ThS Lê Thị Thanh Nhàn
Bài 9 NHÀ NƯỚC TƯ SẢN - Lịch sử nhà nước tư bản trải qua 2 thời kỳ: + Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. + Thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn và chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 17, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
hình thành và lớn mạnh trong lòng xã hội phong kiến Tây Au. Trong lịch
sử phát triển, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn mang nét đặc thù riêng trên nền tảng biến đổi ít nhiều về kinh tế,
chính trị. Tuy nhiên, ở tất cả các giai đoạn, bản chất của chủ nghĩa tư
bản không biến đổi, đó là áp bức, bóc lột, cạnh tranh bằng mọi thủ đoạn
kể cả bằng chiến tranh bạo lực để thu lợi nhuận tới mức cao nhất:
+ Từ năm 1640 đến 1870 là giai đoạn giai cấp tư sản lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng tư sản để nắm chính quyền và xác lập chủ nghĩa tư
bản trên phạm vi toàn thế giới. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nghĩa là chưa có tổ chức hoặc cá nhân tư
bản độc quyền, các nhà tư sản tự do buôn bán. + Cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển sang một bước phát triển mới, đó
là thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Trong đó, từ năm 1870 đến năm 1945, chủ
nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh tự do
chấm dứt. Từ năm 1945 đến nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tức là chủ nghĩa tư bản hiện đại. I. THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH 1. Quá trình hình thành nhà nước a. Những tiền đề của chủ nghĩa tư bản và nhà nước tư bản
- Thế kỷ 15, 16 nền quân chủ chuyên chế ở các nước phong kiến Tây Au
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trên tất cả các mặt: chính
trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội… mà biểu hiện rõ nét nhất là trong lĩnh
vực quan hệ sản xuất. - Những tiến bộ của kỹ thuật được ứng
dụng rộng rãi vào sản xuất đã làm thay đổi tốc độ và quy mô sản xuất.
Đồng thời làm cho quá trình phân công giữa các ngành nghề diễn ra một
cách mạnh mẽ, đặc biệt sự phân công lao động trong nông nghiệp và công
nghiệp là điều kiện để nền kinh tế hàng hoá phát triển. - Quá
trình tích lũy tư bản được các nhà tư bản tiến hành bằng mọi thủ đoạn dã
man và hèn hạ. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình diễn ra sự tập
trung vốn vào một số ít người, là quá trình tước đoạt tư liệu sản xuất
của người lao động, biến họ thành những lao động làm thuê. b. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa - Công trường thủ công
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa giai đoạn đầu được biểu hiện dưới hình
thức công trường thủ công trong lĩnh vực công nghiệp. Công trường thủ
công có 2 loại: công trường thủ công phân tán và công trường thủ công
tập trung. - Các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
Sự phát triển nhanh chóng của công trường thủ công đòi hỏi phải có
nguồn nguyên liệu dồi dào. Để đáp ứng yêu cầu này, nền kinh tế tự cung
tự cấp trong từng lãnh địa phong kiến bị phá bỏ, và thay vào đó là nền
nông nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đang
dần dần hình thành, đó là: + Sự xuất hiện những trang trại của
phú nông (một bộ phận nông dân giàu có lên, họ mở rộng quy mô sản xuất
và thuê những người nông dân mất hết ruộng đất vào làm trong trang trại
của mình để bóc lột sức lao động làm thuê); + Phương thức canh
tác và bóc lột trong các nông trang địa chủ cũng có sự thay đổi (sử dụng
sức lao động làm thuê thay cho những người nông dân lĩnh canh)
+ Những trại ấp, đồn điền của những nhà tư bản xuất hiện (họ là những
nông dân hoặc cư dân thành thị giàu có, thuê ruộng đất của các lãnh chúa
phong kiến để lập trại ấp, đồn điền và thuê mướn công nhân nông nghiệp
làm việc để bóc lột giá trị thặng dư. Hình thức bóc lột này là hình thức
bóc lột tô tư bản. c. Tiến trình cách mạng tư sản và sự thiết lập nhà nước tư sản - Phong trào phục hưng, cải cách tôn giáo và sự hoàn thiện hệ tư tưởng dân chủ tư sản (thế kỷ 15, 16)
+ Phong trào phục hưng nêu cao khẩu hiệu đòi phục hồi những tư tưởng
dân chủ thời kỳ cổ đại Hy Lạp, La Mã vào việc xây dựng một hệ tư tưởng
mới mang tính chất dân chủ tư sản. Nội dung cơ bản của hệ tư tưởng phục
hưng: đả kích giáo hội và phê phán chế độ phong kiến; xây dựng nhân sinh
quan tư sản (không thừa nhận thượng đế là nơi phát nguyên vạn vật, đề
cao giá trị con người và khởi xướng tự do cá nhân). Trong thời kỳ này,
có các nhà khoa học xuất sắc như; Côpecnich, Brunô, Galilê… +
Sang thế kỷ 16, phong trào phục hưng chống phong kiến và thiên chúa giáo
được thể hiện rầm rộ ở khắp mọi nơi dưới hình thức cải cách tôn giáo.
Các nhà cải cách đòi hỏi xóa bỏ trật tự đẳng cấp phức tạp, lễ nghi tốn
kém, lối sống xa hoa và chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của nhà thờ.
Họ không thừa nhận quyền lực nhà thờ đứng trên quyền lực nhà nước, tuy
nhiên, lại kêu gọi ủng hộ giáo hội vì nó là công cụ tinh thần đểru ngủ
nhân dân. Nghĩa là cải cách tôn giáo để nó thích ứng với nhu cầu của
giai cấp tư sản. + Bên cạnh đó, giai cấp tư sản dần dần xây
dựng cho mình một hệ tư tưởng mới, tiến bộ, đó là hệ tư tưởng dân chủ tư
sản nhằm xây dựng chính quyền dân chủ, công bằng, bình đẳng, bảo đảm
quyền thuộc về nhân dân. (Giôn Lôccơ: Học thuyết về phân chia quyền lực;
Vônte: Những bức thư triết học; Môngtetxkiơ: Tinh thần pháp luật;
Rut-xô: Khế ước xã hội…). - Cách mạng tư sản thắng lợi và sự ra đời của nhà nước tư sản
Khi những tiền đề về kinh tế tư sản và tư tưởng dân chủ tư sản nêu trên
chín muồi thì giai cấp tư sản sẽ phát động quần chúng nhân dân làm cuộc
cách mạng chính trị giành lấy chính quyền từ tay giai cấp phong kiến.
Tuy nhiên, khi cách mạng vừa thắng lợi thì giai cấp tư sản hoặc liên kết
với giai cấp phong kiến hoặc tự đi ngược lại tiến trình cách mạng vì lo
sợ cách mạng thành công sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chúng. 2. Đặc điểm của nhà nước tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
- Nhà nước tư sản không can thiệp vào quá trình sản xuất và trao đổi tư
bản. Nó gần như đứng ngoài đời sống kinh tế, xã hội và chỉ can thiệp
khi có sự lung lay của chế độ tư hữu. Do đó, nền kinh tế trong giai đoạn
này đang tự điều chỉnh bởi quy luật cạnh tranh tự do và quy luật giá
trị, cho nên các cá nhân tư bản hầu như có đầy đủ quyền trong việc kinh
doanh và bóc lột người lao động. - Bộ máy nhà nước không lớn,
nhiều bộ phận của nó kế thừa từ trong bộ máy nhà nước phong kiến như
quân đội, cảnh sát, nhà tù. Vì mục tiêu của nhà nước không phải là thủ
tiêu sự bóc lột, mang lại quyền bình đẳng cho tất cả công dân mà là đưa
một nhóm bóc lột này thay thế cho một nhóm bóc lột khác nên nó không cần
triệt tiêu nhà nước cũ. - Trong thời kỳ này, hình thức nhà
nước phổ biến là Quân chủ Nghị viện do trong quá trình chống phong kiến,
giai cấp tư sản nhiều nước còn nhiều mối quan hệ quyền lợi với giai cấp
phong kiến. Chúng tìm cách thỏa hiệp với phong kiến để đi đến thiết lập
nhà nước quân chủ nghị viện. Chỉ một vài quốc gia khi thực hiện cách
mạng triệt để thì xây dựng nhà nước cộng hoà nghị viện (Pháp, Hoa Kỳ,
Thụy Sỹ). - Về hình thức nhà nước thì có thể khác nhau, nhưng
về bản chất của tất cả các nhà nước tư sản là giống nhau. Đó là nền
chuyên chính của giai cấp tư sản. Còn nhân dân lao động - những người đã
từng đứng dưới ngọn cờ cách mạng tư sản, là động lực của cách mạng tư
sản – lại trở thành nạn nhân, là đối tượng đàn áp, bóc lột của chế độ tư
bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản, về bản chất vẫn là một kiểu nhà nước
bóc lột. v CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN ANH -
Nước Anh phong kiến cát cứ được thống nhất vào thế kỷ 15 do dòng họ
Stuart nắm chính quyền. Trong chính sách cai trị, nhà vua không tôn
trọng Nghị viện, tăng thuế và đặt ra nhiều thứ thuế mới. Năm 1625, Saclơ
I kế vị và thực hiện chính sách bóc lột nhân dân như: phát hành công
trái bắt buộc, phạt vạ, bắt nộp thuế một cách nghiêm ngặt, ngoài ra,
nông dân còn phải nộp thuế 1/10 cho nhà thờ Anh giáo và chịu chế độ áp
bức bóc lột của lãnh chúa một cách hà khắc. Ông ta còn đàn áp một cách
tàn bạo những ai chống lại giáo hội và nhà nước. Toàn thể nhân dân Anh
đều mâu thuẫn và căm thù nhà nước phong kiến thối nát, tham lam và tàn
bạo. - Vào thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản Anh đã ra đời và phát
triển mạnh mẽ trong lòng chế độ phong kiến, nhất là ở miền nam nước Anh: + Nghề kéo sợi, dệt len, dạ phát triển. Công xưởng thủ công mọc lên rất nhiều.
+ Chủ nghĩa tư bản Anh phát triển ngay cả trong nông nghiệp, Quý tộc
Anh ở miền nam và đông nam kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, cướp
đoạt ruộng đất của nông dân để trồng cỏ nuôi cừu. Họ trở thành tầng lớp
quý tộc mới (quý tộc tư sản hóa) gia nhập vào hàng ngũ quý tộc Anh. Tầng
lớp này đặc biệt lớn mạnh vào thế kỷ 16. Việc sử dụng đồng cỏ chăn cừu
làm cho 40 vạn nông dân bị phá sản, không có ruộng đất, phải gia nhập
vào đội quân vô sản đông đảo. Thành phố Luân Đôn lúc này đã có
70 vạn dân, là thành phố lớn nhất thế giới và là trung tâm tài chính,
mậu dịch của cả Châu Au. Trước khi cách mạng tư sản bùng nổ, ngoại
thương Anh tăng gấp 5 lần so với trước. Giai cấp tư sản Anh
cũng đã chuẩn bị tư tưởng cho mình dưới lá cờ tôn giáo họ nêu cao “Thanh
giáo” (đạo Tin lành) chống lại Anh giáo (Thiên chúa giáo). Cuộc đấu
tranh tôn giáo này thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp. Tóm
lại vào những năm đầu thế kỷ 17, mâu thuẫn giữa một bên là tư sản, nông
dân, thị dân, thợ thủ công với một bên là giai cấp phong kiến chuyên
chế, phản động do Saclơ I cầm đầu đã rất gay gắt. Năm 1640, cách mạng tư sản Anh bùng nổ và phát triển qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: từ 1640 đến 1642, là giai đoạn chuẩn bị và bùng nổ cách
mạng. Năm 1639, người Scốtlen vũ trang khởi nghĩa, tràn vào miền bắc
nước Anh. Để có tiền đàn áp khởi nghĩa, năm 1640, Saclơ I triệu tập Nghị
viện họp đòi tăng thuế. Thành viên chủ yếu của Nghị viện là quý tộc mới
và tư sản đã chống lại đề nghị của nhà vua. Saclơ I dùng vũ lực để
chống lại Nghị viện. Nhân dân Luân Đôn xuống đường bảo vệ Nghị viện.
Thấy thủ đô không tuân theo lệnh mình, Sắclơ I chạy lên miền bắc tập
trung lực lượng tuyên chiến với Nghị viện. Cách mạng Anh đã bùng nổ dưới
hình thức một cuộc nội chiến giữa quân đội của nhà vua và quân đội của
Nghị viện. + Giai đoạn 2: · Nội chiến lần thứ 1 (1642 – 1646)
Tháng 8/1642, nhà vua tuyên chiến với Nghị viện. Quân Nghị viện dưới sự
chỉ huy của Ôlivơ Crômoen, một lãnh tụ thuộc tầng lớp quý tộc mới , với
22.000 ngàn quân lính được mệnh danh là quân sườn sắt đã đánh bại quân
của nhà vua ở Nêdơbi ngày 14/6/1645, bắt sống 5.000 tù binh của Sáclơ I.
Năm 1646, Saclơ I bị bắt trên đường chạy trốn. Quân đội Crômoen tiến
vào Luân Đôn nắm chính quyền. · Nội chiến lần thứ 2: (1648)
Cuối năm 1647, Saclơ I trốn thoát và chiêu mô quân đội, gây nội chiến
lần 2. tháng 8 năm 1648 Saclơ I bị thất bại và bị bắt giữ lần 2. Ngày
30/01/1649, trước áp lực của nhân dân, Nghị viện Anh đưa Saclơ I lên máy
chém về tội danh phản quốc và gây chiến tranh chống lại nhân dân.
Ngày 04/01/1649, Nghị viện thông qua nghị quyết, khẳng định quyền tối
cao của Hạ nghị viện trong bộ máy nhà nước (nhân dân do nhân dân bầu ra,
có quyền lực tối caotrong quốc gia; những gì Hạ viện tuyên bố là pháp
luật thì nó có hiệu lực, dù cho các Thượng nghị sĩ, nhà vua có phản bác)
Ngày 19/5/1649, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, nền cộng hoà
được tuyên bố chính thức thành lập. Hạ nghị viện nắm quyền lập pháp,
thượng nghị viện bị giải tán. Quyền hành pháp được giao cho nội các do
nghị viện bầu ra. Như vậy, ban đầu nhà nước tư sản Anh mang hình thức
chính thể Cộng hòa Nghị viện, hình thức này chỉ tồn tại được trong một
khoản thời gian ngắn và đây là thành công cao nhất của cuộc cách mạng tư
sản Anh. + Giai đoạn 3: (1649 – 1688) Sau khi cuộc
nội chiến kết thúc, quần chúng nhân dân tiếp tục đấu tranh đòi chính
quyền tư sản phải thực hiện lời hứa với quần chúng cách mạng. Lo sợ
trước phong trào của quần chúng, giai cấp tư sản một mặt đàn áp phong
trào quần chúng, một mặt sẳn sàng thủ tiêu nền cộng hoà để xây dựng một
chính quyền mới. Trong Chính quyền mới, CrômOen mang danh nhà
bảo hộ và trở thành kẻ độc tài; công dân phải có thu nhập từ 200 bảng
mới có đủ tư cách cử tri bầu hạ viện; chế độ hai viện được khôi phục.
Cuối cùng, năm 1688, giai cấp tư sản Anh đã lựa chọn hình thức Quân chủ
Nghị viện với việc lên ngôi của Guyôm Orănggiơ, thống đốc Hà Lan, con
rể vua Anh. Lấy niên hiệu là Vinhem III. Việc lựa chọn hình
thức Quân chủ Nghị viện chứng minh cuộc cách mạng Anh là cuộc cách mạng
không triệt để. Hình thức nhà nước này chỉ là sự bắt tay, liên minh với
phong kiến của tư bản. Cách mạng chỉ đưa giai cấp tư sản lên nắm chính
quyền, còn nó vẫn duy trì phong kiến cả ở cơ cấu chính trị, xã hội và
kinh tế. Giai cấp tư sản Anh dựa vào nhân dân để bước lên vũ đài chính
trị, khi đã đạt được mục đích, chúng quay lại phản bội nhân dân.(phân
tích và làm rõ hơn) - Cách mạng tư sản Anh đã đưa giai cấp tư
sản lên nắm chính quyền, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, sau
cuộc cách mạnh chính trị này, cuối thế kỷ 18, Anh đi tiên phong trên con
đường công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa với sự áp dụng khoa học kỹ thuật
vào các ngành kinh tế, kỹ thuật, quân sự. Anh trở thành cường quốc tư
bản số 1 và được mệnh danh là công xưởng thế giới, thay vị trí của Hà
Lan. Anh vươn lên làm bá chủ mặt biển, từ đó có điều kiện đi xâm lược
khắp thế giới, do đó, Anh còn là cường quốc số 1 về thuộc địa. Cách mạng
tư sản Anh không chỉ kết thúc chế độ phong kiến, mở ra một thời đại mới
cho nước Anh mà cón kết thúc thời kỳ trung đại, mở đầu lịch sử cận đại
trên toàn thế giới. v CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN MỸ
- Cristốp Côlômbô tìm ra Châu Mỹ năm 1492. Từ đó, bọn thực dân Châu Au
đặt chân tới cướp bóc vàng bạc, tàn sát người da đỏ, sau đó là xâm lược
và thiết lập nền thống trị ở châu lục này. + Từ Mêhicô trở xuống cực nam Châu Mỹ là thuộc địa của Tây Ban Nha. + Braxin, nước lớn nhất Nam Mỹ trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha. + Từ Mêhicô trở lên phía bắc là thuộc địa của người Anh.
- Theo chân của bọn thực dân, hàng chục triệu người dân Châu Au vì
nghèo đói, vì lý do tôn giáo, chính trị lần lượt di cư tới miền đất hứa
thành nhiều đợt qua nhiều thế thế kỷ. Người da đỏ, chủ nhân châu lục bị
giết hại và bị dồn vào vùng rừng sâu núi thẳm. - Công cuộc khai
thác vàng bạc ở các hầm mỏ, lao động khổ sai nặng nhọc ở các đồn điền
đòi hỏi những lao động khoẻ mạnh. Do đó, từ thế kỷ 16 đến 19, bọn thực
dân Châu Au đưa 60 triệu người da đen ở miền nam Châu Phi đến đây làm nô
lệ. - Năm 1752, người Anh đã thiết lập 13 bang thuộc địa với
chế độ phong kiến chuyên quyền kết hợp với bóc lột kiểu nô lệ để khai
thác. - Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia thuộc địa thành
2 loại, một số bang tự trị và một số bang chính quyền Anh đưa thống đốc
tới cai trị. Cả 13 bang đều phải áp dụng pháp luật của Anh. -
Về kinh tế, xã hội công thương nghiệp tư bản thuộc địa phát triển nhưng
bị chính phủ Anh tìm cách cản trở. Chính phủ Anh không cho phép kinh tế
tư bản ở bắc mỹ phát triển, mà muốn biến các thuộc địa thành thị trường
tiêu thụ hàng hóa của chính quốc, cung cấp nguyên vật liệu, thực phẩm
cho chính quốc. Cho dù nhà nước Anh cố tình kìm hãm, chế độ kinh tế tư
bản thuộc địa vẫn ra đời và phát triển ngày càng lớn mạnh. Phát triển
nhất là nghề đóng tàu, khai thác mỏ, luyện gang, nghề dệt vải, len, dạ….
Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế, giai cấp tư sản Mỹ ra đời và lớn mạnh,
bao gồm tư sản công thương nghiệp ở miền bắc và tầng lớp chủ đồn điền ở
miền nam. Giai cấp này ngày càng lớn mạnh về kinh tế, tư tưởng, chính
trị. - Trong nông nghiệp, tuy kinh tế tư bản phát triển nhưng trong các đồn điền còn phổ biến kiểu bóc lột nông nô và nô lệ.
- Như vậy, trong xã hội bắc mỹ xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn giai
cấp và mâu thuẫn giữa thuộc địa với chính quốc. Nhân dân các thuộc địa,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sảnđã nổidậy tiến hành cuộc chiến tranh
để dành độc lập. Đó cũng là cuộc cách mạng tư sản, vì nó không những
dành độc lập mà còn xoá bỏ những tàn tích phong kiến, dọn đường cho tư
bản bắc mỹ phát triển mạnh mẽ. Vào những năm của thập niên 70
thế kỷ 18, toàn Bắc Mỹ sôi sục bởi tem thuế phi lý của chính quyền.
Tháng 12 năm 1773, nhân dân thành phố cảng Boston đã ném 343 thùng chè
của Anh xuống biển. Chính phủ Anh lập tức ra lệnh phong tỏa Boston.
Giai cấp tư sản Bắc Mỹ ở các bang cử đại diện đến họp “Đại hội lục địa”
ở Philadenphia. Chính phủ Anh tuyên bố tình trạng thuộc địa nổi loạn và
cử 25.000 quân tới Bắc Mỹ. Năm 1775, chiến tranh giữa Anh và thuộc địa
bắt đầu. Ngày 04/7/1776, Đại hội lục địa lần thứ 2 công bố bản
tuyên ngôn độc lập do Tômát Zepphecxơn và một Ủy ban 4 người khởi thảo.
Tuyên ngôn khẳng định những quyền tự do tự do dân chủ tư sản, quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Tuyên ngôn tuyên bố nước Mỹ độc lập khỏi
nước Anh. Trong khi đại hội đang họp thì chiến tranh đã lan
rộng và rất ác liệt. Ban đầu do lực lượng chênh lệch, ưu thế thuộc về
phía Anh, quân cách mạng gặp nhiều khó khăn. Tổng chỉ huy quân đội cách
mạng Mỹ là Gioócgiơ Oasinhtơn đã áp dụng phương pháp tác chiến du kích
để tiêu hao lực lượng địch, tạo chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho
quân cách mạng. Ngày 17/10/1777, quân đội Oasinhtơn đã đánh thắng quân
đội Anh một trận lớn ở Saratôga. Sau trận Saratôra, các nước Châu Au thù
địch với Anh như Nga, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan đều bắt tay với
Oasinhtơn để gởi quân đội, tàu chiến sang tham gia chiến đấu bên cạnh
nhân dân Mỹ. Trong một cuộc tấn công tổng lực của cả hải quân,
pháo binh của quân đội Oasinhtơn ở Yooctao, 8.000 quân Anh bị hạm đội
Pháp chặn đường. Bị quân đội Oasinhtơn và quân Pháp bao vây, quân Anh
buộc phải đầu hàng vào ngày 19/10/1781. Thủ tướng Anh, Rôckinhham phải
đàm phán với quân Mỹ ở Vecxây. Ngày 03/9/1783, Chính phủ Anh phải ký
Hiệp ước thừa nhận nền độc lập của Mỹ. Năm 1787, Mỹ ban hành
bản Hiến Pháp, trong đó ghi nhận thành lập Nhà nước Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ theo thể chế Cộng hoà Tổng thống và tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước theo thuyết tam quyền phân lập. Về cơ cấu lãnh thổ, Hoa kỳ là nhà
nước liên bang. - Cuộc cách mạng tư sản Mỹ mang tính chất là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Lực lượng có vai trò quyết định mang đến thành công là quần chúng lao
động. Còn giai cấp tư sản Mỹ đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cuộc cách
mạng sản Mỹ đã lật đổ chế độ phong kiến thuộc địa Anh, đưa giai cấp tư
sản Mỹ lên nắm chính quyền, thiết lập được nhà nước tư sản. +
Cách mạng thắng lợi đã giải phóng dân tộc Mỹ khỏi ách áp bức bóc lột của
thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ với việc khẳng định những
quyền cơ bản, tất yếu của con người là những tư tưởng mới và cấp tiến
nhất của thời đại. Những tư tưởng của tuyên ngôn độc lập và bản thân
cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc ở Mỹ đã ảnh hưởng
sâu rộng đến trào lưu cách mạng ở Châu Au và Nam Mỹ, thúc đẩy, cổ vũ
các dân tộc đứng dậy lật đổ chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa, giành
độc lập, tự do, dân chủ. v CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP
Cuối thế kỷ 18, chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến pháp đã khủng
hoảng trầm trọng. Quàn chúng nhân dân nổi dậy khắp nơi. Năm 1789, nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng lên tiến hành
chiến tranh lật đổ chế độ phong kiến, lập nên chính quyền tư sản. Quá
trình đó có thể được chia thành 3 giai đoạn. - cách mạng bùng nổ và nền quân chủ lập hiến đại tư sản (14/7/1789 – 10/8/1792)
ngày 5/5/1789, hội nghị đại diện đẳng cấp khai mạc, dưới sự chủ toạ của
nhà vua. Do mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là là đẳng cấp thứ 3 (tư
sản, thị dân, nông dân) với một bên là nhà vua và 2 đẳng cấp còn lại
(quý tộc, tăng lữ), ngày 17/6, các đại biểu của đẳng cấp thứ 3 tự tuyên
bố thành lập hội đồng dân tộc. Ngày 9/7, hội đồng dân tộc tự tuyên bố là
quốc hội lập hiến. Ngày 14/7, cuộc khởi nghĩa vũ trang của
quần chúng cách mạng nổ ra ở Pari, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế
phong kiến. (ngày này trở thành ngày quốc khánh của pháp). Chính quyền
mới được thiết lập, đại diện cho tầng lớp đại tư sản và quý tộc tư sản
hoá. Ngày 26/8/1789, quốc hội lập hiến thông qua bản tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền gồm 17 điều, khẳng định những nguyên lý cơ bản
của xã hội tư bản. Tuyên ngôn xóa bỏ quyền lực của vua chúa cùng chế độ
đẳng cấp phong kiến, nêu ra quyền bình đẳng của con người và chủ quyền
của nhân dân Năm 1791, quốc hội lập hiến ban hành hiến pháp, xác định: chính thể quân chủ lập hiến tư sản. Trong đó, vua giữ quyền hành pháp, quyền lập pháp thuộc về quốc hội.
Chế độ bầu cử: hiến pháp chia công dân thành 2 loại, tuỳ theo tài sản
của họ. Công dân tích cực (nam giới, từ 25 tuổi trở lên, không làm thuê
cho ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân, đóng thuế trực thu ít nhất
bằng 3 ngày lương) có quyền bầu cử quốc hội. Công dân tiêu cực không có quyền bầu cử.
Quy định này đã vi phạm những nguyên tắc tự do, bình đẳng, bác ái được
ghi trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền. (có 4,28 triệu công dân
tích cực/26 triệu dân)như vậy, chính quyền tư sản đầu tiên được thiết
lập ở pháp là chính quyền của tầng lớp đại tư sản với chính thể quân chủ
lập hiến - sự thiết lập chính thể cộng hoà của tầng lớp tư sản địa phương (10/8/1792 – 02/6/1793)
tầng lớp đại tư sản ngày càng tỏ ra rằng họ không muốn giải quyết các
yêu cầu của quần chúng và dần dần trở thành lực lương phản động. Ngày
10/8/1792, quần chúng cách mạng lại khởi nghĩa vũ trang, lật đổ nền
thống trị của đại tư sản, đưa phái girôngđanh đại diện của tư sản địa
phương lên nắm chính quyền và lãnh đạo cách mạng. Trong giai
đoạn này, một sắc lệnh của lực lượng cách mạng được ban hành quy định
chế độ phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giời từ 21 tuổi trở lên; thành
lập hiệp hội dân tộc thay thế quốc hội cũ. Ngày 20/9/1792, sau
khi đánh bại liên quân Ao – phổ, hiệp hội dân tộc khai mạc, tuyên bố
bãi bỏ chính thể quân chủ lập hiến, xác lập chế độ cộng hoà nghị viện.
Sau khi nắm được chính quyền, phái girôngđanh không muốn cách mạng tiến
xa hơn nữa vì sợ rằng lực lượng quần chúng sẽ xâm hại đến quyền lợi và
địa vị của mình. Họ trở thành tầng lớp bảo thủ và phản động. - chính thể cộng hoà của tầng lớp tư sản lớp dưới (02/6/1793 – 27/7/1794) đây là giai đoạn phát triển cao nhất và cũng là giai đoạn kết thúc của cách mạng tư sản pháp.
Trước chính sách phản động của phái girôngđanh, quần chúng cách mạng
lại đứng lên hkởi nghĩa vũ trang. Ngày 02/6/1793, những người thuộc phái
girôngđanh trong hiệp hội dân tộc bị bắt. Chính quyền nhà nước chuyển
sang tay phái giacôbanh. Phái giacôbanh ban hành sắc lệnh bãi
bỏ chế độ ruộng đất phong kiên và quan hệ bóc lột phong kiến, chia ruộng
đất cho nông dân. Việc làm này đã phá hủy tận gốc chế độ phong kiến,
xác lập kinh tế tiểu nông, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Để tạo cơ sở pháp lý nhằm củng cố nền
cộng hoà tư sản, ngày 24/6/1793, hiệp hội dân tộc đã thông qua bản hiến
pháp mới, quy định: Hình thức chính thể: cộng hòa nghị viện Quốc hội một viện là cơ quan lập pháp Hội đồng hành pháp (chính phủ) do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội
Về sau, nội bộ của phái giacôbanh mâu thuẫn và chia rẽ trầm trọng.
Nhiều chính sách của họ đi ngược lại yêu cầu của quần chúng cách mạng.
Chính quyền giacôbanh ngày càng suy yếu. Ngày 277/1794, tầng lớp tư sản
phản động cướp được chính quyền nhà nước. Cuộc chính biến ngày
27/7/1794đã chuyển chính quyền từ phái tư sản cách mạng giacôbanh sang
phái tư sản phản cách mạng. Sau khi lên nắm quyền, họ ban hành bản hiến
pháp 1795. Nội dung hiến pháp 1795: hạn chế các quyền tự do, dân chủ, quy định chế độ bầu cử với điều kiện tài sản rất cao; toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào Ủy ban đốc chính (gồm 5 người), vì vậy, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ đốc chín;
quốc hội gồm 2 viện: hạ nghị viện: (hội đống 500 người) có quyền đưa ra
và thảo luận dự án luật nhưng không có quyền biểu quyết thông qua;
thượng nghị viện (hội đồng trưởng lão) nắm quyền biểu quyết thông qua
ho8ạc bác bỏ dự luật nhưng không có quyền dự thảo điều luật. Uy ban đốc chính do quốc hội bầu ra. Uy ban này nắm quyền cử hoặc cách chức bộ trưởng mà không cần đến quốc hội.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của nhân dân, giai cấp tư sản ủng
hộ viên tướng trẻ napôlêông bônapac thực hiện cuộc chính biến, xoá bỏ
chính quyền đốc chính và thiết lập chính quyền mạnh mẽ kiểu độc tài. Năm
1799 Napôlêông tự xưng là hoàng đế và ban hành bản hiến pháp mới.
Napôlêông tuyên bố là đại tổng tài suốt đời, lập nên nền đế chế thứ nhất
với hình thức chính thể quân chủ lập hiến. Bài 10: Pháp luật tư sản I. PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CẠNH TRANH TỰ DO 1. Phân loại hệ thống pháp luật tư sản
- Pháp luật tư sản đã xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến. Nhưng từ
khi giai cấp tư sản thiết lập được nhà nước thì pháp luật tư sản mới
mang tính hệ thống và trở thành một kiểu pháp luật mới. - Do
ảnh hưởng của hai cuộc cách mạng tư sản và sự xâm lược của Anh, Pháp nên
pháp luật của hai nước đó có ảnh hưởng tới pháp luật của nhiều nước tư
sản khác. Vì vậy, về cơ bản có thể phân chia pháp luật tư sản thành hai
hệ thống chủ yếu: + Hệ thống pháp luật lục địa: bao gồm pháp luật của Pháp, các nước lục địa Châu Au, một phần lục địa Châu Mỹ La Tinh. + Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ: bao gồm pháp luật Anh, Mỹ và các nước thuộc địa hoặc phụ thuộc Úc, Canađa. - Sự khác biệt của hai hệ thống pháp luật này: Hệ thống pháp luật lục địa Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ Nguồn Các bộ luật mới được xây dựng Tiền lệ pháp và bộ luật, nhưng các bộ luật này không được xây dựng mới mà tư sản hoá những bộ luật phong kiến Trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ tài sản Dựa trên những nguyên tắc của pháp luật La Mã Không theo các nguyên tắc của pháp luật La Mã Hệ thống pháp luật Chia pháp luật thành công pháp và tư pháp. Không phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp 2. Những ngành luật cơ bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do a. Luật Hiến pháp tư sản
- Cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13 khi giai cấp tư sản lớn mạnh và có thế
lực lớn trong kinh tế nên muốn vươn lên giành quyền thống trị vô hạn của
nhà vua – người đại diện của giai cấp phong kiến. Giai cấp tư sản đề
xướng một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hẳn các quýêt định của nhà
vua và văn bản khác, văn bản ấy được gọi là Hiến pháp. Như vậy, kể từ
cách mạng tư sản, khái niệm Hiến pháp với nghĩa là luật cơ bản của nhà
nước mới xuất hiện. Nó là một ngành luật mới, được xác lập từ chế độ tư
bản chủ nghĩa. - Hiến pháp tư bản có 3 nhóm chế định cơ bản quy
định về tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân: + Về chế định bầu cử, Hiến pháp xác định một loạt các biện pháp để hạn chế quyền bầu cử của nhân dân lao động, chẳng hạn:
· Điều kiện về tài sản: cử tri phải là người có số tài sản nhất định
(Tây Ba Nha, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Braxin căn cứ vào thu nhập cá nhân,
một số nước khác căn cứ vào mức độ đóng thuế cho nhà nước). Về phía
người ứng cử, họ phải là người có thế lực kinh tế mạnh vì pháp luật tư
sản quy định người ứng cử ký quỹ và gánh chịu mọi chi phí vận động bầu
cử . · Điều kiện về trình độ văn hoá: cử tri phải là người có trình độ văn hoá nhất định. · Điều kiện về tuổi: cử tri phải từ 21 tuổi trở lên. · Điều kiện về giới tính: phụ nữ không có quyền bầu cử. · Về chủng tộc: người da đen, người da đỏ không có quyền bầu cử. · Điều kiện cư trú: công dân muốn được bầu cử hay ứng cử phải sống cố định tại một nơi trong một khoảng thời gian nhất định. · Đặc biệt, một số nước tư sản còn quy định có những tầng lớp được quyền bỏ nhiều lá phiếu hơn những cử tri bình thường.
· Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, tuỳ theo từng nước mà có hình
thức chính thể khác nhau: quân chủ nghị viện, cộng hòa nghị viện, cộng
hoà tổng thống. Dủ ở chính thể nào thì hiến pháp cũng quy định tổ chức
của 4 loại cơ quan chủ yếu: nghị viện, chính phủ, toà án và người đứng
đầu nhà nước (vua, tổng thống). + Về chế định quyền và nghĩa vụ
của công dân, hầu hết các Hiến pháp tư sản đều ghi nhận quyền tư hữu là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trong thời gian đầu quyền công dân bị
hạn chế rất nhiều, nhưng do phong trào đấu tranh của nhân dân lao động,
dần dần nhà nước tư sản phải ghi nhận thêm một số quyền công dân vào
Hiến pháp. Tuy vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn phiến diện,
nghĩa vụ thường không đi đôi với quyền lợi. + Về chế định tổ
chức bộ máy nhà nước, chế định này nhằm củng cố và tăng cường quyền lực
của giai cấp tư sản, đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Mục đích của
việc ban hành Hiến pháp của giai cấp tư sản là nhằm hạn chế quyền lực
tuyệt đối của nhà vua, tách quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thành
các quyền độc lập và đối trọng lẫn nhau. Hiến pháp tư sản thường tập
trung quy định về nguyên tắc tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của bốn cơ
quan nhà nước trung ương: Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ và Toà án. b. Những chế định của dân luật tư sản - Nguyên tắc cơ bản của dân luật tư sản là quyền bình đẳng giữa các công dân trong quan hệ pháp luật dân sự.
- Nội dung chủ yếu của dân luật tư sản là bảo vệ quyền tư hữu tư sản,
điều chỉnh các văn bản hợp đồng hợp đồng hôn nhân, thừa kế,… + Chế định quyền tư hữu tư sản · Quyền tư hưũ được coi là quyền tự nhiên của con người, nó gồm có 3 quyền: quyền định đoạt, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng. · Luật dân sự chia vật sở hữu gồm 2 loại: động sản và bất động sản + Chế định hợp đồng và trái vụ tư sản · Dân luật tư sản xác định quyền bình đẳng và tự biểu lộ ý chí của các bên. · Các bộ dân luật tư sản điều ghi rõ những điều kiện bảo đảm hợp đồng: o Hợp đồng phải được nghiêm chỉnh trong bất kỳ hoàn cảnh nào. o Pháp luật chỉ cho phép huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp có sự đồng ý của các bên tham gia. · Các biện pháp để thực hiện hợp đồng cũng đựơc qui định như: cầm cố, đặt cọc, phạt tiền, bảo lãnh… · Trái vụ là một quan hệ pháp luật, trong đó một nguời hoặc một số người phải thực hiện một hành vi nào đó đối với chủ thể khác + Chế định pháp nhân và công ty cổ phần tư sản.
· Chế định này nhằm củng cố địa vị kinh doanh của nhà tư sản, đồng thời
không ngừng tập trung vốn, mở rộng kinh doanh để dẫn tới độc quyền.
· Ban đầu việc thành lập công ty cổ phần phải được Chính phủ cho phép,
về sau nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh thì việc thành lập công ty
chỉ cần đăng ký với Chính phủ. · Cơ quan quản lý cao nhất của
công ty là hội nghị các cổ đông. Trong hội nghị số đầu phiếu không tính
theo đầu người mà tính theo cổ phiếu. Do đó, quyền quản lý công ty thực
chất thuộc về các nhà tư bản lớn. + Chế định về hôn nhân gia đình. · Hôn nhân được xem là 1 loai hợp đồng. Việc kết hôn phải có đủ 2 điều kiện sau: o Người kết hôn phải có năng lực pháp lý o Hai bên tự nguyện kết hôn với nhau.
· Về hình thức kết hôn, có nước quy định hình thức kết hôn dân sự (do
chính quyền chứng nhận), có nước theo hình thức tôn giáo, có nước coi 2
hình thức trên điều có giá trị pháp lý. · Chế định này củng cố
quan hệ không bình đẳng trong gia đình. Người vợ bị hạn chế năng lực
pháp lý, đồng thời xác định người chồng là người đứng đầu trong gia
đình, bảo hộ người vợ, do đó người vợ phải phục tùng + Chế định thừa kế. · Theo luật dân sự tư sản thừa kế có 2 hình thức:
o Thừa kế theo di chúc: xác định nguyên tắc tự do di chúc. Tuy nhiên,
để bảo đảm quyền lợi cho những người trong gia đình, một số nước hạn chế
sự độc đoán của người lập di chúc. o Thừa kế theo pháp luật
xảy ra khi người chết không để lại di chúc hoặc di chúc được xem là vô
hiệu hoặc không giải quyết hết tất cả tài sản. · Ở các nước
thuộc hệ thống pháp luật thuộc địa, tài sản thừa kế được chuyển thẳng
cho những người thừa kế. Còn ở hệ thống pháp luật Anh -Mỹ, tài sản được
chuyển cho người trung gian (được chỉ định trong di chúc hoặc do toà án
chỉ định). Sau khi người trung gian thực hiện những thủ tục luật định
thì tài sản được chuyển hết cho người thừa kế. c. Những chế định của luật hình tư sản
- So với pháp luật phong kiến, luật hình tư sản có những tiến bộ lớn:
chống lại sự độc đoán xét xử của vua chúa; mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật; không quy định về tội chống tôn giáo…. - Nhưng
về bản chất, luật hình tư sản là cơ sở pháp lý để đàn áp nhân dân lao
động và các thế lực chống đối khác. Án tử hình được áp dụng với nhiều
tội danh không đáng để áp dụng với các biện pháp dã man (cho xe cán,
chặt tứ chi và đầu, mổ bụng, moi lục phủ ngũ tạng…). Ngoài ra, nó còn
bảo lưu nhiều hình phạt nhục hình như đóng dấu, chặt tay… Về sau, các
hình phạt man rợ này bị bãi bỏ và giảm nhẹ hình phạt cho những tội không
nghiêm trọng. - Về hình phạt tù, các nước thường có 3 hình thức: biệt giam, khổ sai và đưa đi đày ở các thuộc địa. - Từ thế kỷ 19, hình thức án treo bắt đầu được áp dụng ở một số nước. d. Tổ chức tư pháp và tố tụng tư sản
- So với pháp luật phong kiến, tiến bộ lớn của pháp luật tư pháp là
quyền tư pháp được tách ra khỏi quyền hành pháp. Cơ quan hành pháp không
được quyền xét xử, quyền này được trao cho một cơ quan chuyên trách là
toà án. - Tố tụng được tách thành tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. - Trong luật tố tụng tư sản, những nguyên tắc cơ bản dần dần được hình thành: · Nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà: người buộc tội là Viện công tố, người gỡ tội là bị cáo và luật sư bào chữa.
· Nguyên tắc suy đoán vô tội: khi chưa có đủ chứng cứ buộc tội, thì bị
can vẫn được xem là người vô tội. Từ nguyên tắc suy đoán vô tội, bị can
có quyền được bào chữa, còn trách nhiệm buộc tội thuộc về Ủy viên công
tố. · Bản án được quyết định bởi đa số Hội đồng xét xử · Không ai có quyền kháng cáo đối với việc trắng án. · Nguyên tắc không thay đổi thẩm phán. 3. Nhận xét - Pháp luật tư sản ra đời là một tiến bộ lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp luật: + Lần đầu tiên Hiến pháp và một loạt nguyên tắc mới của pháp luật xuất hiện.
+ Kỹ thuật lập pháp với việc phân chia pháp luật thành các ngành luật,
các chế định, với việc nêu ra các chế định pháp lý, với việc pháp điển
hoá,… đã có sự tiến bộ nhảy vọt. Có thể nói, về phương diện hình thức
pháp lý và kỹ thuật lập pháp, sự ra đời của pháp luật tư sản là một cuộc
cách mạng trong luật pháp. + Trong những thế kỷ 17 đến 19,
pháp luật tư sản đã đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. - Những thế kỷ 17 - 19
cũng là thời kỳ từng bước hình thành và phát triển nền dân chủ tư sản và
nó được thể chế hoá bằng pháp luật. Pháp luật thành một phương tiện
quan trọng nhất của nhà nước tư sản để quản lý xã hội. - Hệ
thống pháp luật tư sản tuy đã ra đời nhưng chưa đầy đủ và hoàn thiện.
Thời kỳ này, khối lượng các văn bản pháp luật chưa nhiều. Và cũng khác
với thời kỳ tư bản chủ nghĩa độc quyền, pháp luật tư sản ở thời kỳ này
bảo vệ tự do cạnh tranh trong sản xuất và trao đổi tư bản của các nhà tư
sản. - Tuy nhiên, trong giai đoạn nào thì nhà nước và pháp luật tư sản đều thể hiện đầy đủ bản chất giai cấp của nó.
0 comments:
Post a Comment