Tuesday, January 14, 2014

nguyên tắc “acquiescemence”- sự phục tùng . đồng thuận

Trong pháp luật, Sự phục tùng xảy ra khi một người biết nguyên cớ mà không chịu phản đối hành vi của một kẻ khác xâm phạm các quyền của họ , trong khi người đó vô tình và không có ác ý nghi trứơc đưa ra tuyên bố về quyền của họ.  

Do đó, người có quyền lợi bị vi phạm mất khả năng để thực hiện một đơn kiện chống lại các hành vi xâm hại , hoặc kẻ khác đó thành công trong việc chiếm hữu hợp pháp do hành vi của người vi phạm .  

Thuật ngữ nói chung là nhất một loại " giấy phép " do sự im lặng hoặc bị động của người bị xâm hại . 
tổng quanHọc thuyết của Thông Luật (Common Law) của sự ngăn cản của phục tùng được áp dụng khi một bên cung cấp cho thông báo pháp lý cho một bên thứ hai về một thực tế hoặc yêu cầu bồi thường và bên thứ hai không phản đối hoặc bác bỏ yêu cầu bồi thường trong một thời gian hợp lý. Bên thứ hai được cho là đã ưng thuận để yêu cầu bồi thường , và được không phủ nhận (estopped ) từ sau đối phó với nó , hoặc làm cho một phản tố . Học thuyết là tương tự, và thường được áp dụng với , không phủ nhận bởi sự trể nải .Điều này xảy ra trong Georgia 2nd v South Carolina [1] trường hợp trước khi Tòa án Tối cao Hoa Kỳ vào năm 1990, khi nó được phán quyết rằng Georgia không còn có thể làm cho bất kỳ khiếu nại đến một hòn đảo trên sông Savannah, mặc dù Hiệp ước 1787 giao Beaufort để Ngược lại . Tòa án nói rằng nhà nước đã cố ý cho phép South Carolina để tham gia hòn đảo này là một bán đảo với bờ biển riêng của mình bằng cách bán phá giá cát từ nạo vét , và sau đó đánh thuế tài sản trên nó trong nhiều thập kỷ . Georgia từ đó bị mất đảo -chuyển- bán đảo mặc nhận của riêng mình, mặc dù các hiệp ước đã được tất cả các hòn đảo trên sông (xem sở hữu bất lợi) .Học thuyết phục tùng mặc dù thường không tìm thấy trong pháp luật, được tìm thấy rất nhiều trong tiền lệ. Như đã thấy bằng cách tìm kiếm này phán quyết của Tòa án tối cao Mỹ , học thuyết phục tùng đã được đề cập hơn một ngàn lần.Im lặng là phục tùng ( phục tùng aka. im lặng và phục tùng sự im lặng ) là một học thuyết liên quan có thể có nghĩa là, và có hiệu lực pháp luật , mà khi đối mặt với một sai hoặc một hành động có thể được coi là một hành động có hại, một trong những nơi của sự im lặng có nghĩa là một người chấp nhận hoặc giấy phép hành vi như vậy mà không phản đối hoặc yêu cầu bồi thường do đó mất quyền yêu cầu bồi thường của bất kỳ tổn thất hoặc thiệt hại. [2]

 Điều cần nói rõ, Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố đơn phương có hình thức “décision – quyết định” (hơn là hình thức “notification”).


Theo tập quán quốc tế hiện nay, khi quốc gia ra tuyên bố về bề rộng lãnh hải của nước mình, thường thông báo đến các quốc gia khác “lập trường” của nước mình qua hình thức “notification – thông báo”. Các nước khác, nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công hàm trả lời mang hình thức “reconnaissance vii– công nhận”. Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm “phản đối – protestation viii“.


Bất kể tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc mang hình thức “Désision v – quyết định” (mang tính ép buộc cho phía nhận quyết định) hay “Notification vi – thông báo”, công hàm của ông Phạm Văn Đồng là một Tuyên bố đơn phương, công khai, mang hình thức “công nhận” tuyên bố của Trung Quốc. (Ở đây là công nhận tuyên bố chủ quyền lãnh thổ cũng như việc mở rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc).


Vấn đề là, Việt Nam hôm nay có thể nói ngược lại, là chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi vùng lãnh thổ của Trung Quốc, mà không tôn trọng ở Hoàng Sa và Trường Sa, với lý do Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam hay không?


Như bà Monique Chemillier-Gendreau có ghi nhận, VNDCCH đã tôn trọng quyết định của Trung Quốc qua nhiều hình thức khác nhau, trong một thời gian dài, trong đó có việc nhìn nhận vùng biển và vùng trời của Trung Quốc tại Hoàng Sa, qua bài báo trên nhật báo Nhân Dân. Mặt khác, nhà cầm quyền miền Bắc cũng nhiều lần cho in bản đồ trong đó ghi chú Nam Sa và Tây Sa thuộc Trung Quốc (chứ không phải Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam).


Các động thái trên là hình thức “comportement actif ix – thái độ chủ động”, dấu hiệu của “acquiescement”.


Ngoài ra, nhà cầm quyền miền Bắc đã giữ thái độ im lặng khi Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. Đây là hình thức “comportement passif – thái độ thụ động”, một dấu hiệu khác của “acquiescement”.


Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ x thông qua có nội dung:

“Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.”

Tạm dịch: “Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng”.


Công hàm 1958 hội đủ hai yếu tố “công khai”“ý chí tôn trọng”. Vì vậy nó có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý.


Nhà nước CHXHCNVN hiện nay – nhà nước kế thừa VNDCCH – khó có thể cho rằng “công hàm 1958 công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi nơi, ngoại trừ Hoàng Sa và Trường Sa”.


Sai lầm là vì, năm 1958, thay vì đưa ra tuyên bố “phản đối – protestation”, theo đúng như thủ tục của luật quốc tế, nhằm bảo lưu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, VNDCCH lại viết công hàm “công nhận – reconnaissance” nội dung tuyên bố của Trung Quốc.


Theo tập quán quốc tế, các quan Tòa thường rất thận trọng khi kết án một quốc gia trên nguyên tắc “acquiescement”, nếu chỉ đơn thuần dựa trên một vài “dấu hiệu” nào đó. Trường hợp Việt Nam, nếu so sánh với các bản án mẫu, với thái độ thụ động của CSVN trước việc xâm lăng của Trung Quốc ở Hoàng Sa năm 1974, cách hành sử của nhà nước CSVN qua việc nhìn nhận và tôn trọng vùng biển, vùng trời của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa, các việc in ấn các bản đồ, cùng với các các tuyên bố của các viên chức nhà nước… tất cả tạo nên thành tố “acquiescement – nhìn nhận” chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.


TS Nguyễn Hồng Thao dẫn vụ án xử Tân Tây Lan và Úc cùng kiện Pháp năm 1974 lên CIJ về việc Pháp “Thử bom nguyên tử trong khí quyển”:

“If States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for”.

Tạm dịch: Nếu một quốc gia có tuyên bố mà (nội dung của tuyên bố) có thể hạn chế hành động của quốc gia này trong tương lai, việc giải thích cần hạn chế.

Hàm ý cho rằng việc diễn giải công hàm 1958 cũng cần sự hạn chế.


Trường hợp vụ án, các viên chức có thẩm quyền của Pháp đã ra các tuyên bố, theo đó nước Pháp sẽ không thử bom nguyên tử trong khí quyển nữa. Tân Tây Lan và Úc vịn vào các tuyên bố này kiện lên CIJ, yêu cầu Pháp không được thử (khi thấy Pháp lăm le muốn thử nữa).

Ta thấy rõ ràng tuyên bố của các viên chức Pháp có hệ quả hạn chế tự do của nước Pháp trong tương lai. Nhưng kết quả phân xử cho thấy, phía Tân Tây Lan và Úc thắng kiện. Pháp không được quyền thử bom nguyên tử trong bầu khí quyển (nhưng sau đó thì thử dưới lòng đất!).


Tuyên bố của ông Đồng hạn chế hành động nào của Việt Nam trong tương lai? Không có điều nào cả!

Vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa giữa Việt Nam và TQ bắt đầu từ năm 1909. Còn tranh chấp Trường Sa thì sau Thế chiến II. Nhà cầm quyền VNDCCH không thể vịn lý do “không biết” để mà tuyên bố “công nhận” đòi hỏi của Trung Quốc.


TS Nguyễn Hồng Thao ghi lại nội dung của điều 7 xi của bản Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ. Người viết đã từng tham khảo và tạm dịch (từ tiếng Pháp) như sau:

Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế.


Trở lại vụ án “Thử bom nguyên tử” 1974 giữa Tân Tây Lan và Pháp trước CIJ, Tòa cũng nhấn mạnh:

Một tuyên bố đơn phương chỉ có thể tạo nghĩa vụ pháp lý đối với quốc gia tuyên bố khi mà nó có mục tiêu rõ rệt và cụ thể. xii

Các tuyên bố của các lãnh đạo Pháp đã có mục tiêu rõ rệt và cụ thể. Vì vậy nó tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc nước Pháp phải giữ lời.


Tương tự, tuyên bố của Phạm Văn Đồng cũng rất rõ rệt và cụ thể: nhìn nhận và tán thành tuyên bố về lãnh thổ cũng như việc mở rộng 12 hải lý lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy nó sẽ tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc Việt Nam phải giữ lời. Có nghĩa là Việt Nam phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi nơi có liệt kê trong bản tuyên bố của Trung Quốc. Tức kể cả ở Hoàng Sa và Trường Sa.


TS Nguyễn Hồng Thao cũng dẫn vụ án giữa Mã Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge, CIJ xiii, ngày 23-5-2008 nhằm biện hộ cho công hàm 1958:

The declaration by PM Pham Van Dong did not have a constitutive character for giving up territory. In the case concerning sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, and South Ledge (Malaysia/Singapore) regarding the Singapore argument that the Johor Authority recognized Singapore sovereignty over those islands, the Court took a position not to consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense that it had a conclusive legal effect on Johor. The text of PM Pham Van Dong does not have any constitutive character regarding South Vietnamese territory. Consequently, it had no conclusive legal effect on the fate of the Paracels and Spratlys.

Tạm dịch: Tuyên bố của Phạm Văn Đồng không có giá trị thiết định cho việc từ bỏ lãnh thổ. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền tại các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie/Singapour), liên quan đến lý lẽ của phía Singapour, (nước này) cho rằng lãnh đạo của Johor đã nhìn nhận chủ quyền của Singapour tại các đảo. Lập trường của Tòa thì không xem lá thư của Johor có giá trị thiết định trong chiều hướng (lá thư này) có hiệu quả pháp lý đối với Johor. Văn thư của ông Đồng không có giá trị thiết định đối với những vấn đề lãnh thổ của miền Nam. Do đó, không có một hiệu quả pháp lý nào trên vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.

TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhóm Quĩ Nghiên cứu biển Đông, dẫn thí dụ về quan điểm của Tòa đối với lá thư của Bộ trưởng Ngoại giao Johor trong vụ án dẫn trên nhưng việc trích dẫn này không phù hợp, nếu không nói là thiếu thành thật.

Trong vụ án CIJ xử vụ tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge, việc giải thích hiệu lực công hàm 1953 của Johor chiếm một thời lượng lớn, từ đoạn 192 đến đoạn 230 trong biên bản ghi chép phiên xử.


Đoạn trích dẫn của TS Nguyễn Hồng Thao về hiệu quả lá thư của Johor là đoạn 227, nguyên văn như sau:

227. Pour ce qui est du premier argument, la Cour ne considère pas la réponse du Johor comme revêtant un caractère constitutif au sens où elle aurait eu pour celui-ci un effet juridique décisif. Il s’agit plutôt d’une réponse à une demande de renseignements. Ainsi qu’il apparaîtra plus loin, cet argument est, compte tenu des circonstances, étroitement lié au troisième.

Tạm dịch: về lý lẽ thứ nhất, Tòa không cho rằng lá thư trả lời của Johor bao gồm một giá trị thiết định trong chiều hướng nó đem lại cho lý lẽ này một hiệu quả pháp lý quyết định. Đúng ra đây là câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo. Cũng như nó sẽ trở lại ở phần sau, lý lẽ này, với hoàn cảnh như vậy, có liên hệ chặt chẽ với (lý lẽ) thứ ba.


TS Nguyễn Hồng Thao đã trích dẫn không đầy đủ, sau đó diễn giải ý nghĩa xa rời bối cảnh.

Ở đây Tòa không hề cho rằng lá thư của nhà nước Johor không có hiệu lực pháp lý, mà chỉ cho rằng nó không có một hiệu quả pháp lý quyết định cho lý lẽ thứ nhất. Vấn đề là lý lẽ thứ nhất đó là gì?

Tòa cũng cho rằng lý lẽ này quan hệ chặt chẽ với (cái) thứ ba. (Cái) thứ ba đó là cái gì?


Muốn biết lý lẽ thứ nhất và “cái” thứ ba là gì, ta phải xem đoạn 226:

226. Pour conclure son examen de la correspondance de 1953, la Cour relèvera trois aspects connexes de l’argumentation développée par les conseils de Singapour à partir de celle-ci. Premièrement, Singapour a présenté la réponse du Johor comme une “déclaration de non-revendication expresse” ou “officielle” du titre sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh; deuxièmement, elle a invoqué la notion d’estoppel; troisièmement, elle a fait valoir que la réponse du Johor équivalait à un engagement unilatéral obligatoire.

Tạm dịch: Để kết luận việc khảo sát của Tòa về lá thư 1953, Tòa đưa ra ba phương diện liên hệ đến lý lẽ được khai triển bởi các Ủy viên Singapour ở lá thư này. Thứ nhất, Singapour đã trình bày thư trả lời của Johor như là một “tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền”, hay “chính thức”, về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh; thứ hai, viện dẫn khái niệm Estoppel; thứ ba, lập luận rằng thư trả lời của Johor tương đương với một cam kết đơn phương bắt buộc.


Như vậy, đoạn trích dẫn của TS Nguyễn Hồng Thao chỉ liên quan đến khía cạnh thứ nhất: Singapour đã trình bày thư trả lời của Johor như là một “tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền”, hay “chính thức”, về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tức là, theo Tòa, lá thư không có giá trị thiết định để việc “tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền” có hiệu quả pháp lý quyết định.

Điều này không có nghĩa, lá thư không có giá trị pháp lý nào khác. Tòa còn có ý kiến riêng của tòa, có điều các học giả Việt Nam “quên” không nhắc mà thôi.


Tòa cho rằng lá thư này là một câu trả lời của Johor cho câu hỏi của Singapour. Câu hỏi của Singapour đại khái là: Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh có thuộc chủ quyền của Johor không?

Bộ trưởng Ngoại giao lâm thời Johor trả lời: Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh không thuộc sở hữu của Johor.


Đoạn 275, ý kiến của Tòa về lá thư:

“Il s’agit de la déclaration, faite dans des termes clairs en 1953 par le secrétaire d’Etat par intérim de l’Etat du Johor, selon laquelle le Johor ne revendiquait pas la propriété de Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Cette déclaration revêt une importance capitale”.

Tạm dịch: Về tuyên bố 1953 của Ngoại trưởng lâm thời Johor, thể hiện bằng những lời lẽ cụ thể, theo đó Johor không tranh dành chủ quyền đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tuyên bố này mang một tầm quan trọng quyết định.


Cuối cùng Tòa phán đảo Pedra Branca/Pulau Batu thuộc về Singapour, mặc dầu hồ sơ phía Mã Lai đã lập rất công phu, bao gồm nhiều văn kiện lịch sử quan trọng, chứng minh được rằng Mã Lai có chủ quyền lịch sử tại đảo tranh chấp.

Mã Lai bị mất chủ quyền lịch sử ở đảo này vì nhiều lý do, ngoài lý do “effectivité”, Singapour đã hành sử các quyền chủ quyền một cách hòa bình và liên tục tại đảo này, còn có lá thư của Johor là một yếu tố quyết định “importance capitale”.


Trở lại tuyên bố 1958 của ông Đồng, thật vậy, nội dung lá thư không hề nói đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng lá thư này có thể diễn giải tương tự như trường hợp lá thư của Johor, đó là “ý kiến” của VNDCCH về một quyết định của Trung Quốc.

Ngoài ra Công hàm 1958 có tính cách pháp lý ràng buộc của một tuyên bố “công nhận xiv, trong khi lá thư Johor chỉ là một “câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo – une réponse à une demande de renseignements”.

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code