Xuân đến, trời đất làm cuộc giao ban
giữa năm cũ và năm mới cũng là lúc con người so đo với những chuyện xưa,
chuyện nay. Có những điều cứ tưởng như đã ngã ngũ, nghĩ lại vẫn chưa
yên.
Từ khi đổi mới, vị trí, vai trò của pháp
luật được đưa lên lại hàng đầu. Tinh thần thượng tôn pháp luật, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, ý thức pháp luật là những gì tưởng chừng đã
rất quen thuộc trong quan niệm, trong nhận thức và trong việc làm của
chúng ta. Ở nhiều công sở, nhiều nơi công cộng, khẩu hiệu “Sống và làm
việc theo pháp luật” được trưng bày khá trang trọng. Trong tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, đi tìm mô hình nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân, pháp luật vươn lên thành đại lượng – nhà nước
pháp quyền trước hết được hiểu là nhà nước trọng pháp, quản lý xã hội
bằng pháp luật và theo pháp luật.
Thế nhưng dường như chúng ta chỉ mới nhất
quán ở tính chất hình thức của vấn đề là coi trọng pháp luật mà chưa
chú trọng đúng mức ở tính chất nội dung. Đó là xem pháp luật là gì với
cách tiếp cận đi gần với tinh thần chung và không đứt đoạn với tinh hoa
truyền thống.
Lâu nay trong học thuật và trong thực
tiễn, gần như chỉ có một cách tiếp cận duy nhất khi quan niệm về pháp
luật. Công thức chung dễ dàng tìm thấy: pháp luật = hệ thống các quy
phạm pháp luật trong những hình thức văn bản quy phạm pháp luật do nhà
nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và những người có
thẩm quyền) ban hành và bảo đảm thực hiện bằng chính quyền lực nhà nước.
Công thức này đóng đinh những nhìn nhận
kéo theo: Pháp luật chỉ là tập hợp một cách hệ thống những khuôn thước
hành xử do cơ quan công quyền công bố. Những khuôn thước này chỉ có thể
bọc trong những hình thức chuyên dụng là các loại hình văn bản quy phạm
pháp luật; chúng phải do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện.
Ở đây, có sự đánh đồng pháp luật với hoạt
động làm luật (hoạt động lập pháp của Quốc hội, thậm chí kể cả lập quy
của các cơ quan hành chính nhà nước). Như vậy, quan niệm phổ biến trên
chọn một lối khá hẹp, nhấn mạnh yếu tố quyền lực trong cán cân quyền lực
với công lý. Pháp luật là phương tiện đặc hữu của nhà nước nên hoạt
động sáng tạo pháp luật là lĩnh vực độc quyền của nhà nước. Nguồn của
pháp luật chỉ có thể là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy,
những gì mà nhà nước chưa công bố chính thức thì không được chấp nhận dù
là cần thiết cho nhu cầu cuộc sống mà phải chờ đợi, mặc cho sự chờ đợi
ấy tạo ra những khoảng trống hoặc đôi khi buộc phải giải quyết một cách
tùy nghi. Pháp luật thường được ban hành và triển khai theo hướng tô đậm
tính cưỡng chế hơn là huy động sự đồng thuận và dụng công thuyết phục,
khơi dậy ý thức tự giác.
Thực ra, từ xa xưa trong kho tàng của nhân loại, với những tư tưởng tỏa sáng vượt biên, xuyên qua các thời đại và trong di sản của dân tộc với những tinh túy của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước còn có cách tiếp cận pháp luật khác rộng hơn.
Thực ra, từ xa xưa trong kho tàng của nhân loại, với những tư tưởng tỏa sáng vượt biên, xuyên qua các thời đại và trong di sản của dân tộc với những tinh túy của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước còn có cách tiếp cận pháp luật khác rộng hơn.
Pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm
đặc chủng của nhà nước mà trước hết là kết tinh thiêng liêng của những
giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản và đạo
lý mà không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự
do, bình đẳng, công lý, công minh… Với tính chất ấy, pháp luật luôn tồn
tại trong xã hội và gắn liền với những quyền tự nhiên của con người. Như
thế, bên cạnh hệ thống quy tắc xử sự chung mà nhà nước san định ra còn
có sự hiện hữu pháp luật tự nhiên. Nhà nước phải lấy đó làm thước đo để
hướng tới sự phù hợp và hoàn thiện để củng cố lòng tin của công dân vào
sự công minh của nhà nước.
Manh nha từ thời cổ đại, tư tưởng về pháp
luật tự nhiên đi vào những văn kiện nổi tiếng như Tuyên ngôn độc lập
1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng
Pháp năm 1789 mà mở đầu Tuyên ngôn độc lập 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
viện dẫn. Nhiều ý kiến cho rằng bên cạnh sự lịch lãm về chính trị của
Người, chắc hẳn rằng trong quan niệm về pháp luật tự nhiên có hạt nhân
tiến bộ có thể vượt qua sắc thái chính thể và thời gian để trở thành di
sản chung của nhân loại. Đó là tư tưởng nhà nước phải thừa nhận và phục
tùng lẽ phải và công lý.
Ở Việt Nam, những tương đồng với thuyết
pháp luật tự nhiên hóa thân thành những quan niệm giản dị mà sâu sắc:
bên cạnh pháp lý có đạo lý; cùng với phép vua có lệ làng; sức dân như
sức nước…
Về bản chất của sự hình thành, pháp luật
không được “đặt ra” mà được “tìm ra”. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin chỉ rõ: “Nhà lập pháp phải tự coi mình như nhà khoa học tự
nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng mà
chỉ nêu chúng lên. Ông ta biểu hiện quy luật nội tại của những mối quan
hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta sẽ chê
trách nhà lập pháp là vô cùng tùy tiện nếu ông ta thay thế bản chất của
sự vật bằng nhiều điểm bịa đặt của mình”.
Từ đó, hàng loạt yêu cầu đặt ra về trách
nhiệm của nhà nước trong công tác xây dựng pháp luật, làm thế nào cho
pháp luật hợp với lòng dân để mọi người tâm phục và tự giác thực hiện,
nâng cao chất lượng, uy tín và hiệu lực thực tế của pháp luật. Đừng áp
đặt võ đoán hay tạo ra những lâu đài pháp lý và để cho cỏ mọc trong lối
đi vào chúng.
TS HUỲNH VĂN THỚI
Theo Pháp luật TP online
0 comments:
Post a Comment