mở cửa và hội nhập thị trường bên ngoài, chủ động tham gia vào sự giao lưu, hợp tác với thị trường thế giới. Nhà nước thống nhất và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và cùng cố lợi ích, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước.
- Chính sách phát triển của Nhà nước phải đưa nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2.1.5 Định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
- Phát huy nội lực: việc phát huy nội lực cũng là biện pháp tránh phụ thuộc vào bên ngoài.
Ví dụ: Việt Nam cần phát huy, khai thác tốt hơn nữa các nguồn nội lực như vị trí địa chính trị quan trọng, nguồn nhân lực trẻ, thời kì dân số vàng, tài nguyên dồi dào.
- Chủ động hội nhập kinh tế thế giới
Ví dụ: Việt Nam đã và đang chủ động trong việc phát triển các mối quan hệ song và đa phương như gia nhập WTO năm 2006 kí BTA với Nhật Bản, Hoa Kì, …
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Cơ giới hóa các hoạt động sản xuất, đồng thời phải xây dựng một nền kinh tế hiện đại, đi tắt đón đầu những công nghệ mới, không chấp nhận những công nghệ lạc hậu
- Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được. Tuy nhiên, thực trạng Việt nam không thể đáp ứng được những yêu cầu đó. Vì vậy, toàn cầu hóa là yếu tố bắt buộc để hòa nhập và phát triển.
- Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó ; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước. Để có một nền kinh tế độc lập tự chủ, cần đáp ứng được những yêu cầu chủ yếu sau :
+ Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết.
+ Nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao.
+ Cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu.
+ Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm.
+ Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
- Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa và thực tại của nền kinh tế hiện nay thì kinh tế Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng kinh tế thế giới và bị chi phối bởi nền kinh tế thế giới. Ví dụ: ngày 21/01/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hoa Kì đã chính thức lan ra thị trường thế giới. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đến Việt Nam là không tránh khỏi vì nó đã tác động trực tiếp đến vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào các quốc gia chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng.
2.1.6.1. Về yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết
- Mặc dù có những đóng góp to lớn và có những bước phát triển mới nhưng nhìn tổng thể và khách quan thì những năm qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn quá chậm, thậm chí có một số lĩnh vực vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so với sự phát triển. Sự chậm chễ này biểu hiện ở những bằng chứng sau:
- Chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công nghiệp là một trong những điểm yếu nhất của chúng ta hiện nay. Mô hình tăng trưởng chủ yếu của Việt Nam là dựa vào những lợi thế so sánh tĩnh đó là nguồn tài nguyên thô và lao động rẻ chưa có kỹ năng. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp, rất ít sản phảm có hàm lượng trí tuệ cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn còn rất lúng túng. Đến nay sản xuất nông nghiệp vẫn luôn luôn bị động trước những đòi hỏi của thị trường, nhiều địa phương vẫn không xác định được định hướng nuôi trồng cây gì, con gì… Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp, nhưng trong quá trình phát triển khu vực này cũng đang bộc lộ khá nhiều thách thức như: phát triển các khu du dịch, sân gôn, khu công nghiệp … tuỳ tiện làm giảm diện tích cấy trồng của nông nghiệp, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới đời sống của nông dân…
Cơ cấu GDP của một số quốc gia phân theo ngành kinh tế năm 2009
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Việt Nam 20.7% 41.58% 39.1%
Singapore 0% 34.8% 65.2%
Úc 3.8% 26.2% 70%
Hoa Kỳ 0.9% 20.6% 78.5%
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
Ví dụ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra mục tiêu đến năm 2015: cơ giới hóa 100% việc chế biến hạt giống, 70-75% việc làm đất, áp dụng các thiết bị sạ lúa, cấy mạ, bơm thuốc, gặt lúa, gặp đập liên hợp… Thực tế đến nay, ở đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ cơ giới hóa được 28% diện tích canh tác lúa đông xuân.
- Nguyên nhân: diện tích thửa ruộng nhỏ (từ 15 triệu thửa thời Pháp thuộc đến nay là 75 triệu thửa, trong khi diện tích đất nông nghiệp không tăng, thậm chí đang giảm do nhiều nguyên nhân: chuyển đổi mục đích sử dụng, đô thị hóa, ngập mặn…); công nghệ lạc hậu, máy móc nhập về cũ kỹ trong khi máy sản xuất trong nước có giá thành cao, ít linh kiện để sửa chữa.
- Các vùng kinh tế trọng điểm vẫn phát triển chậm, chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại.
- Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế Nhà nước vẫn chưa tìm được mô hình quản lý hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn làm ăn thua lỗ. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác chưa được tạo đủ điều kiện thuận lợi để phát triển. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn yếu.
Ví dụ: Nhà nước cho phép thành lập nhiều tập đoàn nhà nước quản lí số vốn lớn nhưng làm ăn thua lỗ, trong đó Vinashin là ví dụ điển hình. Chỉ tính riêng khoản vay tín dụng quốc tế từ Credit Suisse đã là 600 triệu USD.
- Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn còn cao. Tình trạng lao động không có việc làm, thiếu việc làm còn nhiều. Lao động không qua đào tạo, không có trình độ tay nghề rất đáng báo động…
- Cơ cấu đầu tư vẫn chưa hợp lý, chưa hướng vào các ngành có giá trị gia tăng… Đầu tư ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải, thất thoát, hiệu quả thấp. Không ít các công trình trọng điểm không hoàn thành đúng kế hoạch… Đặc biệt công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém chưa phù hợp với tình hình phát triển của xã hội dẫn đến nhiều tổn hại về tiền của vật chất mang tính liên hoàn…
Ví dụ: Đầu tư công của Việt Nam năm 2009 là 42.5% GDP, cao thứ 4 thế giới, trong khi tăng trưởng GDP năm 2009 chỉ đạt 5.3%.
- Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan khác nhau nhưng suy cho cùng có thể là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Trước nhất là do nhận thức chưa đầy đủ của các cấp các ngành về đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta, từ đó trong tư duy và cả trong hành động chỉ đạo còn lúng túng, chậm chễ, khả năng dự báo và phát hiện chưa cao, chưa nhạy bén trước sự phát triển mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế.
- Các chính sách và giải pháp vẫn chưa đủ mạnh, chưa kịp thời. Hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế chưa cao, cải cách hành chính còn rất chậm và đặc biệt đội ngũ cán bộ vẫn chưa đáp ứng kịp với tình hình và nhiệm vụ hiện nay.
2.1.6.2. Về việc xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao
- Hiện nay, với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 60 thế giới (trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF) nếu tính theo GDP và xếp thứ 133 nếu tính theo GDP bình quân đầu người.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
% 5,8 4,8 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5 6,2 5,3 6,5
(ước)
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
GDP bình quân đầu người nước ta qua các năm
Năm 1995 2000 2005 2007 2008 2009
USD/người 289 402 639 823 1024 1040
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
- Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng 09/2010, Việt Nam đứng thứ 59 trong tổng số 139 nước tham gia xếp hạng chỉ số cạnh tranh quốc gia.
- Ở hạng mục Yêu cầu cơ bản, Việt Nam đạt điểm số 4,4 và xếp hạng thứ 74; ở hạng mục Các nhân tố cải thiện hiệu quả, điểm số dành cho Việt Nam là 4,2 tương đương vị trí thứ 57; còn ở hạng mục Các nhân tố về sáng tạo và phát triển Việt Nam đạt 3,7 điểm, xếp thứ 53.
- Khi đánh giá các yếu tố trong từng trụ cột, WEF xếp Việt Nam ở các vị trí khá cao ở các yếu tố như: tiền lương và năng suất (hạng 4/139), mức độ tin tưởng của dân chúng vào các chính trị gia (32), mức độ đáng tin cậy của lực lượng cảnh sát (41), hệ thống điện thoại cố định (35), sự phủ sóng Internet tại trường học (49), tỷ lệ tiết kiệm quốc gia (17), trình độ của người tiêu dùng (45), mức độ tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động (20), khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán (35), FDI và chuyển giao công nghệ (31), quy mô thị trường nội địa (39), quy mô thị trường nước ngoài (29)... Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều những yếu tố mà Việt Nam gần ở cuối bảng như: mức độ bảo vệ các nhà đầu tư (133), gánh nặng thủ tục hành chính (120), năng lực kiểm toán và tiêu chuẩn báo cáo (119), chất lượng cơ sở hạ tầng nói chung (123), cân bằng ngân sách chính phủ (126), thời gian thành lập doanh nghiệp (118), quyền sở hữu của nước ngoài (114), mức độ sẵn có của công nghệ tân tiến nhất (102)…
- Chính mức độ bảo vệ nhà đầu tư cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm điểm trong xếp hạng môi trường kinh doanh (Best countries for business) do tạp chí Forbes công bố mới đây. Ở yếu tố đánh giá này trong xếp hạng của Forbes, Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo. Vị trí của Việt Nam trong đánh giá môi trường kinh doanh của Forbes là 118.
- WEF cũng liệt kê những yếu tố gây cản trở nhiều nhất đối với hoạt động kinh doanh tại các quốc gia được xếp hạng trong báo cáo. Đối với Việt Nam, 5 rào cản hàng đầu bao gồm khả năng tiếp cận vốn, lạm phát, mức độ ổn định thấp của chính sách, lực lượng lao động chưa được đào tạo đầy đủ, và cơ sở hạ tầng hạn chế.
- Tuy thăng hạng so với báo cáo năm ngoái, nhưng năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo WEF vẫn thấp hơn so với hầu hết các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á như Singapore (5,5 điểm/hạng 3), Malaysia (4,9 điểm/hạng 26), Brunei (4,8 điểm/hạng 28), Thái Lan (4,5 điểm/hạng 38), Indonesia (4,4 điểm/hạng 44).
- Vấn đề tham nhũng và lậu thuế được đánh giá là những thách thức lớn nhất trong quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam. Không chỉ vậy, theo các chuyên gia, mức bảo hộ của các ngành hàng hoá hiện còn chưa linh động. Sau một thời gian dài cải cách, đồ uống không cồn vẫn đang được bảo hộ tới 50%, đường 32,4%, gạch ốp lát 48%, đồ nhựa 167%... Trong khi đó tỷ trọng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài lại chiếm tương đối cao vào các mặt hàng này.
- Ước tính tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào các ngành hàng thay thế nhập khẩu gấp 2 lần số đầu tư hướng ra xuất khẩu. Đây chính là một thách thức lớn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam.
- Ngoài ra một số mặt hàng trong nước chúng ta còn quá lệ thuộc vào nước ngoài:
Ví dụ 1: Việc không kiểm soát được giá thuốc. Nguyên nhân của việc không kiểm soát được giá thuốc là do công nghiệp dược Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là công nghiệp bào chế đơn giản với hàm lượng kỹ thuật thấp. Một số nhóm thuốc quan trọng trong nước chưa sản xuất được. Trong khi đó, thị trường thuốc lại đang bị các hãng dược nước ngoài thao túng bởi họ biết câu kết độc quyền hoặc tự đoạt vị trí độc quyền.
Ví dụ 2: Sản xuất máy nông nghiệp còn lệ thuộc linh kiện nhập khẩu, khoảng 30% máy nông nghiệp do Việt Nam sản xuất, nhưng linh kiện chủ yếu là hàng nhập. Theo các chuyên gia chế tạo máy, Việt Nam hiện nay có khoảng 550.000 máy phục vụ sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là máy nổ và máy phát điện, còn máy cày, máy gặt đập và các dòng máy chuyên dùng khác không đáng kể… Nhóm máy phục vụ sản xuất nông nghiệp được phân chia theo tỷ lệ: máy nhập từ Trung Quốc chiếm khoảng 60%, máy do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 30%, còn lại là nguồn máy cũ. Nếu phân tích chi tiết hơn, trong 30% thị phần của máy nông nghiệp Việt, có nhiều dòng sản phẩm là kết quả của liên doanh.. 2.1.6.3. Đánh giá về việc xây dựng cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối - Cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu.
- Nền kinh tế nước ta đang ở trong trạng thái nhập siêu, tình trạng này diễn ra liên tục trong vài năm gần đây với tỉ lệ cao và chưa thấy được dấu hiệu của việc giảm tỉ trọng nhập siêu. Điều này làm ảnh hưởng tới an toàn của hệ thống nền kinh tế về dự trữ ngoại hối, những mặt hàng chúng ta nhập phần lớn là những mặt hàng xa xỉ, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa; do vậy, đây là một trong những điều quan ngại cho tính an toàn và độc lập của nền kinh tế Việt Nam.
Ví dụ: Năm 2009 nhập siêu 12,25 tỉ USD. Đến hết tháng 11/2010 nhập siêu 10,65 tỉ USD. Bộ Công thương ước tính nhập siêu năm 2010 sẽ khoảng 12 tỉ USD, nằm trong khoảng an toàn cho phép là 20% kim ngạch xuất khẩu.
- Về mặt xuất khẩu, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông lâm thủy hải sản, một số hàng hóa công nghiệp mang tính gia công. Tất cả những mặt hàng này có giá trị thấp, hàm lượng chất xám không cao, có tính chất bào mòn tài nguyên quốc gia. Ví dụ: dầu thô, gạo, gỗ, các loại thủy hải sản… Trừ dầu thô những mặt hàng xuất khẩu còn lại của Việt Nam luôn gặp vấn đề về giá, những vụ kiện tụng về bán phá giá tại nhiều thị trường trọng yếu khiến cho hàng hóa của Việt Nam luôn yếu thế hơn so với các mặt hàng cùng chủng loại của các nước khác.
- Về nhập khẩu, xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp muốn chuyển đổi qua công nghiệp hóa Việt Nam cần phải nhập nhiều công nghệ từ nước ngoài để kịp thời phục vụ cho nền sản xuất hàng hóa trong nước; bên cạnh đó, văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam khiến cho lượng hàng hóa nhập vào Việt Nam nhiều hơn, ngay cả đối với những mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được với chất lượng tương đương.
2.1.6.4. Về đầu tư
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm. Đây là điểm mà Việt Nam đang làm khá chặt. Trong lãnh thổ quốc gia, chúng ta đang độc quyền một số lĩnh vực nhảy cảm như năng lượng, ngân hàng…
- Mặc dù VN đã là thành viên chính thức của WTO nhưng đối với một số lĩnh vực thuộc cam kết nhà đầu tư nước ngoài cũng rất khó mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Điều này giúp cho Việt Nam đảm bảo được một số nguyên tắc an toàn cơ bản trong việc bảo vệ tính ổn định của nền kinh tế. Ví dụ: trong ngành ngân hàng, bán lẻ, giải trí có điều kiện (casino, hợp thức hóa cá cược)
2.1.6.5. Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh
- Đối với vấn đề này Việt Nam đang thực hiện khá yếu. Lạm phát năm 2010 dự kiến vào khoảng 8%.
- Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trước sức ép phát triển mạnh nền kinh tế sản xuất trong nước, nhu cầu về vốn tăng cao cộng với năng lực quản trị kém luôn khiến cho hệ thống ngân hàng VN luôn ở trong tình trạng kém về thanh khoản, lãi suất tăng cao. Điều này gây áp lực lớn hệ thống doanh nghiệp VN, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp tư nhân; yếu tố cốt lõi cho sự phát triển nền kinh tế.
- Đầu năm 2010, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cảnh báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam quá thấp, chỉ bằng 7 tuần nhập khẩu so với tiêu chuẩn quốc tế là 12 tuần. Đến tháng 06/2010, Ngân hàng Nhà nước công bố số liệu dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt 09 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên con số này vẫn còn quá thấp.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam qua các năm (tỉ USD)
2008 2009 2010 (dự báo)
23 15.2 17.5
- Một số vấn đề khác liên quan đến độc lập tự chủ về kinh tế:
+ An ninh lương thực: Chúng ta có thể yên tâm về khoản này do là nước nông nghiệp, xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, vẫn có những mối lo về việc giảm diện tích đất nông nghiệp do các nguyên nhân: đô thị hóa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, ngập mặn…
+ Nợ quốc tế: Năm 2010 dự kiến nợ quốc tế vào khoảng 38.8% GDP, vẫn ở mức an toàn cho phép. Tuy nhiên vẫn có những mối lo ngại về tình hình nợ quốc tế như sau:
- Nợ quốc tế vẫn tăng hằng năm, và mức độ tăng nhanh hơn mức độ tăng trưởng GDP
- Cơ cấu nợ: gia tăng các khoản vay có lãi suất cao, đáo hạn sớm. Đây là các khoản vay của các doanh nghiệp (chỉ có chính phủ có thể vay nợ với lãi suất thấp và thời hạn trả nợ dài). Đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước dựa vào cam kết bảo lãnh của chính phủ để đi vay.
- Từ 2009, Việt Nam bắt đầu trả nợ ODA cho Nhật Bản, mỗi năm khoảng 200-250 triệu USD. Con số này sẽ còn tăng trong tương lai.
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, việc thực hiện chủ trương này đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, thách thức và khó khăn đan xen nhau. Trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, cần tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức, tư tưởng, trong việc hoạch định đường lối, chính sách và trong việc tổ chức thực hiện - đó là những điều kiện vô cùng quan trọng, tiên quyết để đảm bảo sự thành công việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng
2.2.1. Kinh tế thị trường
2.2.1.1. Khái niệm
- KTTT là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ kinh tế đều được lượng hóa bằng tiền tệ, các đối tượng của sản xuất đều là đối tượng mua và bán, các doanh nghiệp đều có mục đích tự nhiên là tìm kiếm lợi ích cho chính mình theo sự dẫn dắt của những tín hiệu thị trường.
2.2.1.2. Ưu điểm
- Kích thích các hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ.
- Thích ứng tự phát giữa cung và cầu.
- Kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
- Thực hiện phân phối các nguồn lực một cách tối ưu.
- Sự điều tiết của cơ quan Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
2.2.1.3. Hạn chế
- Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường giảm.
- Tài nguyên bị lạm dụng, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hậu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo. Ví dụ như các vấn đề về lạm thác titan, vàng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về môi trường, tình trạng ô nhiễm do hạ tầng xử lí chất thải không theo kịp tốc độ phát triển công nghiệp, do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến việc gây ô nhiễm môi trường sống trầm trọng, điển hình là sự việc bức tử sông Thị Vải của Vedan.
- Phân phối thu nhập không công bằng, phân hóa giàu nghèo gia tăng. Các chỉ số thống kê cho thấy chênh lệch giữa nhóm giàu (20% tổng số hộ có thu nhập cao nhất) và nhóm nghèo (20% tổng số hộ có thu nhập thấp nhất) ở nước ta tăng nhanh qua các năm: 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần, năm 1993 là 6,2 lần, năm 1994 là 6,5 lần, năm 1995 là 7 lần, năm 1999 là 7,6 lần, năm 2004 là 8,1 lần và 2008 là 9,1 lần. Chênh lệch giàu nghèo ở nước ta cũng cần lưu ý những điểm sau:
Một là, chênh lệch giàu, nghèo ở nước ta tăng là kết quả tất yếu của sự chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch tập trung quan liêu và chế độ bao cấp bình quân hiện vật sang cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường đã loại bỏ dần tính bình quân bao cấp, khuyến khích làm giàu bằng việc phát huy các nguồn lực về vốn, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, sức lao động, kinh nghiệm làm ăn… Theo ý nghĩa này thì chênh lệch giàu nghèo có tăng lên cũng không có gì đáng sợ, bởi nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường.
Hai là, chênh lệch giàu, nghèo tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình quân mỗi năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn cao hơn trong thời gian tới. Đây mới là điều đáng lưu ý, vì nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, chênh lệch giàu, nghèo của nước ta tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế hiện vật mang tính chất bình quân sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng quan tâm. Nước Mỹ đã trải qua hơn 200 năm phát triển tư bản và hiện đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, nhưng chênh lệch cũng mới chỉ có 9,1 lần; tài sản của tỉ phú Mỹ chỉ chiếm 6,1% GDP. Nước Nga mới chuyển đổi 15 năm, nhưng tỉ phú Nga đã chiếm tới 40% GDP. Ở Việt Nam, mới qua 20 năm đổi mới mà chênh lệch đã lên tới 9,1 lần là điều không thể coi thường.
Bốn là, trong chênh lệch giàu, nghèo của nước ta còn chứa đựng những yếu tố bất hợp lý ở cả hai đầu - đầu giàu và đầu nghèo. Ở "đầu giàu", có không ít hộ và người có những khoản thu nhập bất chính (như do buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, do tham nhũng, do cạnh tranh không lành mạnh như ăn cắp bản quyền, kinh doanh kiểu chụp giật, lừa đảo…) hoặc những khoản thu nhập không chính đáng do kẽ hở của chính sách được hưởng từ nhà đất, từ bao cấp… mà có. Ở "đầu giàu" cũng còn tình trạng một số người làm ăn chân chính nhưng chưa thật yên tâm bỏ vốn đầu tư trực tiếp do vẫn còn sợ "vỗ béo làm thịt", hoặc chưa được khuyến khích để làm giàu chính đáng bằng vốn, bằng sức lao động, bằng trình độ kinh nghiệm, hoặc đã xuất hiện tư tưởng thỏa mãn theo kiểu "giàu xổi" nên đã dồn cho tiêu xài, nuông chiều con cái mà chưa dồn đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh.
Ở "đầu nghèo", bên cạnh không ít hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu việc làm, thiếu kinh nghiệm, do bị rủi ro ốm đau, tai nạn, thiên tai, do cơ cấu thu nhập - vì lý do khách quan…, cũng có một số hộ còn do những nguyên nhân chủ quan, thậm chí đáng phê phán như lười làm, chi tiêu lãng phí, vung tay quá trán, đua đòi, do sinh đẻ không kế hoạch, ỷ lại vào sự trợ giúp trực tiếp của Nhà nước, của xã hội…, thậm chí sa vào các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, nghiện hút.
Năm là, về mặt tâm lý, việc đối xử không nên "vơ đũa cả nắm". Không nên "người giàu thì ghét", trái lại nếu làm giàu chính đáng còn cần phải tôn vinh, phải học tập. Cũng không nên "người nghèo thì khinh", nếu nghèo do khách quan, trái lại còn chia sẻ, hỗ trợ, đùm bọc nhưng nếu nghèo do chủ quan thì phải phê phán để tránh ỷ lại, nếu không sẽ trở lại bao cấp, bình quân, làm mất động lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Khó tránh khỏi thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
2.2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
- Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Về mục đích: Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
+ Về sở hữu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
+ Về quản lý: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
+ Về phân phối: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
=> Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng cụ thể như sau:
+ Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
+ Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân;
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
+ Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn;
+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người;
+ Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội;
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
=> Với những nội dung trên cho thấy, nền KTTTĐHXHCN hoạt động nhờ vào sự điều tiết của cơ chế thị trường, các quy luật khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh…trên cở sở định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1. Thành tựu
- Tính dân chủ, công khai trong xây dựng và thực thi pháp luật và chính sách ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước.
- Từng bước xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo động lực, điều kiện thuận lợi để khai thác tiềm năng trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội. Quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh ngày càng được tôn trọng và được và được pháp luật bảo vệ.
- Cơ chế phân bổ nguồn lực quốc gia về cơ bản đã được chuyển đổi theo hướng vừa dựa vào các tín hiệu thị trường, vừa căn cứ vào mục tiêu, định hướng phát triển của Nhà nước. Chế độ phân phối được đổi mới theo hướng công bằng hơn, dựa trên sự đóng góp cả về lao động, hiệu quả kinh tế, lẫn các đóng góp về vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
- DNNN được sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động; hợp tác xã, nông lâm trường tiếp tục được đổi mới và hỗ trợ phát triển. Kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được thừa nhận và khuyến khích phát triển. Các đơn vị sự nghiệp đổi mới theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các loại thị trường chức năng đã ra đời và phát triển theo hướng thông suốt, thống nhất trong cả nước và trên thế giới.
- Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm được quan tâm. Các chính sách xã hội, chính sách chăm sóc người có công, hỗ trợ nhóm người yếu thế, đồng bào bị thiên tai ngày càng hiệu quả hơn.
- Chức năng quản lý Nhà nước, chức năng chủ sở hữu nhà nước và chức năng kinh doanh của DNNN được phân định rõ hơn. Nhà nước chuyển từ can thiệp trực tiếp sang quản lý, can thiệp gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, luật pháp, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
- Kinh tế hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Vào thời điểm 2010, chúng ta đã có thể nói đến kế hoạch phát triển kinh tế trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Trong vòng 25 năm, GDP của Việt Nam từ mức dưới 20 tỉ USD đã lên đến 85 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu từ 1-2 tỉ USD lên đến 64 tỉ USD, đầu tư nước ngoài từ chỗ không có gì lên đến con số khó tưởng tượng là 98 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện trên 40 tỉ USD.
+ Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng cánh cửa của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Riêng năm 2008, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào GDP gần 47%, trong đó có phần đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân; ở một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn như TP. Hồ Chí Minh là 51,4%, Cần Thơ là gần 73%. Trong thời gian này, khu vực kinh tế tư nhân đã tạo công ăn việc làm cho trên 5 triệu lao động mới (chưa tính khu vực nông nghiệp), bình quân 800 ngàn lao động/năm, chiếm tỷ lệ 50% số lao động tăng thêm của cả nước. Số lượng doanh nghiệp tư nhân đã gia tăng mạnh mẽ, ước tính đến hết năm 2009 là 460.000 doanh nghiệp, tăng 15 lần trong vòng chín năm, tuy nhiên phần lớn ở quy mô vừa và nhỏ, số doanh nghiệp tư nhân lớn còn khá khiêm tốn.
+ Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm 2010 gấp 1,6 lần cùng kỳ năm 2009. Xu hướng đó chứng tỏ nền kinh tế nước ta đang phục hồi nhanh.
+ Về đầu tư phát triển: Nhờ tập trung đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, công trình trọng điểm, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế trong 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 390,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4% so cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực nhà nước 166,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 42,7% tổng vốn và tăng 17,8%; khu vực ngoài nhà nước 120 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,8% và tăng 9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 103,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,5% và tăng 11,8%.
+ Về cân đối thu, chi ngân sách: tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2010 tăng 21,6 so với cùng kỳ 2009 và bằng 52,5% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước 6 tháng đấu năm ước tính tăng 21,3% so cung kỳ năm 2009 và bằng 46,9% dự toán năm.
+ Về cân đối thương mại: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 32,1 tỷ USD, tăng 15,7% so cùng kỳ năm 2009. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 38,9 tỷ USD, tăng 29,4% So cùng kỳ năm 2009.
+ Về kết quả ngăn ngừa lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2010 tăng 8,75% so 6 tháng đầu năm 2009. Điều này cho thấy các chính sách bình ổn giá đã bước đầu phát huy tác dụng.
.2.1 Về lý luận
- Lý luận về thể chế KTTT định hướng XHCN chưa được định hình một cách có hệ thống. Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được xác định thật rõ và có được sự nhất trí cao.
+ Thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý thuyết vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của cơ chế kinh tế, nhiều khi, chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường cũng như của định hướng XHCN. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc biệt về cấu trúc, quan hệ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, vẫn chậm làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ giữa hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự kết hợp chúng một cách hữu cơ để tạo thành một phương thức mới giải quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam.
+ Nhận thức lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm so với thực tiễn phát triển. Nhiều vấn đề đặt ra còn chưa được giải quyết, tổng kết kịp thời. Do vậy, trong công tác chỉ đạo còn thiếu nhất quán, lúc mở ra lúc co lại, lúc thiên bên này, lúc lại lệch bên khác, làm chậm quá trình phát triển chung của nền kinh tế.
+ Mối quan hệ trong cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ" chưa được giải quyết hiệu quả trên thực tế, làm giảm hiệu lực quản lý kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, nhất là về mặt lợi ích kinh tế, chưa được xử lý phù hợp, chưa phát huy được tính năng động của Nhà nước cũng như vai trò thúc đẩy của thị trường, đặc biệt là vai trò lực lượng xung kích của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngay cả khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
+ Thể chế kinh tế thị trường, kể cả hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước, mặc dù đã dần được hình thành, song còn chậm, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và một số mặt chưa phù hợp, đã gây cản trở, làm méo mó quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Hiệu lực quản lý Nhà nước còn hạn chế, nhất là trong điều hành nền kinh tế còn nặng tính hành chính; phân định chức năng chưa rõ ràng. Một mặt, có xu hướng buông lỏng chức năng của Nhà nước trong điều tiết kinh tế thị trường, mặt khác, lại duy trì quá lâu sự độc quyền trong một số lĩnh vực (nhiều trường hợp độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp).
3.2.2. Về hành lang pháp lý
- Hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu ổn định, chưa minh bạch, chưa tạo được hành lang pháp lý thật sự thuận lợi, an toàn cho sự vận hành thông suốt và thống nhất của nền KTTT định hướng XHCN, chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Một số quy định pháp luật còn chồng chéo, thậm chí trái ngược nhau gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện. Năng lực thực thi pháp luật nhìn chung chưa cao.
- Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh ở nước ta vừa qua có được cải thiện thêm đáng kể. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), năm 2007 môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 13 bậc so với năm 2006 (xếp thứ 91/187 nước). Nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập, chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp vẫn thuộc loại cao so với các nước khác trong khu vực. Xét về tổng thể, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong mấy năm qua bị giảm sút liên tục.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường chức năng hình thành và phát triển còn chậm, thiếu đồng bộ. Khung pháp luật về giá, về hợp đồng, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền chưa hoàn thiện. Cơ sở hạ tầng, vật chất và kỹ thuật cho các thị trường chức năng còn lạc hậu. Cấu trúc thị trường chưa đồng bộ, cơ chế vận hành chưa thông suốt, chưa kết nối tốt thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Thể chế hỗ trợ phát triển và giám sát, điều tiết thị trường còn yếu. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh mất vệ sinh, thiếu an toàn, bất chấp môi trường sống bị đe dọa …. khá phổ biến và chậm được khắc phục.
3.2.3. Về chế độ sở hữu
- Mặc dù chế độ đa sở hữu đã được khẳng định bằng luật pháp nhưng trong nhận thức và hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền còn nhiều điều chưa nhất quán. Quản lý, sử dụng đất đai, nhất là trong giải phóng mặt bằng còn nhiều vấn đề vướng mắc, gây bức xúc, khiếu kiện trong dân. Vấn đề sở hữu trong các DNNN chưa được xác định và và xử lý đúng đắn, gây cản trở không ít cho quá trình phát triển, làm thất thoát tài sản Nhà nước. DN thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước ít nhiều vẫn còn bị phân biệt đối xử trong thực tế. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vị trí then chốt của DNNN chưa được phát huy rõ nét và chưa có tính thuyết phục cao. Kinh tế tập thể đổi mới chậm và chậm phát triển. Kinh tế trang trại, kinh tế hộ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong quá trình phát triển.
- Tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp chậm được đổi mới. Chưa hình thành được cơ chế hiệu quả để huy động nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác phát triển mạnh mẽ. Chất lượng dịch vụ y tế giáo dục còn thấp, điều kiện tiếp cận dịch vụ này còn chênh lệch khá lớn giữa các vùng khác nhau.
- Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế chưa cao. Cơ cấu, tổ chức, cơ chế vận hành của Bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập. Sư phân công, phân cấp, phối kết hợp giữa các cấp, các ngành, các lĩnh vực trong quản lý kinh tế chưa đủ rõ ràng, cụ thể chưa gắn đầy đủ quyền và trách nhiệm, chưa phù hợp với điều kiện vật chất, kỹ thuật và năng lực đội ngũ cán bộ, thiếu các cơ chế giám sát, đánh giá có hiệu quả. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Sự tham gia của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quá trình hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát, thực hiện chính sách còn yếu. Tỷ lệ tham nhũng quan liêu còn nghiêm trọng, gây bất bình trong xã hội.
- Doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, được xác định là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, song còn nhiều doanh nghiệp chưa chủ động vươn lên, đổi mới công nghệ, quản lý, nâng cao sức cạnh tranh để đứng vững trong cạnh tranh hội nhập. Vẫn còn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, trong lúc sức ép cắt giảm các khoản bảo hộ của nhà nước đang rất lớn trong khung khổ của WTO. Thực tế nhiều giá cả như viễn thông, hàng không, điện lực, xăng dầu... còn mang tính độc quyền đã ảnh hưởng đến sức cạnh tranh chung của nền kinh tế. Thực trạng đầu tư chưa theo tín hiệu của thị trường còn phổ biến, nhiều dự án đầu tư vẫn theo chỉ định cấp phát, dấu ấn của mô hình kế hoạch hóa tập trung, tệ nạn "xin - cho" vẫn còn tồn tại.
3.2.4. Về phân phối
- Phân bổ nguồn lực quốc gia không ít trường hợp vẫn còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là giáo dục, y tế, văn hóa chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức và chậm đổi mới. Năng suất và hiệu quả của DNNN cũng như các đơn vị sự nghiệp công chưa tương xứng với đầu tư của nhà nước. Chính sách tiền lương còn nhiều khiếm khuyết, chưa cho phép cải thiện đời sống căn bản của người hưởng lương, chưa tạo động cơ để thu hút và sử dụng người tài. Hệ thống thuế thiếu đồng bộ và thiếu ổn định, chưa cho phép thực hiện tốt các chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Hệ thống quản lý giám sát phân phối thu nhập ở những lĩnh vực kinh doanh độc quyền còn nhiều yếu kém.
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng đang có nguy cơ dãn rộng ra. Tỷ lệ các hộ cận nghèo còn ở mức cao và nguy cơ tài nghèo lớn. Hệ thống an sinh xã hội vẫn đang ở mức sơ khai, chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội đang còn thấp, cơ chế “đóng, hưởng” chưa được vận hành tốt. Nhiều vấn đề bức xúc, bất cập về trật tự an toàn xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
4.1. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ
- Để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế và từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng lớn mạnh, vững chắc, cần thực hiện tốt một số chủ yếu sau:
- Trước hết, cần thực hiện tốt đường lối chung và đường lối kinh tế để xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đó do Đảng ta đề ra và lãnh đạo thực hiện, thể hiện sự độc lập, tự chủ trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.
- Chúng ta khẳng định quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng nhất định chúng ta sẽ đi tới đích. Đích chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà chúng ta hướng tới và thực hiện bằng được là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Quá trình thực hiện mục tiêu cao cả đó bao hàm nội dung trọng yếu là từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Cho đến giai đoạn phát triển mới hiện nay, Đảng ta hình thành đường lối kinh tế là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta thành một nước công nghiệp. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi liền từng bước với cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng - an ninh. Việc thực hiện thắng lợi đường lối kinh tế của Đảng chính là xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, phù hợp với điều kiện của đất nước và thích ứng với tình hình quốc tế.
- Làm được như vậy sẽ phát huy mọi nguồn lực bên trong và tận dụng các nguồn lực bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao sẽ tăng cường tiềm lực đất nước, tạo sức mạnh cho đất nước vươn lên.
- Vấn đề thứ hai là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác.
- Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện với những bước đi vững chắc, vừa tuần tự, vừa nhảy vọt, phát huy mạnh mẽ các lợi thế của đất nước, gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước, tiếp cận và ứng dụng kinh tế tri thức trong những ngành nghề thích hợp; tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về kinh doanh, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông qua phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, xây dựng và phát triển một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn; đồng thời coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Cuối cùng, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
- Đây là nhiệm vụ hết sức trọng đại, tạo môi trường hòa bình và điều kiện quốc tế thuận lợi cho chúng ta thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại là mở rộng quan hệ nhiều mặt, chú trọng cả quan hệ song phương và đa phương đối với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chống mọi hành vi đe dọa, gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
- Nội dung trọng yếu của quan hệ đối ngoại là quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đáp ứng yêu cầu và lợi ích của nước ta trong quá trình phát triển, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và thế giới. Chủ động hội nhập là để kết hợp nội lực là chính với ngoại lực là quan trọng, tạo thành sức mạnh to lớn đưa đất nước tiến lên. Những nguồn lực đó là vốn, thiết bị, vật tư, tiến bộ khoa học và công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường và các quan hệ hợp tác cùng có lợi.
- Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập quốc tế là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Trong hội nhập quốc tế, phải vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để tranh thủ được thời cơ và hạn chế nguy cơ, bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế
4.2.1 Thống nhất về nhận thức, tư tưởng
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải vừa bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc của kinh tế thị trường, vừa phát triển bền vững trên cơ sở chú trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường theo mô hình mà chúng ta lựa chọn là phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Kinh tế thị trường tự nó không thể quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ xã hội. Bản chất của chế độ chính trị - xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường. Có thể khẳng định, chỉ phát triển có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì mới có khả năng thực hiện thành công công nghiệp hóa rút ngắn ở Việt Nam, theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Kinh tế thị trường và định hướng XHCN phải là những thuộc tính bản chất, những yếu tố nội tại bền vững trong mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta, không thể coi nhẹ yếu tố nào. Định hướng XHCN phải được quán triệt khi vận hành các nguyên tắc của thị trường, ngược lại, việc thực hiện định hướng XHCN không được tách rời biệt lập với các quy luật của thị trường.
- Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường là thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chỉ có phát triển hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị trường trong quá trình thực thi các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mới tạo được cơ sở kinh tế bảo đảm cho phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Nhưng lại chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, kinh tế trong đó kinh tế nhà nước thực sự có hiệu quả đóng vai trò chủ đạo, mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN.
4.2.2. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước
- Tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển; Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội; Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường; Chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tăng cường vai trò của Nhà nước về kinh tế trên cơ sở đổi mới phương thức quản lý từ chỗ can thiệp trực tiếp vào thị trường sang quản lý vĩ mô. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo các điều kiện, môi trường để thúc đẩy nhanh hơn sự hình thành và phát triển các loại thị trường, cũng như các yếu tố trong từng loại thị trường theo mục tiêu đã được đề ra, đặc biệt khi nước ta đã vào WTO. Nhà nước cần dự báo ngắn hạn và dài hạn những gì xảy ra trong giai đoạn hậu WTO, thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và có giải pháp vĩ mô để nâng cao khả năng cạnh tranh trên cả ba cấp độ: doanh nghiệp, sản phẩm và nền kinh tế.
- Việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu vai trò của Nhà nước càng cần thiết hơn. Điều này thể hiện sự can thiệp của Nhà nước phải vừa bảo đảm tốt lợi ích quốc gia trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc thị trường, phải tôn trọng tính tất yếu của các quy luật kinh tế khách quan (nghĩa là phát huy các mặt mạnh của kinh tế thị trường để sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh), vừa tôn trọng các định chế kinh tế, thương mại quốc tế.
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này cần xác định các định hướng:
+ Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, thu hẹp và tiến tới các bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố không còn thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 5, khóa X.
+ Xóa bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công (giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao...).
+ Thực hiện việc phân công hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện các chức năng hành pháp, tư pháp và lập pháp trong hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục sự chồng chéo, bỏ sót và giảm hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Gần đây, trong nền kinh tế nước ta đang diễn ra các quá trình sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước thành công ty mẹ - con, tập đoàn... Đây là quá trình, trong nhiều trường hợp, đã được lý giải bởi sự cần thiết của việc tăng cường hiệp tác sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện mở cửa, hội nhập và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Song, ở một khía cạnh khác của vấn đề, quá trình đó phải được thực hiện đúng quy luật khách quan, nghĩa là dựa trên nguyên tắc thị trường, xuất phát từ những tất yếu về mặt kinh tế, kỹ thuật, đó là tính hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh khi sáp nhập hoặc hình thành mới các doanh nghiệp nhà nước, chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính chủ quan, duy ý chí.
4.2.3. Tiếp tục phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Tiếp tục đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sở hữu, phát triển nền kinh tế với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh vừa tạo ra sức cung, vừa tạo ra sức cầu cho các loại thị trường. Về mặt lý thuyết, một trong những cơ sở phát triển kinh tế thị trường là có sự tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Do đó, để phát triển thể chế kinh tế thị trường nói chung, các loại thị trường nói riêng, cần đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Không những thế, phát triển nền kinh tế thị trường đa sở hữu, nhiều thành phần phải dựa trên sự coi trọng mối quan hệ bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh và kinh tế - xã hội làm tiêu chí đánh giá. Đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước một cách lành mạnh, vững chắc, phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân và các hình thức kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới...
- Phải có một chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và xu thế phát triển chung của thế giới, chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân; phát triển khoa học, công nghệ; áp dụng kịp thời các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào đổi mới công nghệ trong sản xuất. Đẩy mạnh sự phân công, hợp tác giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, cũng như mối quan hệ hợp tác trên phạm vi quốc tế. Một số giải pháp chủ yếu cho vấn đề này là:
+ Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội, cần chú trọng phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
+ Điều chỉnh cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, ngành nghề theo yêu cầu phát triển cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong các kỳ kế hoạch 5 năm để đến năm 2020 nước ta có một cơ cấu lao động của một nước công nghiệp mới.
+ Đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra những công nghệ sản xuất phù hợp, tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Hoàn thiện môi trường thể chế, tôn trọng tự do cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, được cấu thành từ nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất. Trong đó, kinh tế nhà nước và tập thể phải ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa các nguồn vốn sản xuất. Hiện nay, môi trường pháp lý và năng lực quản lý nhà nước của các cơ quan công quyền chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường. Để tạo môi trường thể chế phát triển các loại thị trường, trước hết cần rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật nhằm khắc phục những quy định không thống nhất giữa các văn bản, xóa bỏ những bất cập trong hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành làm ảnh hưởng đến việc hình thành môi trường kinh doanh chung của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Các văn bản pháp luật phải có tính thực thi cao, phù hợp với thực tiễn và có tính ổn định. Phải tiếp tục nâng cao năng lực của các cơ quan soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, đồng thời nâng cao dân trí và trình độ nhận thức và chấp hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện các bộ luật liên quan đến kinh tế thị trường.
- Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho các loại hình thị trường theo hướng hội nhập, trong đó cần phải chú ý đúng mức đến việc tăng cường xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các loại thị trường; hình thành và phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường; sớm xây dựng thể chế cho việc chính thức ra đời và phát triển các loại giao dịch điện tử, thương mại điện tử. Cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, hiện đại hóa các cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế, thể thao, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế.
- Cần quán triệt và cụ thể hóa quan điểm Đại hội X của Đảng, xác định các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Không nên đồng nhất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân, mà phải xem xét trong sự chi phối, tác động chung đối với sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đi đầu và là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn vậy, phải nhanh chóng khắc phục mọi khuynh hướng bao cấp trở lại nhằm kéo dài thời gian bảo hộ cho doanh nghiệp nhà nước, cần kiên quyết chống độc quyền doanh nghiệp, thực thi hiệu quả Luật Cạnh tranh.
- Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể và doanh nghiệp cổ phần.
- Cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật theo hướng minh bạch, công khai, tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành viên tham gia thị trường, chú ý tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho việc khuyến khích, tạo điều kiện cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân, khắc phục tư tưởng kỳ thị. Phải coi sự phát triển kinh tế tư nhân như một động lực phát triển của kinh tế dân tộc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
- Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm; một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, khắc phục rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài).
- Quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đang được đẩy lên với tốc độ nhanh hơn. Trong khuôn khổ của WTO, vòng đàm phán Đô-ha tiếp tục được thúc đẩy. Nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Điều này sẽ tác động sâu sắc đến việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Từ đó chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy, khẩn trương và có bước đi phù hợp trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
- Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
- Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
- Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
- Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
- Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO
1. Nguyễn Đăng Dung – Trương Đắc Linh – Nguyễn Mạnh Hùng – Lưu Đức
Quang – Nguyễn Văn Trí (2010), Xây dựng và bảo vệ hiến pháp kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam, NXB Giáo dục.
2. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB
Công an nhân dân.
3. Hệ thống văn bản Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Giao thông vận tải.
4. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám thống kê 2009, NXB Thống kê.
5. www.laodong.com.vn
6. www.tapchicongsan.org.vn
7. www.sggp.org.vn
8. http://vi.wikipedia.org/wiki/
9. www.vneconomy.vn
10. http://vovnews.vn
0 comments:
Post a Comment