MINH ANH – Tạp chí Triết học
Được ví như cái nước nhỏ, Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tô bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có giá trị. Do đó, kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện thành công xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là việc làm cần thiết.
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết
học phương Đông nói chung và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem
xét con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Ở Nho giáo, chúng
ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã
hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp
Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều
bị trói buộc bởi năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha – con, vợ –
chồng, anh – em, vua – tôi, bạn – bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai
mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong
xã hội phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông
pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi
chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ đó là những yêu
cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu
cầu mang tính quy phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả
những mối quan hệ trên và các phương thức ứng xử hội tương ứng với nó,
theo Nho giáo, là cái trời đã định sẵn cho con người. Đã là gia đình thì
phải có vợ – chồng, cha – con, anh – em. Trong gia đình thì vợ – chồng
phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy, là cha – con thì cha phải
hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái
học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì phải
biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, là anh chị thì phải biết
nhường nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh
chị. Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng
trung thành trong quan hệ vua tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người
trên phải lấy chữ trung làm đầu. Kẻ trên đối xử với kẻ dưới phải lấy
chữ nhân làm đầu, phải biết giữ lễ và phải có lòng tín thật. Xét chung
trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân phải lấy mình làm
mốc mà yêu cầu đối với người. Cái gì mình muốn thì cũng làm hết lòng cho
người khác và ngược lại, cái gì mình ghét thì cũng đừng đem lại cho
người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất
ổn trong xã hội đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan
hệ xã hội. Để bảo đảm sự ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người
phải làm tết vai trò của mình. Vai trò đó được xác định bởi danh phận
của mỗi người do xã hội quy định. Đó là phận làm vua, phận làm tôi, phận
làm cha, phận làm con…. Danh phận của mỗi người quy định cách ứng xử
của họ. Cách ứng xử theo danh phận Nho giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo,
nếu trong xã hội mỗi người đều làm tất bổn phận của mình thì xã hội sẽ
thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi người ai cũng được an cư lạc
nghiệp. Khi đó tất cả những người già cả, trẻ nhỏ và những người cô quả
sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan tâm giúp đỡ. Cảnh tranh giành
và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn. Để làm được điều đó, Nho giáo
đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình.
Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu “một
nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhả lễ nhượng thì cả nước ăn ở
đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn” (Đại
học, chương IX). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần
phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi
thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó,
vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng
dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng
như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo.
Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng
dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ
và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm
láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết
bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã
thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong
gia đình phải biết giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con
người mới trở thành con người xã hội: “Chim anh vũ có thể biết nói
nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc
loài cầm thú. Làm người mà không có lễ thì tuy biết nói đấy nhưng có
khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm thú là không có lễ, cho nên cha
con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy việc làm của bậc thánh nhân là lấy lễ dạy
người khiến người ta ai cũng biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú”
(Kinh Lễ, Khúc lễ thượng). Nhờ có lễ, con người mới có thể biết được
như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với
anh em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người chung
quanh, là tín thực với thân thuộc. Theo lễ, người con có hiếu và biết lễ
phép thì “Khi ở trước mặt cha mẹ ruột hoặc cha mẹ chồng, nếu có
lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái phải chu toàn thận trọng, lên
xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoẹ, đằng hắng hay ngáp dài,
không được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc, không dám phun nước
bọt chùi nước mũi… Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì, mình vẫn phải vui vẻ
hoà nhã dùng lời nói ôn hoà mà can gián. Nếu can mà (cha mẹ) không nghe
lại càng phải giữ thái độ hoà nhã cung kính hơn, đợi cha mẹ nguôi ngoai
rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để đến nổi phạm lỗi lầm có tội
với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu cha mẹ nóng giận
đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám giận oán mà vẫn phải kính trọng
hiếu thuận với cha mẹ” (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 2). Ngược lại, ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ “cần
thiết phải dạy nó biết sử dụng tay phải, con trai phải biết thưa dạ,
con gái phải biết nhu hòa… Khi con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số học
và đếm số… Tám tuổi, dạy chúng khi ra vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất
nhất phải theo sau bậc trưởng thượng, bắt đầu dạy cho chúng biết nhường
nhịn… Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm sách vở khác… bắt đầu hướng dẫn
chúng về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ… Hai mươi tuổi là
làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ… dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ”
(Kinh Lễ, Chương XII, tiết 3). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được
một gia đình hoà thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì
đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các
căn nhà nhỏ – gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa thuận. Vì
thế, làm chính trị không cứ là phải ra làm quan.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có
thể nói rằng, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Chúng ta cũng coi “Gia đình là
tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường
quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”. Vì thế,
Đảng ta đòi hỏi “Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia
đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình
đối với mọi lớp người”(1). Với tính cách tế bào xã hội, vườn
ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho
tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của
mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển
đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN mà chúng ta đang tiến hành. Tất nhiên, gia đình mới mà chúng ta xây
dựng là một gia đình hòa thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha
con anh em tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn
đề lớn của gia đình. Gia đình mới mà chúng ta xây dựng cũng đòi hỏi vợ
chồng phải có lòng chung thuỷ, làm cha, mẹ phải có đức nhân từ, làm con
phải có đức hiếu kính, làm anh em phải có sự thương yêu nhường nhịn. Hạt
nhân của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng.
Có thể thấy rằng, gia đình mới hiện nay, trước hết,
cần phải là một gia đình vợ chồng sống chung thuỷ, tôn trọng lẫn nhau,
bình đẳng với nhau về quyền lợi và trách nhiệm. Vợ chồng cùng nhau chia
sẻ trách nhiệm giáo dục con cái, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
Thứ hai, là một gia đình con cái biết hiếu kính với
cha mẹ, ông bà bởi đức hiếu kính của người làm con để thờ cha mẹ cũng là
cái gốc của đức nhân. Nói tới đức nhân là nói tới lòng yêu thương
người. Cái gốc của yêu thương người trước hết chính là yêu thương cha mẹ
mình, anh em của mình. Người mà không biết yêu thương cha mẹ có công
sinh thành, dưỡng dục mình thì cũng không thể có được lòng yêu thương
đồng chí, đồng bào mình. Vì vậy, chúng ta ngày nay cũng yêu cầu người
làm con cần phải biết phụng dưỡng cha mẹ. Khi phụng dưỡng cha mẹ phải
kính cẩn và có lễ phép. Chúng ta cũng kiên quyết phê phán những hành
động ngược đãi cha mẹ già, không muốn làm nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ
già mà đùn đẩy cho xã hội hoặc con cái đun đẩy trách nhiệm chăm sóc cha
mẹ cho nhau, hoặc có nuôi cha mẹ thì như nuôi vật cảnh mà thiếu sự kính
trọng lễ phép. Đức hiếu ngày nay cũng đòi hỏi người làm con trong hành
động và việc làm phải làm sao để cho cha mẹ có thể được tự hào với bà
con lối xóm. Việc lười lao động, ham cờ bạc rượu chè chỉ biết đến của
cải, lo liệu cho vợ con mà không nghĩ đến cha mẹ, không phải chỉ Nho
giáo mà ngày nay chúng ta cũng cần lên án là hành vi bất hiếu.
Thứ ba, anh em trong gia đình phải biết bảo ban nhau,
yêu thương nhau trên tinh thần em ngã chị nâng. Là người anh, người chị
thì phải biết bao bọc che chở cho em, nhường nhịn em. Là người em phải
biết kính trọng anh chị, nghe lời anh chị dạy bảo. Xã hội xưa cũng như
nay không chấp nhận việc anh em chỉ biết yêu thương nhau qua đồng tiền,
nhìn tình cảm anh em dưới lăng kính vật chất thuần tuý.
Như vậy, gia đình mới là một gia đình mà mỗi người
đều có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với danh phận của mình. Do đó, việc
xây dựng gia đình mới cần dược gắn liền với việc giáo dục trách nhiệm và
nghĩa vụ của mỗi người theo đúng danh phận của họ. Đó là cha phải ra
cha, con phải ra con, anh phải ra anh, em phải ra em. Cần kiên quyết lên
án những người cha không còn ra cha bởi lối sống ích kỷ, thực dụng đã
để lại tấm gương xấu cho con cháu, cũng cần lên án và có biện pháp
nghiêm khắc đối với những người con không còn ra con, chỉ biết tiền mà
không biết tình, chỉ biết tới quyền lợi mà không biết tới nghĩa vụ khiến
cho cha mẹ phải tủi hổ.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa
quan trọng trong sự nghiệp xây dụng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Bởi gia đình mới chính là nền tảng của sự ổn định xã
hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi
phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm phương hại đời
sống tinh thần của con người. Gia đình mới còn là nơi có khả năng nhất
trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền thống văn hoá của dân
tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những công dân mới có đức, có tài
cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta
tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường cùng với sự mở cửa hội
nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai trò quan trọng hơn bao
giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em
thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự xâm hại những
tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà không cần
biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng bảo
thủ, mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho
giáo về gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát
triển đất nước là điều nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những
tinh hoa của gia đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mới của xã
hội mới. Những tinh hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận,
cha từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau… của Nho giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình
của Nho giáo cũng là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù
bị hạn chế do lịch sử, song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho
giáo đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo,
hiện nay chúng ta đã và đang ra sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình,
cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta
cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh, chống
lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư
tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho
giáo là một việc làm hết sức cần thiết.
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
SOURCE: Tạp chí Triết học
0 comments:
Post a Comment