THS. NGUYỄN THỊ LAN – KHOA LUẬT DÂN SỰ – ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
“Giới là một
phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới.
Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam
giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế xã hội…”.([1])
Trong xã hội hiện đại ngày nay, sự bất bình đẳng về giới vẫn tồn tại
một cách dai dẳng, không chỉ ở các quốc gia kém phát triển mà ở cả những
quốc gia phát triển. Sự bất bình đẳng này luôn được bắt nguồn từ những
lí do về mặt xã hội. Xoá bỏ sự bất bình đẳng giới là một yêu cầu xã hội
được các trào lưu tiến bộ xã hội hết sức coi trọng. Trong quá trình
nghiên cứu và giảng dạy môn học Luật hôn nhân và gia đình, sự hiểu biết
về giới, vận dụng kiến thức về giới trong chu trình đào tạo khép kín của
môn học này là vô cùng cần thiết và bổ ích.
Trong mối liên hệ về giới thì môn học Luật hôn nhân
và gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng. Hôn nhân và gia đình là vấn
đề rất tế nhị nhưng cũng không kém phần phức tạp, là đối tượng nghiên
cứu của rất nhiều ngành khoa học trong đó có luật học. Ngay từ khi xã
hội loài người vừa mới hình thành thì vấn đề giới đã thể hiện rất rõ
trong các tập đoàn người thời nguyên thuỷ. Đầu tiên, đó là sự thống trị
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, rồi sau đó do sự thay đổi về
các điều kiện kinh tế, ý thức xã hội, phong tục, tập quán, khi xuất hiện
nhà nước thì địa vị của người đàn ông đã được thay đổi và thay vào đó
là chế độ phụ quyền: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới phụ nữ”.([2]) Kể từ đó chế độ phụ quyền đã tồn tại một cách dai dẳng theo sự phát triển của xã hội loài người. Và “sự
đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử trùng với sự phát
triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ, trong hôn nhân cá thể, sự áp
bức đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà… biểu lộ
rõ ràng mâu thuẫn giữa người đàn ông với người đàn bà, kết quả thống
trị độc nhất của chồng là một hình ảnh thu nhỏ của những mặt đối lập và
những mâu thuẫn trong đó, từ đầu thời kì văn minh, xã hội chia thành
giai cấp vẫn vận động mà không thể nào giải quyết được…”.([3])
Như vậy, sự bất bình đẳng giới đầu tiên chính là từ gia đình, trong gia
đình mà gia đình lại là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết
cấu của xã hội. Một xã hội đạt được sự bình đẳng giới thì trước tiên
trong mỗi gia đình các thành viên phải được bình đẳng với nhau về quyền
và nghĩa vụ. Mục tiêu này, dưới góc độ pháp lí, sẽ phụ thuộc vào sự
tuyên truyền những kiến thức pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân
và gia đình nói riêng. Nhìn từ góc độ giới, môn học Luật hôn nhân và gia
đình có thể được coi là một trong những môn học tiên phong của quá
trình đưa những nội dung về giới vào chương trình nghiên cứu và đào tạo
luật.
Môn học luật hôn nhân và gia đình trong một chừng mực
nhất định đã được các nhà quản lí nhìn nhận, có vị trí quan trọng bên
cạnh những môn học khác, đây là một trong những môn học truyền thống của
chương trình đào tạo luật ở tất cả các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam.
Tại Trường Đại học Luật Hà Nội, trước đây, môn học luật hôn nhân và gia
đình thuộc Khoa tư pháp, trực thuộc bộ môn luật dân sự gồm ba phân môn
là luật dân sự, luật tố tụng dân sự và luật hôn nhân và gia đình. Sau
đó, trong quá trình phát triển, chuyên môn hóa thì môn học này đã được
tách thành một bộ môn riêng. Trong môn học này, đối với hệ đào tạo chính
quy thì ngoài chương trình cơ bản còn có ba chuyên đề trong đó chuyên
đề “chế định tài sản của vợ chồng” (30 tiết, chương trình bắt buộc) và
hai chuyên đề “thủ tục nhận nuôi con nuôi theo Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam” (20 tiết) và “pháp luật hôn nhân và gia đình của một số nước
trên thế giới (20 tiết, chương trình tự chọn). Đặc biệt, là một trong
những môn thi tốt nghiệp, tương đối thường xuyên đối với các lớp trung
cấp luật – đối tượng chủ yếu là những cán bộ tư pháp ở các xã, phường,
vùng sâu, vùng xa… nơi mà hàng ngày họ phải giải quyết rất nhiều các vấn
đề liên quan đến hôn nhân và gia đình. Như vậy, có thể thấy rằng việc
nghiên cứu môn học này ngày càng mang tính chất chuyên sâu, đảm bảo chất
lượng dạy và học. Xét dưới góc độ giới, đây cũng là cách nhìn mới đối
với tầm quan trọng của môn học này. Mặt khác, nhìn từ góc độ người học,
hầu hết sinh viên (gồm sinh viên hệ chính quy và hệ tại chức) rất hứng
thú với môn học này. Bởi môn học này gắn liền với cuộc sống của mỗi con
người, đặc biệt đối với học viên hệ tại chức, họ có thể là những cán bộ
thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật, hàng ngày phải giải quyết rất
nhiều các vụ việc liên quan đến yếu tố giới, những vụ việc về hôn nhân
và gia đình… Việc nghiên cứu và giảng dạy môn học này không chỉ cung cấp
cho người học những kiến thức chuyên ngành luật mà còn giúp cho người
học ý thức được trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình và xã hội, xoá
bỏ những định kiến giới truyền thống và dần hình thành những chuẩn mực
hành vi trên cơ sở bình đẳng giới.
Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình luôn
mang đậm màu sắc giới. Vì vậy, trong chương trình giảng dạy môn học luật
hôn nhân và gia đình có rất nhiều nội dung có thể khai thác dưới góc độ
giới.
Thứ nhất, hệ thống các nguyên tắc cơ bản của
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam trong đó có nguyên tắc áp dụng phong
tục, tập quán về hôn nhân và gia đình, đây là nguyên tắc nhằm giữ gìn
và phát huy những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc văn hoá tốt đẹp
của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn
nhân và gia đình. Ở nguyên tắc này, có thể đề cập rất nhiều các phong
tục tập quán của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, nơi mà
những kiến thức về giới không được biết đến hoặc chỉ là những khái niệm
rất mơ hồ. Việc đi sâu nghiên cứu và tìm ra phương pháp tiếp cận vấn đề
để thiết kế bài giảng gắn liền giữa phong tục tập quán với kiến thức về
giới sẽ làm cho bài giảng sinh động và cuốn hút người học hơn. Hiện nay,
pháp luật hôn nhân và gia đình đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các
phong tục, tập quán có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống hôn nhân và gia
đình của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó ghi nhận những phong tục,
tập quán tốt đẹp thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc của từng vùng, từng dân
tộc, thể hiện sự bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình. Bên cạnh
đó cũng đề cập những tập tục lạc hậu cần thiết phải xóa bỏ…
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng; nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
của cha mẹ và con; nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ
thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ. Đây là những nguyên tắc
cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Việc khai thác khía cạnh về giới
trong các nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp. Sự phát triển của những
nguyên tắc này trong suốt quá trình lịch sử đã thể hiện rất rõ sự nhận
thức về giới. Việc lồng ghép những kiến thức về giới vào từng nguyên tắc
sẽ giúp cho người học có tầm nhìn bao quát hơn về các vấn đề cơ bản của
luật hôn nhân và gia đình và tiếp cận vấn đề dễ dàng hơn. Nghiên cứu
dưới góc độ giới sẽ làm cho các nguyên tắc này không còn khô cứng mà đầy
sức thuyết phục và hấp dẫn.
Thứ hai, các chế định cụ thể của luật hôn
nhân và gia đình có thể khai thác được dưới góc độ giới như chế định kết
hôn, li hôn, quan hệ pháp luật giữa vợ chồng, xác định cha, mẹ, con,
nuôi con nuôi…
Chế định kết hôn có thể đi sâu vào một vấn đề rất
nhạy cảm đó là tự nguyện trong việc kết hôn, điều này thể hiện rất rõ
quan điểm giới. Đặc biệt có thể khai thác yếu tố tự nguyện trong thực
tiễn khi tình trạng kết hôn với người nước ngoài gia tăng đột biến trong
thập niên vừa qua, hàng năm có rất nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài mà chủ yếu là các công dân Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, trong đó, nguyên nhân chủ yếu của việc kết hôn này là vì mục đích
kinh tế. Khi nhìn từ góc độ giới, người học sẽ thấy rõ hơn mục đích
không lành mạnh của sự tự nguyện kết hôn này.
Chế định li hôn có một vấn đề khá thú vị và phù hợp
nếu lồng những nội dung về giới vào quá trình nghiên cứu và giảng dạy.
Đó là trường hợp hạn chế quyền yêu cầu li hôn của người chồng khi người
vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Thực chất
của vấn đề sẽ được mổ xẻ, giúp người học hiểu sâu sắc vấn đề và vận
dụng kiến thức một cách linh hoạt. Ngoài ra, chế định li hôn còn rất
nhiều những nội dung mà có thể khai thác được dưới góc độ giới như các
nguyên nhân li hôn, căn cứ li hôn, các trường hợp li hôn và hậu quả pháp
lí của li hôn. Những vấn đề này có thể kết hợp với thực tiễn xét xử để
thấy được một bức tranh toàn cảnh của gia đình khi không nhận thức được
đầy đủ trách nhiệm về giới.
Đối với quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, đây là
một nội dung trọng điểm, mang đậm màu sắc giới khi nghiên cứu trên hai
khía cạnh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và đối với những
chủ thể khác như đối với con, cha mẹ… Những nội dung này sẽ giúp cho
người học một cái nhìn toàn diện về sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng trong gia đình cùng sự so sánh với tình trạng vi phạm quyền
bình đẳng giới trên thực tế.
Trong chế định xác định cha, mẹ, con có thể đặc biệt
quan tâm đến vấn đề thể hiện rất rõ kiến thức về giới đó là thiên chức
của mỗi chủ thể, xuất phát từ sự khác nhau về giới tính. Trong đó tập
trung khai thác quyền làm mẹ, bao gồm quyền mang thai và sinh con. Sự
hiểu biết về giới trong trường hợp này là vô cùng cần thiết vì điều đó
sẽ giúp nguời học hiểu sâu sắc hơn về những căn cứ, những cơ sở khoa học
và thực tế của việc xác định cha, mẹ, con. Khi nghiên cứu lồng ghép vấn
đề giới trong trường hợp này người học còn hiểu được những quy định của
pháp luật về xác định cha, mẹ, con còn thấm đẫm tình người, mang đậm
nét nhân văn sâu sắc.
Ở mỗi nội dung trên có thể lồng ghép những kiến thức
về giới và khai thác triệt để dưới góc độ giới. Làm được điều này sẽ tạo
nên một bức tranh sinh động về vấn đề giới trong các quan hệ hôn nhân
và gia đình, giúp cho người học nhận thức một cách sâu sắc các vấn đề về
hôn nhân và gia đình, từ đó tìm ra những vấn đề còn hạn chế thiếu cơ sở
về giới và có hướng hoàn thiện mới. Nên chăng trong chương trình nghiên
cứu và giảng dạy môn học luật hôn nhân và gia đình cần có thêm một
chuyên đề “Pháp luật hôn nhân và gia đình với vấn đề giới”.
Mặt khác, để sinh viên hiểu một cách toàn diện hơn
vấn đề hôn nhân và gia đình dưới góc độ giới, khi Luật về bình đẳng giới
được Quốc hội thông qua, bộ môn luật hôn nhân và gia đình nên có thêm
một môn giảng mới về Luật bình đẳng giới. Đây là môn học tiên quyết
trước khi sinh viên bước vào nghiên cứu luật hôn nhân và gia đình và các
chuyên đề chuyên sâu.
Như chúng ta đã biết, sự nhận thức về giới, về quyền
và nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong gia đình ở các vùng, miền là khác
nhau. Trong thực tế tình trạng bất bình đẳng giới xảy ra phổ biến ở khắp
nơi, đặc biệt là ở miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự hạn chế về trình độ nhận thức, cộng thêm vào đó là
những phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại như là một thuộc tính cố hữu
trong các mối quan hệ ở làng xã Việt Nam. Một thực tế minh chứng cho sự
bất bình đẳng về giới nữa là bạo lực trong gia đình và một trong những
hậu quả của nó là dẫn tới gia đình tan vỡ. Theo con số thống kê các vụ
việc về hôn nhân và gia đình trong 5 năm trở lại đây thì li hôn chiếm tỉ
lệ cao nhất.
Dưới đây là số liệu thống kê giải quyết các vụ việc li hôn theo thủ tục sơ thẩm:
Nguyên nhân ly hôn | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 |
Mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập, ngược đãi | 29280*92** | 29120*134** | 17408*1288** | 31317*1331** | 37254*** | 39730*** |
Ngoại tình | 2590*24** | 2954*28** | 3672*127** | 2997*138** | 3660*** | 4188*** |
Bệnh tật, không có con | 658*2** | 2** | 200*103** | 516*42** | 876*** | 805*** |
Do nghiện ma tuý, rượu chè, cờ bạc | 1039*** | 2930*** | ||||
Một bên ở nước ngoài | 1216** | 2307** | 554** | 1*1232** | 1476*** | 1294*** |
Một bên là người nước ngoài đã về nước | 13*108** | 191*57** | 2*13** | 41*77** | ||
Một bên bị mất tích | 1184*13** | 1339*229** | 3108*152** | 1500*23** | 1439*** | 868*** |
Mâu thuẫn về kinh tế | 1318*4** | 1355*3** | 3129*41** | 2118*6** | 2661*** | 3134*** |
Sắc tài, địa vị, tuổi tác | 2** | 269*1** | 2** | 286* | 16931*** | |
Một bên bị xử lí hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự | 27** | 706*8** | 1571*7** | 392*19** | ||
Có vợ lẽ | 116*5** | 654*3** | 2349*51** | 615*33** | ||
Tảo hôn | 251*4** | 101*2** | 9* | 57*2** | ||
Cưỡng bức kết hôn | 58* | 4*6** | 1* | 18* | ||
Các nguyên nhân khác | 12031*924** | 14245*116** | 19471*440** | 15410*537** | 12638*** | |
Tổng | 47699*2421** | 50938*2896** | 50920*2778** | 57786*3430** | 65336*** | 65587*** |
(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)
Ghi chú: *. Cấp huyện
**. Cấp tỉnh
***. Cả cấp huyện và cấp tỉnh
Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng Các vụ việc li
hôn ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong ba năm trở lại đây. Các
nguyên nhân dẫn đến việc li hôn rất đa dạng và hầu hết các nguyên nhân
đó đều liên quan tới vấn đề giới. Đặc biệt là một số nguyên nhân như
ngược đãi, hành hạ, có vợ lẽ, ngoại tình, người nước ngoài đã bỏ về
nước, nghiện ma tuý, rượu chè, cờ bạc. Trong đó nổi bật là li hôn do bị
ngược đãi, hành hạ, chiếm tới khoảng 60% tổng số vụ việc li hôn trong
từng năm. Điều đó nói lên vấn đề bất bình đẳng về giới trong gia đình
vẫn còn rất phổ biến, sự bất bình đẳng đó không chỉ ảnh hưởng tới bản
thân các chủ thể trong quan hệ vợ chồng mà còn cực kì nguy hiểm cho con
trẻ, để lại những vết hằn khó phai mờ trong những tâm hồn non nớt của
chúng, ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách của cả một thế hệ.
Hiện nay, môn học luật hôn nhân và gia đình là một
trong những nội dung chính, mang tính chủ đạo trong các chương trình
tuyên truyền kiến thức pháp luật về giới của một số các tổ chức phi
chính phủ tới cộng đồng dân cư nhằm nâng cao sự hiểu biết về giới, xoá
bỏ sự bất bình đẳng giới trong gia đình và cộng đồng, đặc biệt là bảo vệ
quyền của phụ nữ.
Với những cơ sở lí luận và thực tiễn như trên, chúng
tôi thiết nghĩ nên chăng xây dựng một khoá học ngắn hạn với chủ đề “Pháp
luật hôn nhân và gia đình trên cơ sở bình đẳng giới” tới các đơn vị
hành chính nhỏ nhất và đối tượng tham gia là đông đảo các thành phần xã
hội, đặc biệt là nam giới, vì hiện nay nạn nhân chủ yếu của định kiến
giới, bất bình đẳng giới là phụ nữ. Nếu thành phần tham gia những khoá
học, những buổi tham luận, toạ đàm về giới hoặc liên quan đến giới mà
thành phần chỉ toàn là phụ nữ hoặc chủ yếu là phụ nữ thì ngay trong khoá
học, buổi tham luận đó đã thể hiện sự bất bình đẳng giới và hiệu quả
chỉ còn là một nửa nếu không muốn nói là vô nghĩa.
Tóm lại, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề
giới là vấn đề khá nhạy cảm đã và đang được sự quan tâm của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh vực đào tạo luật nói chung và nghiên
cứu, giảng dạy môn học luật hôn nhân và gia đình nói riêng cần được khai
thác, mở rộng hướng nghiên cứu và giảng dạy mới từ góc độ giới. Đó
chính là sự sáng tạo mới, một động thái tích cực không chỉ có tác động
đến đối tượng người học mà còn làm cho cán bộ, giáo viên nâng cao hơn
trách nhiệm của mình đối với chuyên môn và các công tác khác, chủ động,
sáng tạo, tự tin để cống hiến cho sự nghiệp trồng người./.
([1]).Xem:
Uỷ ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam – Dự án VIE 01-015-01
“Giới trong chính sách công” (2004), Hướng dẫn lồng ghép giới trong
hoạch định và thực thi chính sách.
Các bài viết cùng tác giả: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22NGUY%E1%BB%84N+TH%E1%BB%8A+LAN%22
0 comments:
Post a Comment