Trải qua gần mười năm
thi hành, Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Một
trong những khiếm khuyết lớn nhất có tính tư tưởng hay tính triết lý
của Bộ luật này là chưa thể hiện được đầy đủ, hay nói cách khác, chưa
tiếp nhận được đầy đủ học thuyết tự do ý chí.
Trải qua gần mười năm thi hành, Bộ luật Dân sự Việt
Nam 1995 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Một trong những khiếm khuyết lớn
nhất có tính tư tưởng hay tính triết lý của Bộ luật này là chưa thể hiện
được đầy đủ, hay nói cách khác, chưa tiếp nhận được đầy đủ học thuyết
tự do ý chí. Do đó, khi xây dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thay thế,
những người soạn thảo Bộ luật mới này có quan điểm xuyên suốt là: “Tăng
cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được quyết định về đối
tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức, nội dung của hợp đồng và trách
nhiệm của các bên đối tác khi có vi phạm”[1]. Việc nghiên cứu tự do ý
chí và việc tiếp nhận nó trong pháp luật Việt Nam không chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong việc hiểu pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật Dân
sự 2005 nói riêng, mà còn có ý nghĩa to lớn trong công tác cải cách pháp
luật Việt Nam hiện nay.
I. Khái niệm và nội dung của tự do ý chí
Hiểu rằng hợp đồng là một loại giao ước mà đặc điểm
chung của chúng là sự thống nhất ý chí. Vậy ý chí có vai trò cực kỳ quan
trọng đối với hợp đồng. Nó được xem là cực kỳ quan trọng bởi nó là yếu
tố cơ bản, không thể thiếu được để hình thành hợp đồng, từ đó làm phát
sinh ra các nghĩa vụ pháp lý[2]. Không thể nghi ngờ được rằng, thương
mại không thể phát triển nếu các thoả thuận được lập ra một cách tự do
mà không được thi hành một cách bình thường[3]. Vì vậy, dù ở hệ thống
pháp luật nào, người ta cũng đềuthừa nhận nền tảng của luật hợp đồng là
tự do ý chí, có nghĩa tự do ý chí là vấn đề trọng yếu của hợp đồng.
Học thuyết tự do đã phát triển mạnh mẽ ở Pháp vào
thế kỷ XVIII, theo đó cá nhân chỉ có thể bị ràng buộc bởi ý chí của
chính mình được tuyên bố một cách trực tiếp thông qua các hợp đồng hay
gián tiếp thông qua pháp luật. Học thuyết này cho rằng, pháp luật thể
hiện ý chí chung của các cá nhân trong xã hội, nên các qui định của pháp
luật có giá trị thúc buộc chung mà các cá nhân đã gián tiếp ưng thuận.
Học thuyết này nhằm tới mục đích công bằng giữa các cá nhân thông qua tự
do thương thuyết, và phát triển kinh tế thông qua tự do cạnh tranh
(laisser faire)[4], có nghĩa là “để cho muốn làm gì thì làm”. Tư tưởng
này ngày nay được hiểu rằng, chủ nghĩa tự do kinh tế thời đó là một chế
độ tự do không giới hạn mà sự công bằng là kết quả tự nhiên có được từ
luật nghĩa vụ thích hợp được xây dựng trên nền tảng đặc biệt của sự bình
đẳng thích hợp. Hệ quả là các lý thuyết về luật tư ở thế kỷ XIX đều lấy
tiền đề từ sự thống trị của quyền tự do cá nhân vô giới hạn[5]. Các tư
tưởng từ đó đã ảnh hưởng lớn tới Bộ luật Dân sự Đức 1900. Như vậy cả hai
Bộ luật Dân sự (Bộ luật Dân sự Pháp 1804 và Bộ luật Dân sự Đức 1900)
làm hình mẫu cho các Bộ luật Dân sự khác đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
học thuyết tự do ý chí.
Với Common Law, tự do hợp đồng là một học thuyết
trung tâm của luật hợp đồng cổ điển. Học thuyết này nở rộ và phát triển
đầy đủ vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX. Tại đây, pháp luật được tạo ra
bởi các thẩm phán và các học thuyết pháp lý bị ảnh hưởng bởi: (1) Ý
tưởng khế ước xã hội từ thời của Locke; (2) Tư tưởng kinh tế cổ điển; và
(3) Quan niệm về sự liên kết tự nguyện giữa các chủ thể của quan hệ hợp
đồng[6]. Học thuyết này có nguồn gốc từ Thời đại Khai sáng với tư tưởng
của Locke được thể hiện trong công trình Hai luận thuyết về chính quyền
chống lại quyền lực tối thượng thần thánh của các nhà vua. Theo ông, xã
hội vận hành tốt nhất khi các khế ước xã hội đã được định rõ điều chỉnh
hành vi của con người, và là cách thức tốt nhất để bảo vệ đời sống, tự
do và tài sản của cá nhân họ được gọi là các quyền tự nhiên[7].
Các lý thuyết gia về hợp đồng ở thời kỳ cuối thế kỷ
XIX đã tiến hành các quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá và hệ thống
hoá các vấn đề liên quan tới hợp đồng để xây dựng nên một lý thuyết duy
nhất dựa trên các giá trị đạo đức thay thế cho các tín ngưỡng truyền
thống có nền tảng là đạo đức đang bị xói mòn. Kết quả là việc xem hợp
đồng như luật giữa các cá nhân. Điều đó có nghĩa là họ quan niệm nghĩa
vụ hợp đồng phát sinh từ các ý chí của các cá nhân trong một mối quan hệ
hợp đồng cụ thể, chứ không phát sinh từ các chế định pháp lý đã được
xây dựng có tính lịch sử và xã hội. Theo Lee Boldeman, các tư tưởng này
rất giống với các tư tưởng của Locke về tài sản. Nghĩa vụ thực hiện lời
hứa là vấn đề trung tâm của luật hợp đồng và cũng là trái tim của luật
tự nhiên theo trường phái Locke, nhưng là một luật tự nhiên mà ngày càng
mất đi nền tảng trừu tượng của nó[8].
ở Hoa Kỳ, vụ Lochner v. New York, 198 U.S. 45 (1905)
là một dấu mốc quan trọng đánh dấu phán quyết của Toà án tối cao Hoa Kỳ
hướng tới quyền tự do hợp đồng. Đây là một vụ việc gây tranh luận nhiều
nhất trong lịch sử của Toà án tối cao Hoa Kỳ. Nó tạo ra một kỷ nguyên
được gọi là kỷ nguyên Lochner. Vào năm 1896, cơ quan lập pháp của tiểu
bang New York nhất trí ban hành một đạo luật mang tên Bakeshop Act cấm
các cá nhân làm việc tại các cửa hàng bánh mỳ làm việc hơn mười giờ một
ngày hoặc hơn sáu mươi giờ một tuần. Năm 1899, Joseph Lochner (người chủ
của một cửa hiệu bánh mỳ ở Unita) bị phạt 25 đô la Mỹ vì sử dụng một
người lao động làm quá thời gian qui định nói trên. Lần vi phạm thứ hai
vào năm 1901, ông ta bị phạt 50 đô la Mỹ tại tòa án quận Oneida. Sau
nhiều lần kháng cáo tại Toà án tối cao của New York bị thất bại, ông ta
đưa vụ việc lên Toà án tối cao của Hoa Kỳ. Vụ việc này được xét xử trên
căn bản Bổ sung thứ mười bốn của Hiến pháp Hoa Kỳ với nội dung: “… không
một tiểu bang nào được tước bỏ của bất kỳ người nào đời sống, tự do,
hoặc tài sản mà không theo một qui trình pháp luật thích hợp”. Trải qua
hàng loạt vụ việc trước đó, Toà án tối cao Hoa Kỳ cho rằng, nguyên tắc
này không chỉ là một bảo đảm về luật thủ tục, mà còn là một giới hạn về
luật vật chất cho các hành xử của chính quyền đối với người dân. Việc
giải thích Hiến pháp này của Toà án tối cao Hoa Kỳ đã in một dấu ấn chắc
chắn vào các học thuyết pháp lý ở cuối thế kỷ XIX. Trong vụ việc của
mình, Lochner lập luận rằng quyền tự do hợp đồng là một quyền được bao
hàm bởi qui trình thích đáng của luật vật chất. Mặc dù trước đó trong
các vụ Allgeyer v. Louisiana (1897) và vụ Holden v. Harly (1898) Toà án
tối cao Hoa Kỳ đã thừa nhận tự do hợp đồng, nhưng trong vụ Lochner v.
New York này, Toà án tối cao Hoa Kỳ phải đối diện với vấn đề rằng liệu
Bakeshop Act có đưa ra được các hành xử hợp lý của chính quyền hay
không. Rốt cuộc Toà án tối cao Hoa Kỳ đưa ra phán quyết, việc giới hạn
thời gian làm việc tại các cửa hiệu bánh mỳ không tạo nên các hành xử
hợp pháp của quyền lực cảnh sát[9].
Ngày nay, các điều kiện của hợp đồng được giải thích
căn bản trên cơ sở học thuyết tự do ý chí. Người ta thừa nhận rằng ý chí
là tự do và ý chí của các bên là yếu tố duy nhất hình thành hợp đồng và
làm phát sinh các hậu quả pháp lý[10]. Nhưng với sự phát triển của xã
hội, vì đời sống chung của cộng đồng, nên tự do ý chí bị hạn chế trên
các phương diện như ký kết, không ký kết, và xác lập hay thay đổi nội
dung của hợp đồng. Tuy nhiên, trong bất kể một công trình nghiên cứu
nghiêm túc nào về hợp đồng, vấn đề tự do hợp đồng hay tự do ý chí đều
được đề cập đến một cách thích đáng. ở các bộ pháp điển hóa về hợp đồng
đều có các quy định về nguyên tắc tự do hợp đồng hay tự do ý chí.
Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam định ra nguyên tắc:
“Quyền tự do cam kết thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân
sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” (Điều 4). Tiếp đó Bộ luật
này quy định cụ thể hơn “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội” (Điều 389, khoản 1).
Luật Thương mại 2005 của Việt Nam cũng có nguyên tắc:
“Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp
luật mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hoạt động thương mại và bảo hộ các quyền đó (Điều 11, khoản 1).
Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 quy định tại Điều 1.1 rằngB: “Các bên được tự do giao kết
hợp đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng”. Cũng như vậy, nhưng có
phần thận trọng hơn, các nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu quy định:
“Các bên được tự do giao kết hợp đồng và xác định nội dung của hợp đồng
phụ thuộc vào các yêu cầu về thiện chí và công bằng và các quy tắc bắt
buộc được thiết lập bởi các Nguyên tắc này” (Điều 1.02).
Qua các quy định này, chúng ta có thể nhận thấy tự do
hợp đồng là một nguyên tắc hết sức quan trọng của luật hợp đồng mà nếu
không có nó thì các thỏa thuận sẽ trở nên vô nghĩa vì không một quan hệ
nghĩa vụ nào có thể được tạo thành. Tuy nhiên, nguyên tắc này sẽ bị hạn
chế trên một vài phương diện mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở mục sau.
Các học giả thường xem xét tự do ý chí trên ba phương diện: triết học, đạo đức và kinh tế.
Về mặt triết học, học thuyết tự do ý chí dựa
trên nền tảng của tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc
làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ.
Về mặt đạo đức, học thuyết tự do ý chí dựa
trên quan niệm rằng không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một
công việc mà không xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được
xem là sản phẩm của ý chí được hình thành từ lợi ích của các bên tham
gia giao kết.
Về mặt kinh tế, học thuyết tự do ý chí dựa
trên nhận định rằng, lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động
kinh tế. Do đó, tự do ý chí phải được đề cao để con người vì lợi ích của
mình trong xã hội tự do cạnh tranh mang lại những lợi ích chung[11].
“Tự do hợp đồng là một tư tưởng mà theo đó các cá
nhân được quyền tự do thoả thuận giữa họ với nhau về các điều kiện của
hợp đồng, không có sự can thiệp của chính quyền. Bất kể những gì khác
hơn các qui định tối thiểu và thuế có thể xem là sự vi phạm nguyên tắc.
Nó là trụ cột của học thuyết kinh tế tự do (the theory of laissez- faire
economics). Các nhà kinh tế học xem xét nó như một lợi ích đối với xã
hội bởi làm tăng sự lựa chọn và làm giảm thất nghiệp gây ra bởi các qui
định chẳng hạn như tiền lương tối thiểu”[12].
Triết lý này được đề xuất bởi Adam Smith và Thomas
Hobbes nhằm ủng hộ cho các cá nhân sử dụng xã hội như một công cụ để thủ
đắc tài sản. Các ông xem nhà nước thông thường như một phương tiện để
đạt mục đích, chứ không phải là người qui định, và phản đối sự kiềm chế
nhân định đối với ý chí tự do của cá nhân trong việc theo đuổi lợi ích
riêng của anh ta. Hobbes đã gọi tự do ý chí là luật tự nhiên tự do
(liberal natural law)[13].
Học thuyết tự do ý chí đã dẫn đến một hệ quả trước
tiên coi hợp đồng là một loại nguồn quan trọng nhất của nghĩa vụ pháp
lý. Bởi vậy, hợp đồng có nhiệm vụ bảo đảm sự tự do và ngay thẳng của ý
chí của các đương sự. Từ đó pháp luật về hợp đồng phải có các qui định
loại bỏ những trường hợp không bảo đảm sự tự do và ngay thẳng của ý chí.
Những người giao kết hợp đồng phải chín chắn về suy nghĩ và ở trạng
thái minh mẫn bình thường. Các trường hợp giao kết hợp đồng do nhầm lẫn,
do lừa dối hay do bạo lực sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Do đó, có thể
nói chế định vô hiệu của hợp đồng hoàn toàn không trái với vấn đề tự do ý
chí[14]. Tuy nhiên, về sự vô hiệu của hợp đồng cũng được các nhà lập
pháp nhìn từ giác độ của trật tự công cộng, có nghĩa là hợp đồng sẽ vô
hiệu, nếu chống lại trật tự công cộng. Tuy nhiên nhận thức hay giải
thích khái niệm trật tự công cộng cũng có những khác biệt nhất định
trong các nền tài phán khác nhau, ở những thời điểm lịch sử khác nhau.
Chẳng hạn: trong Quốc triều Hình luật của Việt Nam trước kia, mặc dù đã
có những qui định buộc thi hành hợp đồng (có nghĩa là có khuynh hướng tự
do ý chí), nhưng cũng đã đưa ra nhiều qui định hạn chế tự do ý chí của
các thần dân thể hiện tại Điều 41, Chương Tạp luật với qui định người
Kinh không được cho người Man Liêu vay nợ, trái luật thì xử biếm hai tư; số tiền cho vay phải xung công.
Các qui định như vậy nhằm bảo đảm đời sống chung của
cộng đồng, nhưng đôi khi được giải thích theo hai hướng khác nhau. Một
khuynh hướng cho rằng sự duy trì các qui định như vậy nhằm hạn chế bớt
một phần của tự do cá nhân vì một lợi ích lớn hơn là sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Một khuynh hướng khác lại lập luận, khái niệm trật tự
công cộng được hình thành từ thế kỷ XIX nhằm bảo đảm tự do cá nhân và sở
hữu cá nhân trong trường hợp cần thiết.
Các nghiên cứu trên cho phép chúng ta đi đến nhận
định học thuyết tự do ý chí có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhằm
biến các dự định hoặc kế hoạch trở thành hiện thực – một trong những
chức năng quan trọng của pháp luật nói chung – bởi học thuyết này giúp
cho các chủ thể hợp đồng ý thức được sự cưỡng chế của toà án đối với các
nghĩa vụ hợp đồng, do đó, các dự định hay kế hoạch của các chủ thể đã
được toan tính trước và thể hiện phần nào đó qua hợp đồng được thực
hiện.
II. Những giới hạn và hậu quả của tự do ý chí
Dù sao cũng phải thấy rằng, học thuyết tự do ý chí có
những nhược điểm nhất định. Nó không thể giải quyết được một cách thoả
đáng những mối quan hệ xã hội phức tạp ngày nay khi mà con người sống
trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà vị thế kinh tế, xã hội của mỗi người
không hoàn toàn ngang bằng, khi mà một nền kinh tế tự do hoàn toàn
không thể duy trì được nữa. Chính vì vậy, nhà làm luật phải vào cuộc để
đưa ra khá nhiều các qui định có tính chất bắt buộc, dù chúng điều tiết
các quan hệ tư, có nghĩa là tự do ý chí bị hạn chế. Theo Boris Starck,
ngày nay nhiều loại hợp đồng thực chất được nhà làm luật soạn thảo như:
hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng lao động, hợp đồng thành lập công ty, có
nghĩa là họ chi tiết hoá các điều kiện của hợp đồng tới mức có thể trong
văn bản pháp luật và đòi hỏi sự tuân thủ của các bên giao kết[15]. Tỉ
lệ những nghĩa vụ phát sinh từ nguồn gốc hợp đồng giảm xuống đáng kể so
với những nghĩa vụ phát sinh từ các nguồn gốc khác như hành vi pháp lý
đơn phương, vi phạm, nghĩa vụ pháp định. Người ta còn có nhận xét rằng,
chủ nghĩa ưng thuận được xây dựng trên nền tảng của tự do ý chí xem sự
thống nhất về ý chí là đủ để làm phát sinh nghĩa vụ, không kể tới hình
thức của nó, đã phải nhường bước phần nào cho chủ nghĩa coi trọng hình
thức. Có thể nói, ngày nay hình thức văn bản của hợp đồng đã được chú
trọng ở Việt Nam. Ngoài ra, các hình thức ràng buộc khác cũng thường
xuyên được tìm thấy hơn trong các đạo luật tư. Tuy nhiên, đây là một vấn
đề pháp lý vẫn còn được tranh luận khá sôi nổi không chỉ ở Việt Nam
hiện nay, mà còn ở các nước khác trên thế giới.
Thuật ngữ tự do ý chí được viết bằng tiếng Anh là will autonomy mà trong đó từ autonomy có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp cổ đại bao gồm từ nomos có nghĩa là luật (một người định ra luật cho bản thân anh ta). Vì vậy autonomy
thường được hiểu là quyền của một người tự điều chỉnh bản thân
mình[16]. Thuật ngữ này được sử dụng trong các lĩnh vực đạo đức, triết
học, luật học, và chính trị học. Tuy nhiên, tự do ngày nay được nhắc tới
với những hạn chế nhất định phụ thuộc vào sự tự nguyện của chính chủ
thể, vào quyền lực lớn hơn hoặc khả năng thực hiện của chủ thể. Vì vậy,
tự do không có nghĩa tuyệt đối mà được giải thích phù hợp với hoàn cảnh.
Nên hạn chế tự do ý chí cũng có nghĩa tương đối, nhưng là một lẽ phải
trong nghĩa đối lập với tự do. Dù sao người ta cũng hy vọng ý chí được
thể hiện ra một cách tối đa mà pháp luật quy định cho mỗi cá nhân. Song
nói rằng ý chí là hoàn toàn độc lập thì điều đó có nghĩa là chúng ta
đang sống mà không cần có pháp luật[17].
Trong việc phán xử vụ Lochner v. New Tork như đã nêu,
không phải tất cả các thẩm phán liên quan đều nhất trí với phán quyết
rằng, qui định của New York về thời gian làm việc của những người làm
bánh mỳ không phải là sự hạn chế chính đáng quyền tự do hợp đồng theo
Sửa đổi thứ mười bốn về bảo đảm tự do. Người đưa ra ý tưởng cho phán
quyết này là thẩm phán Rufus Wheeler Peckham. Ý tưởng được ủng hộ bởi
các thẩm phán Melville Fuller, David Josiah Brewer, Henry Billings
Brown, Joseph McKenna. Những thẩm phán bất đồng quan điểm là thẩm phán
John Marshall Harlan, được ủng hộ bởi các thẩm phán Edward Douglass
White và William R. Day. Thẩm phán Oliver Wendell Holmes bất đồng ý kiến
theo hướng khác. Phán quyết được đưa ra với một phiếu chênh lệch[18],
tức là không phải ai cũng sẵn sàng cho tự do kiểu đó, kể cả khi đã cân
nhắc kỹ lưỡng. Điều đó cũng có thể được hiểu là có những ý tưởng hạn chế
tự do ý chí tiềm ẩn ngay cả khi học thuyết này được thừa nhận rộng rãi
nhất.
Đi khá xa khỏi trào lưu tự do hợp đồng vô giới hạn ở
thế kỷ XIX, quyền giao kết hợp đồng vẫn được duy trì như một nguyên tắc
cơ bản ở Hoa Kỳ hiện nay, nhưng bị bao bọc bởi sự gia tăng các hạn chế
do pháp luật qui định đối với tự do hợp đồng. Hai loại hợp đồng bị hạn
chế tự do hợp đồng điển hình là hợp đồng lao động bị kiểm soát bởi pháp
luật liên bang và pháp luật tiểu bang với các qui định về tiền lương tối
thiểu, thời gian và điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội; và hợp đồng
bảo hiểm bị kiểm soát bởi các văn bản pháp luật với các qui định về các
điều kiện của hợp đồng[19].
Hạn chế tự do ý chí đồng nghĩa với sự can thiệp của
nhà nước vào khu vực quyền lợi tư. Nhưng sự can thiệp này lại là một sự
cần thiết trước hết vì đời sống chung của cộng đồng. Chủ nghĩa can thiệp
còn được thể hiện trên một bình diện rộng hơn, đó là toàn bộ nền kinh
tế. Đầu tiên, nhà lập pháp chỉ quy định việc bảo vệ đối với những người
giao kết hợp đồng yếu thế trước các đối tác mạnh hơn họ. Những người làm
công được trả lương, các bảo đảm đối với họ với tư cách là một tính
chất của trật tự công được pháp luật về lao động quy định; sau đó tất cả
mọi người đều được bảo hộ thông qua các hợp đồng đặc thù đối với từng
lĩnh vực, chẳng như người thuê, người chủ trang trại, những người đi
vay, những người được bảo đảm đối với các thảm hoạ tự nhiên[20].
Sự cần thiết hạn chế bớt tự do ý chí có thể được xem xét bởi ba lý do sau: Lý do thứ nhất
là nhu cầu cân đối giữa lợi ích của cá nhân thông qua ý muốn của họ với
lợi ích chung của cộng đồng, bởi (1) một mặt con người cần được tự do
để phát triển đầy đủ và toàn diện đúng với mục đích sống của mình; (2)
mặt khác cộng đồng cần phải được duy trì và phát triển để trở thành cái
nôi nuôi dưỡng thực sự cho các ước vọng chung của con người và của mỗi
cá nhân. Lý do thứ hai là nhu cầu bảo vệ những người yếu thế trong xã hội hay trong một giao dịch cụ thể. Lý do thứ ba
là nhu cầu phát triển kinh tế có trật tự và đúng hướng theo sự lựa chọn
chung. Tuy nhiên có quan điểm chỉ nói tới lý do lợi ích công cộng trong
việc hạn chế quyền tự do giao kết hợp đồng[21].
Hạn chế tự do ý chí được nghiên cứu trên nhiều phương
diện. Về phương diện pháp lý, người ta thường nghiên cứu hạn chế tự do ý
chí trong vấn đề như tự do giao kết hợp đồng, tự do không giaokết hợp
đồng, tự do ấn định nội dung của hợp đồng, tự do rút lui khỏi hợp đồng.
Hạn chế tự do giao kết hợp đồng
Hành vi pháp lý vô hiệu thường là trọng tâm nghiên
cứu của sự hạn chế này. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, các qui định
về hành vi pháp lý vô hiệu tập trung tại Chương VI của Bộ luật Dân sự
2005. Ngoài ra, còn nhiều qui định khác nằm rải rác ở các chương khác
của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác trong cả lĩnh vực luật
công và luật tư.
Sự hạn chế trước tiên được diễn đạt dưới giác độ pháp
lý là nhằm bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Hiểu rằng linh
hồn của pháp luật (giống như các học thuyết về xã hội) luôn luôn và bao
giờ cũng có một hạt nhân quan trọng nhất hay một vấn đề duy nhất, suy
cho cùng cần phải giải quyết – đó là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng
đồng. Có học thuyết quá đề cao cộng đồng. Ngược lại có học thuyết quá đề
cao cá nhân. Dù sao cộng đồng và cá nhân cùng phải được tồn tại và phát
triển một cách lành mạnh và thích đáng. Vậy người ta cần phải cân đối
giữa chúng, tuy nhiên rất khó và không hoàn toàn giống nhau ở mọi nơi,
mọi lúc. Mối quan hệ này và sự cân đối này, về mặt hình thức, được thể
hiện ở mối quan hệ và sự cân đối giữa nhà nước (đại diện cho cộng đồng)
và cá nhân. Các nghiên cứu ở trên cho thấy, học thuyết tự do ý chí có
nguồn gốc từ trường phái luật tự nhiên nhằm bảo vệ tự do của cá nhân con
người chống lại sự can thiệp của nhà nước. Vậy nói tới sự hạn chế tự do
ý chí đồng nghĩa với nói tới việc cân đối giữa cá nhân và cộng đồng.
Nhưng sự hạn chế này chỉ chính đáng khi nhà nước (người đại diện cho
cộng đồng) có được lý do chính đáng từ phía cộng đồng. Bảo đảm trật tự
công cộng và đạo đức xã hội có lẽ là các lý do chính đáng đó.
Pháp luật Việt Nam hiện nay có lẽ nghi ngại thuật ngữ
trật tự công cộng, có thể bởi tính trừu tượng của nó, nên đã làm cho
phức tạp hơn trong việc sử dụng lý do chính đáng này. Điều 389, khoản 1,
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định: “Tự do giao kết hợp đồng nhưng
không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Theo Roland
Amoussou-Guénou, điều kiện không được trái pháp luật và đạo đức xã hội
trong tự do giao kết hợp đồng của các qui định này có thể tương ứng với
khái niệm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục trong pháp luật của
Pháp[22]. Có lẽ đó chỉ là cách phê phán bóng bẩy, bởi nhiều khi trái hay
khác với các qui định pháp luật trong lĩnh vực luật tư không có nghĩa
chống lại trật tự công cộng.
Điều 6, Bộ luật Dân sự Pháp qui định: “Không thể,
thông qua các giao ước cụ thể, làm trái với pháp luật liên quan tới trật
tự công cộng và thuần phong mỹ tục”. Theo cách thức này Bộ luật Dân sự
Bắc Kỳ 1931 qui định: “Không ai được lấy tư – ước mà làm trái với pháp –
luật thuộc về trật – tự và phong – tục chung” (Điều thứ 10). Trong khi
đó, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 lại qui định: “Phàm dân ta giao – ước
với nhau sự gì mà làm trái với pháp – luật, với trật – tự hay là với
phong – tục đều cho là vô – hiệu” (Điều thứ 10). Các điều luật trích dẫn
này có thể được phân làm hai loại khác nhau căn cứ vào nội dung của lý
do ngăn cấm. Loại thứ nhất bao gồm các qui định trong Điều 6 của Bộ luật
Dân sự Pháp và các qui định trong Điều thứ 10, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ
1931. Trong loại này, hạn chế tự do ý chí chỉ dừng lại ở lý do chống lại
trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục. Loại thứ hai bao gồm các qui
định trong Điều 389, khoản 1, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 và các qui
định trong Điều thứ 10, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936. Hai Bộ luật này
(trong lời văn) đã mở rộng phạm vi hạn chế tự do ý chí bằng lý do không
cho phép làm trái với pháp luật. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936
có phân loại rõ hơn các lý do hạn chế là trái pháp luật, trái trật tự,
và trái phong tục. Còn Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 không có sự phân
biệt giữa trái pháp luật và trái trật tự công cộng. Nói cách khác, Bộ
luật Dân sự Việt Nam 2005 không nhắc tới thuật ngữ trật tự công cộng.
Chưa cần xét đến hoàn cảnh ra đời, chúng ta có thể thấy lời văn của Điều
thứ 10, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 bộc lộ sự bị áp bức, do đó dân ta
bị hạn chế tối đa các quyền tự do.
Nhìn trong tổng thể, chúng ta thấy những người xây
dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 chưa có tư tuởng nhất quán trong việc
thể hiện nguyên tắc tự do ý chí và hạn chế tự do ý chí. Trong khi thu
hẹp nguyên tắc tự do ý chí tại Điều 389, khoản 1, thì lại mở rộng tự do ý
chí tối đa tại Điều 122, khoản 1[23] bằng cách thu hẹp tối thiểu lý do
hạn chế tự do ý chí. Theo tinh thần của Điều 122, khoản 1 này, chúng ta
có thể hiểu nhà làm luật chỉ tuyên bố vô hiệu đối với các giao dịch có
mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã
hội. Lẽ dĩ nhiên pháp luật chỉ cấm khi có khả năng chống lại trật tự
công cộng. Điều luật này cho thấy chỉ mục đích và nội dung của giao dịch
vi phạm điều cấm của pháp luật mới bị tuyên bố vô hiệu, còn các vấn đề
khác của giao dịch chống lại điều cấm của pháp luật không thể bị tuyên
bố vô hiệu. Điều luật này đã dẫn tới các giải pháp được qui định tại
Điều 128 và các điều khoản khác của Bộ luật này.
Chưa bàn đến sự đúng sai, chúng ta thấy Bộ luật Dân
sự Việt Nam 2005 đã dễ dàng định nghĩa điều cấm của pháp luật[24], và
người dân dễ dàng biết được các điều cấm bởi các điều cấm thường được
qui định một cách minh thị trong các văn bản pháp luật hoặc nếu không
được chứa đựng trong các văn bản thì chúng luôn luôn được truyền bá công
khai. Nhưng đối với trật tự công cộng thì khó có thể đưa ra một định
nghĩa và cũng khó có thể nhận biết được một cách rõ ràng. Hội đồng bảo
hiến của Pháp thường nhắc tới trật tự công cộng, song chưa bao giờ định
nghĩa nó. Tuy nhiên các giải thích về trật tự công cộng thông qua các
phán quyết của Hội đồng bảo hiến rất dễ nắm bắt khiến bất cứ ai cũng
hiểu mà không cần định nghĩa chính xác[25]. Vũ Văn Mẫu cho rằng, Bộ luật
Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 và Bộ luật Dân sự Pháp
đã thừa nhận ý niệm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục mà các khế
ước cá nhân cần phải tôn trọng, nhưng nhà làm luật không định nghĩa rõ ý
niệm này, do vậy, toà án sẽ có nhiệm vụ hoạch định giới hạn của hai ý
niệm này tuỳ theo nhu cầu và tình trạng xã hội. Ông còn nói rõ, nhờ có
quan niệm mềm dẻo như vậy án lệ của Pháp đã ngăn cản không để cho sự tự
do kết ước của cá nhân xâm phạm tới lợi ích chung. Thực tế án lệ của
Pháp có xu hướng mở rộng dần ý niệm trật tự công cộng, ngay cả những qui
định liên quan tới tài chính và tín dụng công cộng đều được xem là trật
tự công[26]. Các quyết định của Hội đồng bảo hiến của Pháp có khuynh
hướng xem trật tự công cộng như tấm lá chắn bảo vệ một số quyền tự do cơ
bản nhất của con người và tuyên bố: “Ngăn chặn các vi phạm trật tự công
cộng là cần thiết để bảo vệ các quyền hiến định”[27].
Đối với hạn chế tự do giao kết hợp đồng, ngoài vấn đề
hạn chế bởi trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, việc hạn chế lựa
chọn người giao kết hợp đồng cũng được chú ý nghiên cứu và thể hiện
trong luật thực định. Thông thường người ta có quyền tự do lựa chọn
người giao kết hợp đồng với mình. Tuy nhiên để bảo vệ người yếu thế hoặc
người thứ ba, hoặc bởi các lý do khác, pháp luật có thể qui định ngăn
cản việc giao kết hợp đồng với một số người nhất định hoặc phải ưu tiên
giao kết hợp đồng với một số người nhất định. Chúng ta thường bắt gặp
các qui định này trong các vấn đề pháp lý như ưu tiên mua nhà đang thuê,
chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty đối nhân, bảo vệ cổ đông
thiểu số hay bảo vệ người ít vốn trong các công ty, thuê mướn người lao
động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, vận chuyển hành khách. Tuy
nhiên các qui định như vậy ở Việt Nam chưa được chú ý đến một cách thích
đáng với một ý tưởng xuyên suốt.
Hạn chế tự do không giao kết hợp đồng
Tự do hợp đồng được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau
của sự lựa chọn của chủ thể. ở khía cạnh tích cực, chủ thể có quyền lựa
chọn người giao kết hợp đồng với mình, và có quyền lựa chọn ấn định hay
thay đổi các điều kiện của hợp đồng trong sự thoả thuận với bên kia. ở
khía cạnh tiêu cực, chủ thể có quyền lựa chọn không giao kết hợp đồng,
và có quyền lựa chọn rút lui khỏi hợp đồng sau khi đã cân nhắc tới các
hậu quả bất lợi cho việc đó (tuy nhiên theo chúng tôi, đây là một điểm
tranh luận). Khi nói tới tự do hợp đồng là nói tới các khía cạnh đó. Nói
tới hạn chế tự do hợp đồng thì phải nói tới sự hạn chế trên các khía
cạnh đó. Tuy nhiên, việc rút lui hay bỏ mặc hợp đồng luôn luôn bị hạn
chế bằng các chế tài vi phạm hợp đồng để bảo đảm cho hợp đồng có nghĩa
đúng với nó.
Việc từ chối giao kết hợp đồng bị hạn chế trong nhiều
trường hợp. Đối với người cung cấp dịch vụ công cộng không được từ chối
giao kết hợp đồng nếu còn khả năng cung cấp dịch vụ và phải mở ra cho
tất cả mọi người đều có cơ hội như nhau trong việc mua hoặc sử dụng dịch
vụ. Người giao kết hợp đồng không được từ chối giao kết hợp đồng vì lý
do sắc tộc, tôn giáo hay quốc tịch… Thương nhân phải cung cấp hàng hoá
hay dịch vụ đã quảng cáo[28].
Hạn chế tự do ấn định nội dung của hợp đồng
Tự do lựa chọn nội dung của hợp đồng bao gồm tự do ấn
định các điều kiện của hợp đồng và tự do thay đổi các điều kiện của hợp
đồng. Các tự do này ngày nay bị hạn chế rất rõ rệt. Sự phát triển của
các hợp đồng gia nhập đã dẫn tới việc thủ tiêu phần lớn sự tự do thoả
thuận các điều kiện của hợp đồng và dẫn tới cách thực hành tư pháp có sự
khác biệt trong việc giải thích các điều kiện của hợp đồng nghiêng về
phía người yếu thế về kinh tế. Pháp luật cũng đòi hỏi phải ấn định các
điều kiện bắt buộc cho nhiều loại hợp đồng hợp đồng lao động, hợp đồng
công ty, hợp đồng bảo hiểm, các loại hợp đồng có đối tượng là quyền sử
dụng đất… Trong việc thực hiện hợp đồng, nguyên tắc pacta sunt servanda
cũng bị điều giảm với nhiều trường hợp liên quan tới khó khăn kinh tế
của người thụ trái hoặc lưu cư đối với người thuê nhà[29]…
III. Ý nghĩa của tự do ý chí đối với Việt Nam hiện nay
Có lẽ ai cũng nhận thức được rằng, trước khi có sự
phát triển của chủ nghĩa tự do ý chí, hợp đồng (với tính cách là một chế
định pháp lý và với tính cách là một phương tiện thực tiễn) đã tồn tại
và phát triển theo suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người kể từ
khi họ bắt đầu biết tổ chức thành cộng đồng, và ngày nay, khi vai trò
của tự do ý chí bị giảm sút, thì hợp đồng vẫn giữ một vị trí quan trọng
và không giảm đi ý nghĩa to lớn của nó đối với đời sống con người. Vậy
giá trị của tự do ý chí lắng đọng ở đâu? Có lẽ tự do ý chí có một giá
trị nổi bật là hạn chế sự can thiệp của chính quyền vào tự do của công
dân, bên cạnh những giá trị quan trọng khác. Ý tưởng tự do ý chí ra đời
thực sự nhằm tới mục tiêu mở rộng tối đa các quyền tự do đối với tài sản
và các lợi ích của tư nhân và thu hẹp tối đa sự can thiệp của chính
quyền vào khu vực tư nhân. Theo Common Law, tự do hợp đồng là quyền tự
do tối đa của các chủ sở hữu trong việc quản lý và định đoạt những gì
của họ[30]. Từ đây chúng ta nên cân nhắc việc sử dụng học thuyết tự do ý
chí một cách thích đáng phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam.
Thoát ra từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu bao cấp, nơi mà nhà nước cố gắng can thiệp tối đa vào mọi quan
hệ xã hội, Việt Nam hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị trường với
những ý tưởng tốt đẹp về tự do kinh doanh. Cho nên, đề cao tự do ý chí
có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ, thúc
đẩy tự do kinh doanh. Việc hạn chế tự do ý chí cần phải được cân nhắc
một cách nghiêm túc, tỉ mỉ và chỉ sử dụng khi thật cần thiết, tránh chạy
theo khuynh hướng của những nước phát triển. Tự do ý chí là một lĩnh
vực thuộc tư tưởng luật tự nhiên – nền tảng của Nhà nước pháp quyền (một
mục tiêu mà Việt Nam đang hướng tới). Vậy việc sử dụng nó là một trong
những nấc thang để vươn tới mục tiêu này. Ai cũng biết nhà nước vốn mạnh
hơn nhiều so với cá nhân. Vì thế, để bảo đảm cho cơ sở đạo đức của pháp
luật (chính là sự bênh vực kẻ yếu thế hơn trong một quan hệ nhất định –
cái triết lý sống ở đời), và hơn nữa xét từ cái logic thông thường cộng
đồng được tạo dựng nên từ các cá nhân và pháp luật thì áp dụng cho tất
cả mọi người, nên người ta thiết lập một hệ thống các phương tiện kiềm
chế hay giới hạn quyền lực của nhà nước, trong đó có tự do ý chí. Do đó,
điểm quan trọng nhất cho cải cách pháp luật là nhận thức và thể hiện
đầy đủ các phương thức của nhân dân giới hạn quyền lực của nhà nước để
bảo đảm cho nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Dù là một nguyên tắc bao trùm, song tự do ý chí còn
phụ thuộc vào một số ngoại lệ mà cũng được xem là các nguyên tắc. Chẳng
hạn, các ngoại lệ được người Mỹ nhấn mạnh bao gồm thiện chí, chuyên cần,
hợp lý và thận trọng, ngoài ra còn sự loại trừ những khác biệt dứt
khoát và ngầm định giữa các qui tắc của luật thương mại và hợp đồng[31].
Những nguyên tắc này phát triển hạn chế tự do ý chí khi mà xã hội công
nghiệp và hậu công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của các dạng hợp đồng
gia nhập và đòi hỏi sự bảo đảm trật tự công cộng, đạo đức xã hội. Ý thức
được một cách đầy đủ các nguyên tắc có tính cách khác biệt này là rất
cần thiết và có ý nghĩa lớn trong việc tiếp nhận học thuyết tự do ý chí ở
Việt Nam hiện nay.
Cùng với các nguyên tắc trên, pháp luật phải thể hiện
được một cách nhuần nhuyễn nguyên tắc tự do kinh doanh. Tại Việt Nam,
Hiến pháp 1992 tuyên bố nguyên tắc này trong Điều 57 và Bộ luật Dân sự
2005 cũng nhắc tới nó tại Điều 50, tuy nhiên có sự sai biệt đôi chút
giữa chúng về sự nhận thức. Phải nhận định rõ rằng, sự bảo đảm tự do
kinh doanh bằng các tố quyền chưa được nhắc đến trong các luận giải của
hai điều luật nói trên. Sự bảo đảm bằng tố quyền là đặc trưng quan trọng
của pháp luật giúp cho các quyền được thực thi nghiêm chỉnh trên thực
tế. Bên cạnh đó, nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế có ý
nghĩa rất thiết thực cho việc bảo đảm các nguyên tắc kể trên.
Tóm lại, cần lưu ý tới tự do ý chí một cách
thích đáng, phù hợp với hoàn cảnh và các mục tiêu của Việt Nam như đã
phân tích ở trên, đồng thời có những qui định thích hợp hạn chế vừa đủ
tự do ý chí nhằm bảo đảm trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Tuy nhiên
tự do kinh doanh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được
nhấn mạnh. /.
[1] Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005, tr. 175
[2] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, TroisiÌme Ðdition, Litec, 1989, p. 3
[3] Edward Younkins, Freedom to contract, Liberty Free Press, June 15, 2000,[http://www.quebecoislibre.org/younkins25.html], 2/2/2008
[4]
Vũ Văn Mẫu, Việt nam Dân luật lược khảo -Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước,
In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 84
[5] Andreas Abegg and Annemarie Thatcher, “Review essay- Freedom of contract in the 19th Century: Mythology and silence of the sources, German Law Journal, No. 1 (1 January 2004)
[6] Lee Boldeman, The Cult of the Market: Economic Fundamentalism and its Discontents, [http://epress.anu.edu.au/cotm/mobile_devices/index.html], 2/7/2008
[7] Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract, [http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
[8] Lee Boldeman, The Cult of the Market: Economic Fundamentalism and its Discontents, [http://epress.anu.edu.au/cotm/mobile_devices/index.html], 2/7/2008
[9] Wikipedia, the free encyclopedia, Lochner v. New York, [http://en.wikipedia.org/wiki/Lochner v. New York], 2/7/2008
[10] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 4
[11] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 4-5
[12] Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract, [http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
[13] Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract, [http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
[14] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 6
[15] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 9
[16] Wikipedia, the free encyclopedia, Autonomy, [http://en.wikipedia.org/wiki/Autonomy], 2/2/2008
[17] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 8
[18] Wikipedia, the free encyclopedia, Lochner v. New York, [http://en.wikipedia.org/wiki/Lochner_v.NewYork], 2/7/2008
[19] John D. Calamari, Joseph M. Perillo, The Law of Contracts, Third edition, West Publishing Co., USA, 1987, p. 6
[20] Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 10
[21] Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 401
[22]
Roland Amoussou- Guénou, “Triển vọng phát triển các nguyên tắc pháp
luật hợp đồng Asean (hoặc Châu Á)”, Hội thảo hợp đồng thương mại quốc
tế- Tham luận, Hội thảo do Nhà pháp luật Việt- Pháp tổ chức tại Hà Nội
từ ngày 13- 14 tháng 12 năm 2004, tr. 10
[23] Điều 122 qui định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có qui định”
[24]
Điều 128, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Điều cấm của pháp
luật là những qui định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện
những hành vi nhất định”
[25]
Conseil constitutionnel, “The main criteria for restricting human
rights in the judicial practice of constitutional law”, Human Rights and
Public Order, Eighth seminar of constitutional courts, Erevan, 2 to 5
October 2003
[26]
Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước,
In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 86
[27]
Conseil constitutionnel, “The main criteria for restricting human
rights in the judicial practice of constitutional law”, Human Rights and
Public Order, Eighth seminar of constitutional courts, Erevan, 2 to 5
October 2003
[28] Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 401- 402
[29]
Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước,
In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 90
[30]
Harry N. Scheiber, The State and the freedom of contract, Stanford
University Press, Stanford- California, USA, 1998, pp. 3; 123
[31] Bradford Stone, Uniform Commercial Code, Third Edition , ST. Paul, Minn. West Publishing Co., 1989, p. 8
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 115 THÁNG 2 NĂM 2008
0 comments:
Post a Comment