3.2.1 Làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay?
Cần có một cơ quan giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước, thường xuyên tiến hành, tổ chức các hoạt động giám sát, kiểm tra đánh giá đúng thực trạng tình hình hoạt động của mỗi tập đoàn, trên cơ sở đó công khai, minh bạch tình hình tài chính cũng như họat động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Nhà nước cần thiết lập một hệ thống thông tin, thông suốt và thiết lập một hệ thống thông tin minh bạch về hoạt động của các Tổng Công ty, các tập đoàn Kinh tế Nhà nước hàng quý, hàng năm các đơn vị phải có báo cáo trung thực đầy đủ mọi hoạt động của mình từ sản xuất, kinh doanh về đơn vị cấp trên hoặc các cơ quan giám sát của Nhà nước.
Các đơn vị thuộc tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước hiện nay cần phải rà soát lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để kiên quyết giảm bỏ những khâu trung gian, những lĩnh vực đầu tư ít hiệu quả. Cùng với việc tổ chức lại sản xuất một cách hợp lý thì một biện pháp quan trọng là gom vốn, dồn vốn để đầu tư vào các phương tiện, thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Các công ty cần xác định lại mục tiêu chiến lược của mình là gì, mặt hàng, sản phẩm chiến lược gì là chính.
Nhà nước cần kịp thời chấn chỉnh việc mở rộng đa ngành của các tập đoàn, Tổng Công ty mở rộng đa ngành, nhưng ít, hoặc không liên quan đến ngành sản xuất chính của đơn vị. Thời gian tới cần định hướng để các tập đoàn đầu tư vào những ngành nghề liên quan đến ngành nghề chính của mình, tận dụng được thế mạnh của mình. Ví dụ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư vào viễn thông là có hiệu quả vì tận dụng được hệ thống cáp, hay Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV) đầu tư vào điện cũng có lợi vì dùng than làm nguyên liệu cho nhà máy nhiệt điện… Đối với các tập đoàn, các tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước phải xác định được giá trị đích thực của họ đóng góp đối với nền kinh tế và đối với xã hội.
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho DN Nhà nước hoạt động, đồng thời tạo sự cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác, tiếp tục đổi mới công tác quản lý, Nhà nước đối với DN, Nhà nước và đổi mới hoạt động của bản thân DN Nhà nước.
Phải cải cách cả thể chế, bộ máy Nhà nước. Nhà nước không nên trực tiếp tham gia vào kinh doanh mà tập trung làm tốt giáo dục, y tế, tổ chức kết cấu hạ tầng,… Còn tất cả việc kinh doanh phải để nền kinh tế làm. Không thể nào một ông vừa làm thứ trưởng, vừa làm chủ tịch HĐQT như hiện nay.
Đi liền với các việc làm trên, một vấn đề có ý nghĩa quyết định là việc tiếp tục đổi mới nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong các DN, các Tổng Công ty và các tập đoàn Kinh tế Nhà nước. Trong công tác xây dựng Đảng, một nhân tố mang ý nghĩa quyết định là việc sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ. Cần chăm lo việc xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi ở các tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước, có cơ chế đãi ngộ, thu hút những người quản lý giỏi tham gia điều hành DN; mở rộng hình thức hợp đồng thuê cán bộ quản lý giỏi đã nghỉ hưu, nghiên cứu chế độ kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với một số cán bộ quản lý giỏi ở một số lĩnh vực quan trọng.
3.2.2 Làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế?
Để phát huy tính cạnh tranh trên cơ sở phát huy tối đa mọi nguồn lực của người dân để kinh tế dân doanh phải được phát triển. Tất cả thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng chứ không cần phải nhấn mạnh “ông” nào chủ đạo. Vì vậy, cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” cần được xóa bỏ hoặc thay bằng cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò hướng đạo” (hoặc “hướng dẫn” hay “dọn đường”, hoặc một từ ngữ nào đó phù hợp hơn với những ý tưởng trình bày dưới đây. Đây không phải là thay đổi từ ngữ, mà là thay đổi cơ bản tinh thần luận điểm.Trước đây thường nói là “chủ đạo”, nhưng cũng chưa có định nghĩa rành mạch. Cả một thời kỳ dài nó được hiểu đồng nghĩa với nắm các vị trí then chốt (dẫn tới thâu tóm dành độc quyền), phải đi đầu về mọi mặt (dẫn tới đòi ưu tiên, đòi điều kiện thuận lợi).“Chủ đạo” được hiểu nặng về đòi hỏi đối với Nhà nước và xã hội. Còn “hướng đạo” cần hiểu ngược lại, nặng về nghĩa vụ mà kinh tế nhà nước phải đảm nhiệm với Nhà nước và xã hội.
Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, không nên lập thêm các tổng công ty Nhà nước hay xí nghiệp quốc doanh không thuộc các ngành trọng tâm, trọng điểm, lập thêm như vậy là đi ngược lại với xu hướng đổi mới đã và đang diễn ra, xét cả về lý luận, chính sách và thực tiễn. Vì thế, thay vì lập thêm các tập đoàn Nhà nước, cần tạo hành lang pháp lý cho việc thành lập và phát triển các tập đoàn tư nhân, xây dựng các tập đoàn tư nhân trở thành những trụ cột của nền kinh tế. => Đây là một khả năng hoàn toàn hiện thực trong nền kinh tế thị trường nơi tư nhân là một động lực chính.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tập đoàn kinh tế, không phân biệt thành phần kinh tế thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân, vừa tạo điều kiện để Nhà nước chuyển bớt một phần các nguồn lực đầu tư sang các lĩnh vực hiệu quả hơn xét cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, giảm bớt những thất thoát, lãng phí như đã xảy ra, vừa tăng cường huy động sự tham gia đóng góp của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, các nguồn vốn xã hội vào tiến trình phát triển và đào luyện được những doanh nhân đích thực cho đất nước. Đã đến lúc cần thống nhất quan điểm kinh tế nhà nước không cạnh tranh với kinh tế ngoài nhà nước, mà tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Bây giờ không có chuyện “ai thắng ai”, mà phải là “cùng thắng”. Cái gì tư doanh làm được và làm tốt, kinh tế nhà nước không cần tham gia vì còn nhiều việc khác khó hơn đang chờ. Làm vậy mới thể hiện đúng tinh thần của đường lối đổi mới của Đảng và bản chất của Nhà nước ta.
------------------
Nhóm 9 - Luật 3B - VB2CQ
1.1 Khái niệm
1.1.1 Kinh tế:
Là tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước liên quan đến toàn bộ quá trình hay một phần của tổng quá trình bao gồm các quá trình sản xuất, trao đổi hang hóa, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. (trích Từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến)
1.1.2 Chế độ kinh tế:
Là một chế định của luật hiến pháp Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ trong việc xác định mục đích và chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước; chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng trong xã hội.
Tổng quan vai trò Hiến định đối với nền kinh tế:
Ø Luật Hiến pháp nghiên cứu những vấn đề cơ bản của chế độ kinh tế như:
Ø Mục đích, phương hướng, các thành phần kinh tế của Nhà nước.
Ø Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ø Những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
1.1.3 Các quy định của hiến pháp đối với các thành phần kinh tế:
HIẾN PHÁP NĂM 1946:
Ø Không đề cập đến các thành phần kinh tế, chỉ đề cập đến quyền tư hữu của công dân được đảm bảo (Điều 12)
HIẾN PHÁP NĂM 1959:
Ø Chỉ đề cập kinh tế quốc doanh và kinh tế HTX
Ø Điều 12: Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên
Ø Điều 13: Kinh tế HTX thuộc hình thức sở hữu của tập thể nhân dân lao động
HIẾN PHÁP NĂM 1980
Ø NN chủ trương thực hiện nền KTQD chủ yếu có 2 TP là KT quốc doanhthuộc sở hữu toàn dân và kinh tế HTX thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Ø Cơ sở hiến định: Điều 18
HIẾN PHÁP NĂM 1992:
Ø NN phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của NN theo định hướng XHCN.
Ø Cơ sở hiến định: Điều 16 (HP sửa đổi bổ sung 2001)
Ø Cơ cấu KT nhiều TP với các hình thức tổ chức SX, KD đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng. Các thành phần KT : KTNN , KT tập thể, KT cá thể, KTTB tư nhân và KTTB NN, KT có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.4 Khái niệm thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế dựa trên một chế độ sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
- Tại Điều 16, HP 1992 (đã sửa đổi, bổ sung 2001), xác định các thành phần kinh tế gồm 6 thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đến ĐH toàn quốc lần thứ X xác định, ở nước ta có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ø Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở hữu nhà nước. (Điều 19)
Ø Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu chung của một nhóm, một tập đoàn người, một cộng đồng dân cư nhất định.(Điều 20)
Ø Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu của tư nhân. (Điều 21)
Ø Thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân
Ø Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài (điều 25)
1.1.5 Thái độ của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế
Ø Điều 16: Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN
Ø Điều 22: Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật…
1.1.6 Ý nghĩa
- Vai trò hiến định của các thành phần kinh tế có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế xã hội, Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...
- Vai trò hiến định của các thành phần kinh tế là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần tạo tiền đề để hình thành và phát triển, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
1.1.7 Hạn chế:
- Các thành phần kinh tế được quy định trong hiến pháp quá cụ thể, trong khi xác định kinh tế nhiều thành phần thì không nên “quy hoạch” cụ thể là 5 hay 6 thành phần, điều này rất dễ dẫn tới tình trạng giá trị pháp lý và giá trị thực tiễn không ổn định, khi thực tiễn kinh tế thay đổi, trên thực tế đã xảy ra, sau 2001 sửa đổi bổ sung HP, đến ĐH X của Đảng lại xác định lại các thành phần kinh tế, và không biết sau này sẽ còn sửa đổi nữa không?=èĐây là một vần đề còn bỏ ngõchưa được các Đại hội Đảng đề cập nhiều đến các vấn đề này.
- Cách đặt vấn đề trong Hiến pháp vừa nói các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng lại vừa bảo kinh tế Nhà nước là chủ đạo là mâu thuẫn. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của chúng ta, trong lúc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng thì Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Mặt khác, theo quan điểm của cá nhân chúng tôi thì điều này không đảm bảo được tính xác định chặt chẽ về hình thức của văn bản quy pham pháp luật.
1.2.1 Vai trò hiến định:
Điều 19: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”
1.2.2 Tổng quan về kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Nội hàm “kinh tế nhà nước” rộng hơn “kinh tế quốc doanh”. Nó không chỉ bao gồm các DNNN, mà còn bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế của Nhà nước và trước hết là tất cả các doanh nghiệp 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước (chỉ những doanh nghiệp này mới được gọi là DNNN).Tiếp đến là phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần. Các công ty cổ phần là doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp, không thể gọi là DNNN, dù Nhà nước có nắm giữ cổ phần khống chế. Nhưng Nhà nước phải coi phần vốn này là lực lượng kinh tế của mình và thông qua cơ chế quản lý công ty cổ phần hướng hoạt động của các công ty này theo những mục tiêu Nhà nước mong muốn.
Ngoài ra, kinh tế nhà nước còn gồm các đầu tư của ngân sách nhà nước và của các quỹ đầu tư công, trong đó đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có vị trí rất quan trọng. Rồi đến các chính sách tín dụng, thuế, chi tiêu công, v.v… đều là những lực lượng kinh tế mà Nhà nước cần biết tận dụng.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì tập đoàn kinh tế là nhóm các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của Tập đoàn kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 tập đoàn kinh tế nhà nước theo hai mô hình, đó là:
- *Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và 91): gồm 10 tập đoàn:
o Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam,
o Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam,
o Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam,
o Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam,
o Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam,
o Tập đoàn Dệt may Việt Nam,
o Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
o Tập đoàn Bảo Việt,
o Tập đoàn Viễn thông Quân đội,
o Tập đoàn Hoá chất Việt Nam.
- *Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: 02 tập đoàn là:
o (1) Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư Phát triển Xây dựng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng, trong đó Tổng công ty Sông Đà làm nòng cốt;
o (2) Tập đoàn Phát triển Nhà và Đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phát triển nhà và đô thị, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và cấp thoát nước, bao gồm: Tổng công ty Phát triển Nhà và Đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng, Tổng công ty Đầu tư Xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam, trong đó Tổng công ty Phát triển Nhà và Đô thị làm nòng cốt.
2. THỰC TIỄN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1 Những thành tựu
Về thực tiễn, sự phát triển đa dạng và đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các thành phần kinh tế những năm qua, đặc biệt trong năm năm 2001 - 2005 chính là thắng lợi đầy sức thuyết phục của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. Mỗi thành phần kinh tế và loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thích ứng với những đối tượng, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, cùng phát triển và đều góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước làm nên một nền kinh tế Việt Nam sống động, có tốc độ tăng trưởng cao, xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật. Riêng kinh tế Nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục được đổi mới và phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Một trong những đặc trưng của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam là hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý. Với đặc trưng này, các tập đoàn kinh tế đã có vai trò tích cực đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Cụ thể, các tập đoàn kinh tế đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng và có tốc độ tăng trưởng cao trong cơ cấu và tốc độ tăng trưởng được tính theo thành phần kinh tế. Tốc độ tăng GDP của kinh tế nhà nước trung bình trong năm năm 2001-2005 đạt mức 7,46%, tuy có thấp hơn chút ít tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế cùng kỳ (7,51%) nhưng vẫn là thành tích đáng ghi nhận.
Qua bảng số liệu bên dưới cho thấy tổng thu nhập GDP từ các thành phần kinh tế từ năm 2004-2009 cho thấy thành phần kinh tế kinh tế có sức tăng trưởng tăng dần qua các năm đển hình là năm 2009 544.942 tỷ đồng so với năm 2008. Đồng thời khi Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007 cho thấy VN cũng đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài dẩn đến nền kinh tế có vốn đầu nước có sức tăng trưởng mạnh các qua các năm điển hình là năm 2009 tăng 30.375 tỷ đồng so với năm 2008.Các thành phần kinh tế còn củng có sức tăng trưởng nhiều qua các năm từ 2004-2009
TỔNG THU NHẬP GDP TỪ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ( 2004-2009)
+ Tuy còn những nhược điểm trong tổ chức và hoạt động nhưng không thể phủ nhận các Tập đoàn kinh tế nhà nước đã sản xuất ra một lượng hàng hóa lớn phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng khá cao, có vai trò quan trọng trong việc giúp Chính phủ điều tiết, ổn định nền kinh tế. Nhất là trong thời điểm nền kinh tế gặp khó khăn thì việc Nhà nước nắm vững được những ngành sản xuất thiết yếu lại càng trở nên quan trọng. Từ năm 2008 đến nay, mặc dù giá nguyên liệu trên thế giới tăng cao nhưng theo chỉ đạo của Chính phủ, các Tập đoàn KTNN vẫn đảm bảo cân đối cung - cầu và bình ổn giá cả những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống (xăng dầu, điện, đạm, khí hoá lỏng, than .v.v.), tránh gây xáo trộn cho nền kinh tế và xã hội.
Trong khoảng thời gian cuối năm 2008 và năm 2009 chịu sự chi phối không nhỏ của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, các Tập đoàn kinh tế Nhà nước của ta đã có nhiều nỗ lực góp phần đáng kể vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt nắm giữ vị trí then chốt, làm công cụ vật chất để Đảng – Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
VD1: Dưới sự chỉ đạo của chính phủ tập đoàn dầu khí quốc gia việt nam đã điều tiết giá xăng dầu khi giá xăng dầu trên thế giới có sự tăng giá cao và đột biến khi giá cả hàng hóa trên thị trường đang cao. Sự tác động kịp thời của tập đoàn dầu khí đã làm dịu bớt đi áp lực tăng giá cả hàng hóa khi mà xăng, dầu là một trong những loại nhiên liệu tác động trực tiếp đến giá cả của nhiều loại hàng hóa khác. Việc kìm hãm giá xăng, dầu cũng là một biện pháp hữu hiệu để chống lạm phát góp phần ổn định giá cả hàng hóa làm ổn định nần kinh tế cũng như ổn định xã hội.
VD2: dưới sự chỉ đạo của chính phủ các doanh nghiệp KD gạo đã bán gạo thấp hơn giá thị trường khi mà giá gạo bị đầu cơ tăng đột biến trong thời gian trước.
Ngoài ra các tập đoàn nhà nước còn là những đơn vị tiên phong trong việc đầu tư vào những vùng khó khăn, những ngành kinh tế mang tính xã hội cao nhưng mang tính kinh tế thấp…
2.2 Một số hạn chế
Trong một số lĩnh vực cụ thể, hoạt động của một số tập đoàn hiện mang tính độc quyền, chưa phù hợp với cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Một số doanh nghiệp chưa thoát khỏi tư duy của cơ chế bao cấp, xin cho, không dám chịu trách nhiệm, Sự tồn tại và phát triển của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước chủ yếu là dựa vào khai thác lợi thế về độc quyền và vị trí chi phối đối với nhiều sản phẩm và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, tận dụng các ưu đãi của Nhà nước về điều kiện hoạt động, đặc biệt là sử dụng đất đai, vay vốn tín dụng... Những lợi thế và ưu đãi đó làm cho nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước sinh ỷ lại, không quan tâm nâng cao trình độ công nghệ và quản lý, không coi trọng năng suất và hiệu quả; nguy hại hơn nữa là khiến cho môi trường kinh doanh của nước ta không bảo đảm tính cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp; do đó hạn chế động lực quan trọng nhất của kinh tế thị trường.
Hiệu quả hoạt động của DN, tập đoàn kinh tế Nhà nước còn thấp,[B]các DN tỉ lệ nợ trên vốn rất cao, không an toàn, đầu tư còn dàn trải, việc phát triển một số DN mới không liên quan đến ngành, nghề chính của tập đoàn kinh tế Nhà nước dẫn đến phân tán nguồn vốn và chứa đựng thêm nhiều rủi ro trong kinh doanh.
Trình độ công nghệ, năng suất lao động của khá nhiều tập đoàn còn thấp, việc đổi mới tổ chức, quản lý trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước còn chậm, sức cạnh tranh còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế và chưa tương ứng với đầu tư của Nhà nước, vốn đầu tư của Nhà nước cho các Tập đoàn kinh tế Nhà nước luôn chiếm tỉ lệ cao (trên dưới một nửa, trong tổng đầu tư xã hội, nhưng tỉ lệ đóng góp vào thu nhập quốc dân (GDP) không cân xứng, chỉ ở mức 37 – 39% và tạo công ăn việc làm cho khoảng 4,4% tổng số lao động. Suốt hàng chục năm, khu vực kinh tế nội địa, mà có lẽ chủ yếu là kinh tế Nhà nước luôn luôn nhập siêu ở mức cao, khu vực đầu tư hơn mức nó tạo ra rất nhiều trong thời gian dài. Sự kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước là một trong những nguyên nhân chính góp phần không nhỏ gây bất ổn kinh tế vĩ mô, tăng lạm phát.
Thời gian qua, dư luận đặc biệt quan tâm tới việc đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính của các Tập đoàn KTNN. Hiện nay, chưa có thống kê tổng thể nào cho thấy các Tập đoàn KTNN đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính lỗ lãi ra sao (Hiện nay, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam được coi là đầu tư nhiều ra ngoài lĩnh vực chính). Bộ Công Thương đánh giá việc mở rộng đa ngành, đa nghề ra nhiều lĩnh vực không phải sở trường như tài chính, ngân hàng... đã phần nào làm giảm năng lực và sự tập trung nguồn lực của các tập đoàn vào lĩnh vực chính.
VD: Việc đầu tư thiếu trọng điểm và không hiệu quả của tập đoàn công ngiệp tàu thủy việt nam là một điển hình khi mà trong vọn viện 3 năm trời tập đoàn này đã thành lập gần 200 cty con với đủ mọi nghành nghề. Chính việc mở rộng quy mô này cộng với sự quản lý yếu kém của đội ngũ lãnh đạo của tập đoàn đã làm cho tập đoàn làm ăn thua lổ 120.000 tỷ đồng.
2.3 Nguyên nhân hạn chế
2.3.1 Nguyên nhân chủ quan
+ Trong các DNNN một thực tế thấy rõ là thiếu động lực để phát triển khi nói đến kinh tế tư nhân, chúng ta đều nghĩ đến các ông chủ quên ăn, quên ngủ lo cho "túi tiền" của mình bị vơi đi, hay doanh nghiệp làm ăn thất bại, thua lỗ, dẫn tới phá sản. Động cơ phát triển của kinh tế tư nhân thật rõ ràng, xuất phát từ nhu cầu cá nhân, nhu cầu thực sự của mỗi con người, còn cá nhân mang "màu áo" nhà nước, cũng là con người với những ước mơ bình thường, nhu cầu bình thường nhưng sự khác biệt về môi trường làm việc đã làm thay đổi tư duy suy nghĩ và tư duy hành động.Một suy nghĩ ai cũng biết là "cha chung không ai khóc". Các kinh nghiệm thất bại từ quản lý kinh tế nhà nước theo lối "hợp tác xã", nửa đêm không ai muốn thức dậy để xả nước ngoài ruộng lúc 2-3 giờ sáng, vì không có động lực phấn đấu làm việc! Làm cũng như không làm, "ăn đồng, chia đủ", không ai hơn ai, cá mè một lứa, thui chột cả tư duy phát triển, làm giàu. Ai có ý kiến khác lãnh đạo bị cho là "thể hiện", phá cách, phải chịu trách nhiệm trước tập thể, tốt nhất ngồi yên sẽ yên thân. Vai trò làm chủ của nhà nước tại hầu hết các DNNN chưa được "luật hóa" hay cụ thể hóa rõ ràng dẫn tới buông lỏng không theo kịp các diễn biến kinh tế - xã hội, gây phá sản, thất thoát lớn tài sản công rất nhiều.
+ Qua thực tiễn, mấy năm hoạt động cho thấy: trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Công ty mẹ (Vinashin) nói riêng và các DN, các Công ty, các tập đoàn kinh tế nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị một tập đoàn kinh tế lớn, đặc biệt là những người đứng đầu còn hạn chế về năng lực, không ít cán bộ, lãnh đạo chẳng những trình độ mọi mặt hạn chế mà còn biểu hiện thiếu trách nhiệm, tùy tiện, cá nhân, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái vi phạm pháp luật trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước
2.3.2 Nguyên nhân khách quan
“Sự cố” của tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin vừa qua, cũng như một số thiếu sót, khuyết điểm của một số tập đoàn kinh tế Nhà nước có liên quan đến một số cơ quan tham mưu thuộc Chính phủ, một số địa phương và một số cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm soát ở Trung ương có thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với tập đoàn, chưa sát sao giám sát, kiểm tra chặt chẽ và đánh giá đúng, kịp thời về công tác tổ chức, cán bộ và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, Từ năm 2006 – 2009 tuy đã qua 11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, nhưng vẫn không phát hiện được đầy đủ, kết luận đúng tình hình và những yếu kém, khuyết điểm nghiêm trọng của tập đoàn, chưa đưa ra được những biện pháp chấn chỉnh, ngăn chặn, xử lý kịp thời có hiệu quả mặc dù những biểu hiện về những khó khăn, khuyết điểm của Vinashin đã được các cơ quan trông tin đại chúng và dư luận phản ánh, cảnh báo từ rất sớm và nhiều lần
3. Đánh giá chung và đề xuất một số giải pháp
3.1 Đánh giá chung
3.1.1 Kinh tế Nhà nước có thực sự chủ đạo?
Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, vừa được Ban chấp hành Trung ương Đảng công bố. Trong đó khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.
Đây là vấn đề gây nhiều tranh luận, vì từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thời gian qua, cụ thể câu chuyện Tập đoàn Vinashin, càng khiến các chuyên gia kinh tế, nhà hoạch định và 86 triệu người dân Việt Nam trăn trở.
Chúng ta cần nhìn nhận lại tính đúng đắn và cần thiết của khẩu hiệu “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” trong giai đoạn mới của phát triển đất nước.Theo TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp, khi trao đổi với báo chí về vai trò kinh tế Nhà nước trong bối cảnh hiện nay để góp ý cho dự thảo Văn kiện Đại hội XI đã nhận xét: “Việc xác định vai trò kinh tế Nhà nước làm chủ đạo nền kinh tế đất nước trước đây đã gây nhiều tranh cãi. Từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thời gian qua, cụ thể nhất là câu chuyện của Vinashin lại càng gây tranh cãi nhiều hơn. Đã đến thời điểm cần nhìn thẳng vào sự thật xem kinh tế Nhà nước có thực sự chủ đạo hay chỉ mới được khoác vào một cái áo rất đẹp đẽ nhưng thực chất bên trong không phải thế”. Ông cũng lưu ý trên khắp thế giới không có một nước nào có câu này cả, ngay Trung Quốc cũng không đặt vấn đề này. Vấn đề ở đây là phải xác định làm sao để nền kinh tế tăng trưởng, bền vững, có hiệu quả.
Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, nghĩa là có tài sản và có năng lực tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước xã hội vì vậy doanh nghiệp, ở góc nhìn của luật chủ thể, thực sự là một con người. Mà đã được nhân cách hóa, thì doanh nghiệp phải chịu sự chi phối của nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trước pháp luật, một trong những nguyên tắc tạo thành nền tảng của một hệ thống pháp lý lành mạnh, vốn được coi là điều kiện cần cho sự bảo đảm công bằng, trật tự trong xã hội có tổ chức.
Chủ trương trao cho doanh nghiệp nhà nước vai trò chủ đạo trong nền kinh tế có định hướng phải tuân thủ nguyên tắc đó. Điều này có nghĩa là dứt khoát không thể tạo ra, bên cạnh một khung pháp lý dùng chung cho các doanh nghiệp loại khác, một hệ thống pháp lý riêng cho doanh nghiệp nhà nước với nhiều ngoại lệ mang tính ưu đãi, đặc quyền. Trên thực tế tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp vẫn tồn tại dai dẳng. Ví dụ, trong mối quan hệ với các thiết chế công và cả với các ngân hàng, thế của doanh nghiệp nhà nước vẫn tỏ ra vượt trội so với các doanh nghiệp không phải nhà nước: gọi cửa dễ hơn, giao tiếp thân quen hơn, thủ tục gọn hơn, điều kiện giao kèo thông thoáng thuận lợi hơn… Đáng nói là lợi thế đó trong phần lớn trường hợp không phải do doanh nghiệp nhà nước tự tạo ra bằng các kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh được thực hiện trên cơ sở tuân thủ các luật chơi chung về cạnh tranh, các kết quả có tác dụng gầy dựng uy tín xã hội và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó chủ yếu hình thành từ việc khai thác những suy nghĩ xã hội tồn tại dai dẳng như những định kiến về thành phần này, thành phần nọ trong hệ thống kinh tế của quốc gia.
Cho đến bây giờ, doanh nghiệp nhà nước trong tâm trí của con người ta vẫn được hiểu là doanh nghiệp của Nhà nước, nghĩa là của một nhà đầu tư đồng thời nắm quyền lực công. Thái độ ứng xử xã hội phổ biến, thôi thúc bởi lợi ích, cũng có xu hướng theo đó mà thích nghi. Ngân hàng có thể chấp nhận cho doanh nghiệp vay với những điều kiện dễ dãi; các chủ thể quan hệ kinh doanh, tiêu dùng thích chọn doanh nghiệp nhà nước để đối tác. Lý do chính không phải là xã hội tin tưởng vào sức sống, khả năng phát triển ổn định của bản thân doanh nghiệp nhà nước. Đơn giản, trong trường hợp có rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán, thì doanh nghiệp nhà nước thường có Nhà nước như là một người bảo trợ rộng lượng sẵn sàng dang tay cứu giúp và thừa sức chi trả thay.
Nhìn vào hệ thống quản lý kinh tế đang vận hành, dễ có cảm giác rằng thay vì làm như thế, Nhà nước lại nhận lấy cho mình nhiệm vụ khẳng định vị trí chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Thế là xuất hiện những đứa con cưng được các bậc cha mẹ có thế lực hà hơi tiếp sức một cách đầy thiên vị và được nuông chiều trong một sân chơi đầy ắp tiện nghi. Không ít trong số đó đã hư hỏng và người lãnh hậu quả, rốt cuộc, là NN
Tóm lại, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chưa được chứng minh trong thực tế. Kinh tế tập thể thì có vấn đề về chế độ sở hữu cần làm sáng tỏ; thêm vào đó, do nhiều nguyên nhân, hợp tác xã ở nước ta phát triển chậm, sức sống còn hạn chế. Vì thế, khẳng định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân không những trái với thực tế mà còn cản trở việc tạo lập môi trường kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh phù hợp với kinh tế thị trường.
3.1.2 Kinh tế nhà nước nên đầu tư vào những ngành nào?
Trong nền kinh tế, luôn có những lĩnh vực khó, đòi hỏi vốn lớn, trình độ kỹ thuật cao, lãi suất lại thấp, do đó khu vực ngoài nhà nước hoặc không đủ sức làm, hoặc không muốn làm. Nếu những lĩnh vực này có ý nghĩa quan trọng bảo đảm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế thì với tư cách lực lượng kinh tế của Nhà nước, kinh tế nhà nước phải đứng ra gánh vác, dù rằng năng suất, hiệu quả trực tiếp không cao. Nhà nước cần làm và có thể làm tốt hơn tư nhân xét cả về mặt hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong các ngành thuộc 4 lĩnh vực trọng điểm là :
(1) Định hướng chiến lược
(2) Cơ sở hạ tầng
(3) An sinh xã hội và
(4) An ninh quốc gia.
Ngoài các ngành đó, kinh tế tư nhân có thể làm tốt hơn, hiệu quả hơn kinh tế Nhà nước ở các ngành khác, thì tạo điều kiện để tư nhân đảm nhiệm.
Đây là cơ sở để chúng ta rà soát, sắp xếp lại các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước, tránh tình trạng để các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước gây nhiều sai phạm như đã được nói đến nhiều thời gian gần đây.
3.2 Đề xuất một số giải pháp
3.2.1 Làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay?
Cần có một cơ quan giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước, thường xuyên tiến hành, tổ chức các hoạt động giám sát, kiểm tra đánh giá đúng thực trạng tình hình hoạt động của mỗi tập đoàn, trên cơ sở đó công khai, minh bạch tình hình tài chính cũng như họat động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Nhà nước cần thiết lập một hệ thống thông tin, thông suốt và thiết lập một hệ thống thông tin minh bạch về hoạt động của các Tổng Công ty, các tập đoàn Kinh tế Nhà nước hàng quý, hàng năm các đơn vị phải có báo cáo trung thực đầy đủ mọi hoạt động của mình từ sản xuất, kinh doanh về đơn vị cấp trên hoặc các cơ quan giám sát của Nhà nước.
Các đơn vị thuộc tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước hiện nay cần phải rà soát lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để kiên quyết giảm bỏ những khâu trung gian, những lĩnh vực đầu tư ít hiệu quả. Cùng với việc tổ chức lại sản xuất một cách hợp lý thì một biện pháp quan trọng là gom vốn, dồn vốn để đầu tư vào các phương tiện, thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Các công ty cần xác định lại mục tiêu chiến lược của mình là gì, mặt hàng, sản phẩm chiến lược gì là chính.
Nhà nước cần kịp thời chấn chỉnh việc mở rộng đa ngành của các tập đoàn, Tổng Công ty mở rộng đa ngành, nhưng ít, hoặc không liên quan đến ngành sản xuất chính của đơn vị. Thời gian tới cần định hướng để các tập đoàn đầu tư vào những ngành nghề liên quan đến ngành nghề chính của mình, tận dụng được thế mạnh của mình. Ví dụ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư vào viễn thông là có hiệu quả vì tận dụng được hệ thống cáp, hay Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV) đầu tư vào điện cũng có lợi vì dùng than làm nguyên liệu cho nhà máy nhiệt điện… Đối với các tập đoàn, các tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước phải xác định được giá trị đích thực của họ đóng góp đối với nền kinh tế và đối với xã hội.
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho DN Nhà nước hoạt động, đồng thời tạo sự cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác, tiếp tục đổi mới công tác quản lý, Nhà nước đối với DN, Nhà nước và đổi mới hoạt động của bản thân DN Nhà nước.
Phải cải cách cả thể chế, bộ máy Nhà nước. Nhà nước không nên trực tiếp tham gia vào kinh doanh mà tập trung làm tốt giáo dục, y tế, tổ chức kết cấu hạ tầng,… Còn tất cả việc kinh doanh phải để nền kinh tế làm. Không thể nào một ông vừa làm thứ trưởng, vừa làm chủ tịch HĐQT như hiện nay
Đi liền với các việc làm trên, một vấn đề có ý nghĩa quyết định là việc tiếp tục đổi mới nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong các DN, các Tổng Công ty và các tập đoàn Kinh tế Nhà nước. Trong công tác xây dựng Đảng, một nhân tố mang ý nghĩa quyết định là việc sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ. Cần chăm lo việc xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi ở các tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước, có cơ chế đãi ngộ, thu hút những người quản lý giỏi tham gia điều hành DN; mở rộng hình thức hợp đồng thuê cán bộ quản lý giỏi đã nghỉ hưu, nghiên cứu chế độ kéo dài tuổi nghỉ hưu đối với một số cán bộ quản lý giỏi ở một số lĩnh vực quan trọng.
3.2.2 Làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế?
Để phát huy tính cạnh tranh trên cơ sở phát huy tối đa mọi nguồn lực của người dân để kinh tế dân doanh phải được phát triển. Tất cả thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng chứ không cần phải nhấn mạnh “ông” nào chủ đạo. Vì vậy, cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” cần được xóa bỏ hoặc thay bằng cụm từ “kinh tế nhà nước giữ vai trò hướng đạo” (hoặc “hướng dẫn” hay “dọn đường”, hoặc một từ ngữ nào đó phù hợp hơn với những ý tưởng trình bày dưới đây. Đây không phải là thay đổi từ ngữ, mà là thay đổi cơ bản tinh thần luận điểm.Trước đây thường nói là “chủ đạo”, nhưng cũng chưa có định nghĩa rành mạch. Cả một thời kỳ dài nó được hiểu đồng nghĩa với nắm các vị trí then chốt (dẫn tới thâu tóm dành độc quyền), phải đi đầu về mọi mặt (dẫn tới đòi ưu tiên, đòi điều kiện thuận lợi).“Chủ đạo” được hiểu nặng về đòi hỏi đối với Nhà nước và xã hội. Còn “hướng đạo” cần hiểu ngược lại, nặng về nghĩa vụ mà kinh tế nhà nước phải đảm nhiệm với Nhà nước và xã hội.
Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, không nên lập thêm các tổng công ty Nhà nước hay xí nghiệp quốc doanh không thuộc các ngành trọng tâm, trọng điểm, lập thêm như vậy là đi ngược lại với xu hướng đổi mới đã và đang diễn ra, xét cả về lý luận, chính sách và thực tiễn. Vì thế, thay vì lập thêm các tập đoàn Nhà nước, cần tạo hành lang pháp lý cho việc thành lập và phát triển các tập đoàn tư nhân, xây dựng các tập đoàn tư nhân trở thành những trụ cột của nền kinh tế. => Đây là một khả năng hoàn toàn hiện thực trong nền kinh tế thị trường nơi tư nhân là một động lực chính.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tập đoàn kinh tế, không phân biệt thành phần kinh tế thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân, vừa tạo điều kiện để Nhà nước chuyển bớt một phần các nguồn lực đầu tư sang các lĩnh vực hiệu quả hơn xét cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, giảm bớt những thất thoát, lãng phí như đã xảy ra, vừa tăng cường huy động sự tham gia đóng góp của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, các nguồn vốn xã hội vào tiến trình phát triển và đào luyện được những doanh nhân đích thực cho đất nước. Đã đến lúc cần thống nhất quan điểm kinh tế nhà nước không cạnh tranh với kinh tế ngoài nhà nước, mà tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Bây giờ không có chuyện “ai thắng ai”, mà phải là “cùng thắng”. Cái gì tư doanh làm được và làm tốt, kinh tế nhà nước không cần tham gia vì còn nhiều việc khác khó hơn đang chờ. Làm vậy mới thể hiện đúng tinh thần của đường lối đổi mới của Đảng và bản chất của Nhà nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.
2/ Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: tác giả Trần Thị Minh Châu (báo Tuổi trẻ).
3/ “Hãy để kinh tế Nhà nước cạnh tranh bình đẳng!” - Theo Thu Hằng- Pháp luật TPHCM.
4/ Khi nào Việt Nam có nền kinh tế thị trường thực thụ? Tác giả: Đỗ Đức Định.
5/ Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, NXB CTQG Hà Nội, 4-2010.
6/ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG Hà Nội 2006.
1/ Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.
2/ Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: tác giả Trần Thị Minh Châu (báo Tuổi trẻ).
3/ “Hãy để kinh tế Nhà nước cạnh tranh bình đẳng!” - Theo Thu Hằng- Pháp luật TPHCM.
4/ Khi nào Việt Nam có nền kinh tế thị trường thực thụ? Tác giả: Đỗ Đức Định.
5/ Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, NXB CTQG Hà Nội, 4-2010.
6/ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG Hà Nội 2006.
0 comments:
Post a Comment