NGUYỄN HỒNG HẢI – Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế, Bộ Tư pháp
Cấu trúc Bộ luật dân sự
là cách thức tổ chức, phân chia, sắp xếp và bố trí các phần, các
chương, mục theo một hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của Bộ luật
dân sự. Nhìn vào cấu trúc của một bộ luật, người ta có thể thấy sự mạch
lạc, quan điểm nhất quán có tính chiến lược và ý đồ của nhà làm luật
khi điều chỉnh các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật. Đồng
thời, qua đó cũng thấy được tính hợp lý, logic, hệ thống của các nội
dung được quy định.
Xét về bản chất, cấu trúc của Bộ luật dân sự không
làm thay đổi nhiệm vụ của nó[1]. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mục đích triển
khai mục tiêu, nội dung của Bộ luật dân sự, nhà làm luật các nước kết
cấu Bộ luật dân sự theo những cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, có hai
phương thức cơ bản là Institutiones và Pandekten[2].
1. Institutiones (Institutional system), kết cấu Bộ
luật dân sự thành các phần, chương theo chức năng của luật: chủ thể =
người (luật về người – personae), khách thể = vật (luật về vật – res),
hành vi = chuyển dịch tài sản (actiones). Phương thức này được sử dụng
để kết cấu Bộ luật dân sự của Pháp, Áo, Ai Cập… và các Bộ Dân luật Bắc
Kỳ (năm 1931), Bộ Dân luật Trung Kỳ – Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật (năm
1936) và Bộ Dân luật năm 1972 của chế độ miền Nam Việt Nam ;
2. Pandekten (Pandectist System), kết cấu Bộ luật dân
sự thành các phần, chương theo hướng khái quát lý luận. Theo đó, Bộ
luật dân sự được kết cấu theo các phần: (1) qui định chung, (2) vật
quyền, (3) phần nghĩa vụ, (4) phần gia đình, (5) phần thừa kế. Phương
thức này được sử dụng để kết cấu Bộ luật dân sự Đức, Thụy Sỹ, Bồ Đào
Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan…, kết cấu Bộ luật dân sự năm 1995 và
2005 của Việt Nam ở một khía cạnh nào đó cũng chịu ảnh hưởng theo phương
thức này.
1. Cấu trúc của Bộ luật dân sự năm 2005
Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam được kết cấu
thành 7 phần: (1) Những quy định chung (Điều 1 – Điều 162), (2) Tài sản
và quyền sở hữu (Điều 163 – Điều 279), (3) Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
dân sự (Điều 280 – Điều 630), (4) Thừa kế (Điều 631 – Điều 687), (5) Quy
định về chuyển quyền sử dụng đất (Điều 688 – Điều 735), (6) Quyền sở
hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Điều 736 – Điều 757), (7) Quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 758 – Điều 777).
Nhìn vào cấu trúc trên, có thể thấy về hình thức,
Bộ luật dân sự năm 2005 chịu ảnh hưởng của phương thức Pandekten khi
kết cấu Bộ luật theo hướng chia phần, chương có tính khái quát lý luận.
Tuy nhiên, nếu đi vào cách thức tổ chức, phân chia, sắp xếp và bố trí
các phần, các chương, mục và nội dung của từng phần, chương, mục thì cho
thấy, thật khó có thể xác định Bộ luật dân sự năm 2005 được cấu trúc
theo phương thức Institutiones hay phương thức Pandekten. Cấu trúc hiện
hành đã tạo ra nhiều nội dung trùng lắp, có nội dung được đưa vào những
vị trí không rõ mục đích và không đúng bản chất. Kết quả là ý đồ, mục
đích, quan điểm chiến lược của nhà làm luật không được thể hiện rõ, các
quy định trong luật không mang tính hợp lý, hệ thống, logic rất khó áp
dụng trong thực tiễn pháp lý.
- Phần Tài sản và quyền sở hữu chưa nêu bật và đầy đủ
về bản chất, phạm vi của quyền đối với vật (vật quyền). Nhà làm luật
mới chỉ tập trung quy định về căn cứ xác lập, chấm dứt của quyền sở hữu,
các quyền năng của chủ sở hữu, các hình thức sở hữu… còn các quy định
về quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản (vật quyền
khác) rất mờ nhạt và cũng chưa có sự tách biệt giữa chiếm hữu là tình
trạng pháp lý và chiếm hữu là một quyền của chủ sở hữu và người không
phải là chủ sở hữu;
- Phần Nghĩa vụ và hợp đồng có nhiều quy định mang
nội dung của vật quyền (quyền của bên nhận cầm cố, nhận thế chấp, quyền
của bên thuê tài sản…);
- Phần Quy định về chuyển quyền sử dụng đất trùng lắp
về nội dung và bản chất pháp lý đối với các quy định trong các phần còn
lại của Bộ luật dân sự (tài sản, vật quyền, trái quyền, thừa kế);
- Phần Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
chứa đựng các nội dung trùng lắp với các quy định về tài sản, về trái
quyền và cũng có nhiều nội dung không mang đặc trưng của quan hệ tư,
luật tư cần được điều chỉnh trong pháp luật chuyên ngành.
2. Một số định hướng trong kết cấu lại Bộ luật dân sự năm 2005
2.1. Các nguyên tắc trong kết cấu lại Bộ luật dân sự
- Thứ nhất, phải dựa trên mục tiêu, quan điểm, phạm vi và nội dung sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005;
- Thứ hai, phải dựa trên một nguyên lý thống
nhất có tính hệ thống và khoa học, đã được khẳng định trong thực tiễn
xây dựng pháp luật dân sự trên thế giới;
- Thứ ba, đảm bảo tính khái quát cao về mặt lý luận trong tổng thể kết cấu Bộ luật dân sự và trong kết cấu của từng phần, chương, mục;
- Thứ tư, đảm bảo tính hiệu quả, sự thuận lợi về tra cứu, vận dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật;
- Thứ năm, kế thừa các thành tựu trong kết cấu
của Bộ luật dân sự hiện hành và các Bộ luật dân sự trong lịch sử cận và
hiện đại của Việt Nam. Đồng thời, học tập kinh nghiệm về kết cấu Bộ
luật dân sự của các nước trên thế giới.
2.2. Định hướng về kết cấu của Bộ luật dân sự sửa đổi
Chúng tôi cho rằng việc tái cấu trúc lại Bộ luật dân
sự năm 2005 là cần thiết và Việt Nam hoàn toàn có thể lựa chọn một trong
hai phương thức Institutiones và Pandekten cho việc xây dựng cấu trúc
Bộ luật dân sự sửa đổi. Song, gắn với điều kiện của Việt Nam, việc áp
dụng phương thức Pandekten có phần phù hợp hơn và cũng đảm bảo được các
nguyên tắc được định hướng trong kết cấu Bộ luật dân sự, vì các lý do
sau:
Một là, mục tiêu cơ bản của việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật dân sự là để bảo đảm các yếu tố cơ bản của thể chế pháp lý
cho nền kinh tế thị trường: (1) Hệ thống pháp luật về tài sản, sở hữu,
quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu, giao dịch được xây dựng trên
cơ sở tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể luật
tư, Nhà nước không áp đặt quyền lực để can thiệp vào quan hệ giữa các
chủ thể, họ có quyền tự quyết; (2) Chủ thể luật tư được tự
do thể hiện ý chí trong giao dịch và phải chịu trách nhiệm pháp lý về
hành vi tham gia giao dịch (không phụ thuộc chủ thể là nhà nước, tổ
chức, cá nhân); (3) Các cơ chế, phương pháp, thủ tục bảo đảm thực thi
quyền của chủ thể luật tư phải dựa trên nguyên tắc tính tuyệt đối của
quyền sở hữu, tự do về tư cách chủ thể, tự do thỏa thuận và lý lẽ công
bằng; (4) Sự hiện diện và thể hiện vai trò của Nhà nước trong đời sống
xã hội dân sự, trong thị trường, mức độ tự do hóa mà Nhà nước cho phép
và hiệu quả hoạt động của thị trường; cam kết tôn trọng và bảo đảm của
Nhà nước về sở hữu và quyền tự do giao dịch… Với mục tiêu cơ bản như
vậy, việc sửa đổi nội dung Bộ luật dân sự năm 2005 theo hướng vật quyền,
trái quyền là cần thiết và đây cũng là nguyên lý của phương thức
Pandekten[3];
Hai là, một trong các nguyên tắc cơ bản trong
sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự là đặt Bộ luật dân sự ở vai trò là luật
gốc, luật cơ bản của hệ thống luật tư, có tính trừu tượng hóa cao, khái
quát hóa cao, điều chỉnh các quan hệ xã hội ổn định, không quy định các
vấn đề phụ thuộc nhiều vào các quyết định chính trị để đảm bảo tính ổn
định của Bộ luật dân sự. Phương thức Pandekten đáp ứng tốt nguyên tắc
này;
Ba là, kết cấu của Bộ luật dân sự năm 2005
chịu ảnh hưởng của kết cấu theo phương thức Pandekten, việc áp dụng
phương thức này cho Bộ luật dân sự sửa đổi đảm bảo không có sự xáo trộn
lớn và có tính kế thừa.
Trong thực tiễn thực hiện các hoạt động chuẩn bị sửa
đổi cơ bản Bộ luật dân sự năm 2005, đã có ba quan điểm khác nhau về cấu
trúc Bộ luật dân sự sửa đổi. [4] Các quan điểm có sự khác nhau về kết
cấu phần của Bộ luật dân sự, nhưng đều dựa trên hoặc chịu ảnh hưởng bởi
nguyên lý của phương thức Pandekten.
Căn cứ vào những vướng mắc nội tại về kết cấu của Bộ
luật dân sự năm 2005, những nguyên tắc trong kết cấu lại Bộ luật dân sự,
chúng tôi cho rằng việc Bộ luật dân sự sửa đổi cần được kết cấu thành 5
phần (qui định chung, vật quyền, trái quyền, thừa kế và quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài).
Về tổng thể, kết cấu theo phương án này dựa trên
nguyên lý về cấu trúc Bộ luật dân sự theo phương thức Pandekten. Tuy
nhiên, cũng có hai điểm khác biệt: (1) phần gia đình không được kết cấu
trong Bộ luật dân sự sửa đổi (Bộ luật dân sự năm 2005 hiện hành cũng
không kết cầu phần này)[5]; (2) phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
được kết cấu vào trong Bộ luật dân sự sửa đổi (theo kết cầu của Bộ luật
dân sự năm 2005)[6]. Đây là hai phần lớn còn có nhiều ý kiến khác nhau
việc kết cấu vào trong Bộ luật dân sự, cần phải có sự trao đổi về mặt
khoa học, cũng như sự nghiên cứu cơ bản từ phía các cơ quan xây dựng
pháp luật.
- Phần Quy định chung được sửa đổi, bổ sung để trở
điều khoản chung cho toàn bộ hệ thống quy phạm thuộc lĩnh vực luật tư và
các phần vật quyền, trái quyền, thừa kế, quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Các quy định có tính chất điều khoản chung được rà soát hoặc bổ
sung vào phần quy định chung của Bộ luật dân sự. Dự kiến kết cấu theo
chương phần Quy định chung:
Chương 1. Hiệu lực của Bộ luật dân sự
Chương 2. Những nguyên tắc cơ bản
Chương 3. Cá nhân
Chương 4. Pháp nhân
Chương 5. Tài sản[7]
Chương 6. Giao dịch
Chương 7. Đại diện
Chương 8. Thời hạn và thời hiệu
- Phần Chiếm hữu và các vật quyền được kết cấu dựa
trên phần Tài sản và sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005. Đồng thời, bổ
sung chế định chiếm hữu (với tư cách là tình trạng pháp lý không phải
là quyền chiếm hữu), các quyền của người không phải là chủ sở hữu và
tiếp nhận (có sửa đổi, bổ sung) các quy định có nội dung vật quyền
(quyền bề mặt, tài sản bảo đảm…) ở các phần Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
dân sự, phần Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất của Bộ luật dân
sự năm 2005. Dự kiến kết cấu theo chương của phần Vật quyền[8]:
Chương 9. Qui định chung
Chương 10. Quyền sở hữu
Chương 11. Chiếm hữu[9]
Chương 12. Quyền hưởng dụng
Chương 13. Quyền bề mặt
Chương 14. Vật quyền bảo đảm
Chương 15. Quyền ưu tiên
Chương 16. Địa dịch
Chương 17. Bảo vệ vật quyền
- Phần Trái quyền được kết cấu dựa trên phần Nghĩa
vụ dân sự và hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự. Đồng thời tiếp nhận
(có sửa đổi, bổ sung) các quy định về chuyển quyền sử dụng đất ở phần
Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất của Bộ luật dân sự năm 2005.
Dự kiến kết cấu theo chương của phần Trái quyền:
Chương 18. Qui định chung
Chương 19. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Chương 20. Hợp đồng
Chương 21. Hứa thưởng và thi có giải
Chương 22. Thực hiện công việc không có ủy quyền
Chương 23. Nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản. được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật[10]
Chương 24. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Phần Thừa kế được kết cấu dựa trên phần Thừa kế
trong Bộ luật dân sự năm 2005, tiếp nhận (có sửa đổi, bổ sung) các quy
định về thừa kế quyền sử dụng đất ở phần Những quy định về chuyển quyền
sử dụng đất của Bộ luật dân sự năm 2005. Dự kiến kết cấu theo chương
phần thừa kế:
Chương 25. Quy định chung
Chương 26. Thừa kế theo di chúc
Chương 27. Thừa kế theo pháp luật
Chương 28. Thanh toán và phân chia di sản
- Phần Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được kết
cấu dựa trên phần Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Bộ luật dân sự
năm 2005 (không kết cấu thành chương, mục).
Phụ lục:DỰ KIẾN CẤU TRÚC BỘ LUẬT DÂN SỰ SỬA ĐỔIPhần thứ nhất: Qui định chungChương 1. Hiệu lực của Bộ luật dân sựChương 2. Những nguyên tắc cơ bảnChương 3. Cá nhânChương 4. Pháp nhânChương 5. Tài sảnChương 6. Giao dịchChương 7. Đại diệnChương 8. Thời hạn và thời hiệuPhần thứ hai: Chiếm hữu và các vật quyềnChương 9. Qui định chungChương 10. Quyền sở hữuChương 11. Chiếm hữuChương 12. Quyền hưởng dụngChương 13. Quyền bề mặtChương 14. Vật quyền bảo đảmChương 15. Quyền ưu tiênChương 16. Địa dịchChương 17. Bảo vệ vật quyềnPhần thứ ba: Trái quyềnChương 18. Qui định chungChương 19. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụChương 20. Hợp đồngChương 21. Hứa thưởng và thi có giảiChương 22. Thực hiện công việc không có ủy quyềnChương 23. Nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản. được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luậtChương 24. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngPhần thứ tư: Thừa kếChương 25.Quy định chungChương 26. Thừa kế theo di chúcChương 27. Thừa kế theo pháp luậtChương 28. Thanh toán và phân chia di sảnPhần thứ năm: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Chú thích:
[1] Các Bộ luật dân sự trên thế giới có một nhiệm vụ
chung là đạo luật gốc của hệ thống luật tư, công nhận địa vị pháp lý của
chủ thể luật tư, quyền đối với tài sản và điều chỉnh các quan hệ được
xác lập, thực hiện, chấm dứt theo nguyên tắc bình đẳng, tự do ý chí giữa
các chủ thể.
[2] Có thể xác định hai học thuyết pháp lý phổ biến nhất hiện nay ở các nước theo hệ thống pháp luật thành văn.
[3] Việc không lựa chọn phương thức institutiones để
thực hiện mục tiêu hoàn thiện thể chế pháp lý cho nền kinh tế thị
trường, không có nghĩa nếu áp dụng phương thức đó là không thể thực hiện
được mục tiêu, nhưng xét về tính hợp lý, tính logic, hệ thống thì áp
dụng phương thức Pandekten hiệu quả hơn.
[4] Hiện có 3 quan điểm (chúng tôi được biết đến thời
điểm này): (1) giữ nguyên cấu trúc Bộ luật dân sự năm 2005 hiện hành
gồm 7 phần (qui định chung, tài sản và quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự và
hợp đồng dân sự, thừa kế, qui định về chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài); (2) cấu trúc thành 5 phần (qui định chung, vật quyền, trái
quyền, thừa kế và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài); (3) cấu trúc
thành 6 phần (qui định chung, vật quyền, trái quyền, thừa kế, quyền sở
hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài).
[5] Quan hệ gia đình được xác định một trong những
nội dung cơ bản nhất của Bộ luật dân sự ở những nước theo cả trường phái
Pandekten và Institutiones. Trong thực tiễn thực hiện các hoạt động
chuẩn bị sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự, nhiều chuyên gia Nhật Bản,
Đức, Pháp cũng cho rằng Việt Nam cần xem xét về việc kết cấu phần gia
đình vào Bộ luật dân sự sửa đổi. Lý do phía Việt Nam đưa ra là Việt Nam
đã có luật chuyên ngành riêng về hôn nhân và gia đình (vốn được ban hành
từ năm 1959, 1986 và 2000).
[6] Trong Bộ luật dân sự của Pháp, Đức, Nhật … không
có kết cấu quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên cũng có nước
lại kết cấu nội dung này là một phần của Bộ luật dân sự, ví dụ, Bộ luật
dân sự của bang Louisiana (Hoa Kỳ) được kết cấu theo kết cấu của Bộ luật
dân sự Pháp nhưng được bổ sung thêm phần xung đột pháp luật. Hiện ở
Việt Nam cũng có hai quan điểm: (1) tiếp tục kết cấu quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài là một phần của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài;
(2) quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cần được quy định bằng một luật
về tư pháp quốc tế riêng, không nên kết cấu vào trong Bộ luật dân sự.
[7] Cũng có những quan điểm khác nhau về nội dung
này: (1) tài sản gắn liền với vật quyền, do đó cần được quy định trong
phần vật quyền; (2) sử dụng thuật ngữ “vật” thay cho thuật ngữ “tài
sản”. Chúng tôi cho rằng, tài sản trong Bộ luật dân sự được tiếp cận với
tư cách là khách thể các vật quyền, nhưng cũng là đối tượng của hầu hết
các quan hệ trong giao lưu dân sự, nên cần được quy định ở phần Quy
định chung (Bộ luật dân sự Nhật Bản cũng kết cấu tài sản là một nội dung
trong phần quy định chung). Về thuật ngữ sử dụng thuật ngữ “tài sản”
hay “vật” hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, việc sử dụng
thuật ngữ “vật” mang nghĩa cổ điển phù hợp với tính chất hữu hình, trong
khi thực tiễn giao lưu dân sự và thực tiễn pháp lý cũng đã có yêu cầu
đòi hỏi chế độ pháp lý đối với những tài sản vô hình, trong hoàn cảnh đó
việc sử dụng thuật ngữ “tài sản” phù hợp với thực tế hiện tại hơn.
[8] Đọc thêm: Hoàng Thị Thúy Hằng, “Dự kiến một số
vấn đề cơ bản cần sửa đổi, bổ sung trong phần Tài sản và quyền sở hữu
của Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi”. Chuyên đề cho Tọa đàm về sửa đổi Bộ
luật dân sự ngày 12 – 13/05/2011, Nhà Pháp luật Việt – Pháp. Hà Nội.
[9] Việc kết cấu chiếm hữu như là một tình trạng pháp
lý, cũng đặt ra vấn đề về việc có nên tiếp tục quy định quyền chiếm hữu
như là một trong các quyền năng của chủ sở hữu hay không?
[10] Cũng có ý kiến cho rằng cần quy định nội dung này sang phần Chiếm hữu và các vật quyền.
SOURCE: CHUYÊN ĐỀ TỌA ĐÀM VỀ SỬA ĐỔI BỘ LUẬT DÂN SỰ, DO NHÀ
PHÁP LUẬT VIỆT PHÁP VÀ VỤ PHÁP LUẬT DÂN SỰ – KINH TẾ, BỘ TƯ PHÁP PHỐI
HỢP TỔ CHỨC, 12 – 13/05/2011, HÀ NỘI.
0 comments:
Post a Comment