![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhRgkwKxbtbHIiIOHs9YtxczlrmiUFLy9DyftgK2XwXnTCWwC6C0Nz-KA-95m6hcDizGnXuf1UTbJ2FSU-20QgbEf6Kr_kQcIu6bKXbhwJHO_T1QHugCgV2UWj4t_KgP3XRrLe75I_lrZQ/s320/hammurabi_250.jpg)
ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nguồn: Tạp chí Luật học,
số 6/2005
(Những bài viết liên quan đến việc
nghiên cứu Bộ luật Hammurabi – Bộ luật cổ xưa nhất của nhân loại, tác
giả đã gửi đăng ở nhiều báo, tạp chí, mỗi bài viết là sự khai thác ở
những góc nhìn khác nhau về Bộ luật này, trong đó có Báo Pháp luật Việt
Nam ra ngày 2/9/2004; Tạp chí Luật học số 6/2005; Kỉ yếu kỉ niệm Khoa
Luật 30 năm xây dựng và trưởng thành v.v…Dưới đây là một bài viết có
tính chất tổng hợp những góc nhìn khác nhau về Bộ luật này, xin gửi đến
các bạn sinh viên để cùng chia sẻ, góp ý)
Nền kinh tế của
Lưỡng Hà phát triển chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Tuy vậy, kinh tế
hàng hoá phát triển, dẫn đến nhu cầu cần phải có qui định để giải quyết
các tranh chấp trong quan hệ dân sự. Người Lưỡng Hà phát hiện chữ viết
(văn tự) từ rất sớm (giữa thiên niên kỷ thứ 4 trước CN). Tiền lệ pháp,
tập quán pháp đã được sử dụng rất rộng rãi trước khi Bộ luật này ra đời.
Về
mặt nguồn gốc, Bộ luật Hammurabi được xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá
nhiều văn bản trước đó và trên cơ sở kế thừa luật lệ của người Xu-me,
người Amôrít. Bộ luật Hammurabi được phát hiện năm 1901 của đoàn khảo cổ
người Pháp, khắc trên đá bazan cao 2,25 m và dựng tại quảng trường
thành phố cho nhân dân đọc mà thi hành. Bộ luật Hammurabi là Bộ luật
tương đối hoàn chỉnh thời kỳ cổ đại, gồm 282 điều (hiện chỉ đọc được 247
điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận[1].
Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm
các qui phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ
yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích của giai cấp
thống trị. Phần mở đầu Vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao
đất nước cho nhà vua thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no
đủ. Ở phần kết luận Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem
thường và định huỷ bỏ đạo luật. Tác giả bộ luật đã ý thức sâu sắc kết
hợp thần quyền, vương quyền, và pháp quyền, khiến bộ luật trở nên được
“thiêng hoá” nhằm đạt được mục đích cai trị dân chúng.
Vượt ra khỏi
hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của Bộ luật được hiện rõ ngay từ mục
đích của Bộ luật, thể hiện ở phần mở đầu của Bộ luật: “Vì hạnh phúc
của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi,
một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ
những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà
hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát sai xuống dân đen, tỏa
ánh sáng khắp muôn dân.”
Về kĩ thuật lập pháp, tuy không phân
chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng được chia thành nhóm các
điều khoản có nội dung khác nhau. Phạm vi điều chỉnh của bộ luật là
những quan hệ xã hội rộng, bao quát lên toàn bộ hoạt động của đời sống
xã hội như hôn nhân gia đình, ruộng đất, thừa kế tài sản, hợp đồng dân
sự, hình sự, tố tụng ...
Về mức độ điều chỉnh: Mức độ điều chỉnh pháp
luật phụ thuộc vào tính chất của các loại quan hệ xã hội cần được điều
chỉnh bằng pháp luật, các yếu tố chủ quan của nhà làm luật. Thông thường
người ta phân biệt thành hai mức độ điều chỉnh pháp luật: cụ thể – chi
tiết và khái quát hoá cao. Bộ luật về cơ bản áp dụng mức độ điều chỉnh
cụ thể, chi tiết.
Về mặt hình thức pháp lý, đây là một bộ luật tổng
hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các qui phạm pháp luật
điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài. Phần nội dung, bộ luật tập
trung điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu đó là dân sự, hình sự, hôn nhân
gia đình và tố tụng, tuy vậy không có sự tách rời giữa các lĩnh vực. Các
qui phạm của Bộ luật Hammurabi cũng giống như các bộ luật khác ở Phương
Đông thời kỳ cổ đại là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo
chế tài.
a. Về dân sự:
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của
Bộ luật này chính là các qui định về dân sự. Bộ luật đã đặc biệt chú ý
điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã hội Lưỡng
Hà cổ đại, có nhiều qui định không những tiến bộ về nội dung, mà còn
chặt chẽ về kĩ thuật lập pháp.
Về chế định hợp đồng, Luật qui định ba điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng mua bán:
Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự,
Thứ hai, tài sản phải có giá trị sử dụng,
Thứ ba, phải có người làm chứng.
Bộ
luật cũng qui định các điều khoản lĩnh canh ruộng đất. Đối với ruộng,
người lĩnh canh nhận mỗi mùa từ 1/3 - 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với
vườn được nhận 2/3 số sản phẩm thu hoạch.
Điểm tiến bộ hơn nữa là
luật đã qui định mức lãi suất đối với hợp đồng vay nợ. Cụ thể luật qui
định mức lãi suất đối với tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.
Về chế định thừa kế tài sản, Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Thừa
kế theo pháp luật: Nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì tài
sản được chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo
luật định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở dòng họ và dần dần được
chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình.
Đó là cách thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc: Bộ luật đã
hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như qui định người cha không
được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi lần đầu
và lỗi không nghiêm trọng. Con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa
kế ngang nhau.
b. Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình:
Theo
xu hướng củng cố địa vị của người chồng, người cha nên trách nhiệm và
nghĩa vụ thuộc về người vợ và con cái. Nếu không có con, người chồng có
quyền ly dị, bán vợ hoặc lấy vợ lẽ. Nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng
có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông cho chết. Ngược lại
nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi.
Điểm
tiến bộ là đã có qui định kết hôn phải có giấy tờ, ở mức độ nào đó có
qui định bảo vệ người phụ nữ (người vợ có quyền ly hôn khi người chồng
đi khỏi nhà không có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ
ngoại tình). Có một qui định rất nhân đạo nếu đặt trong hoàn cảnh lúc
bấy giờ là: ”Người chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh
phong hủi.”
c. Về hình sự:
Lĩnh vực Hình sự là lĩnh vực thể hiện
rõ nhất tính giai cấp và sự bất bình đẳng. Một nguyên tắc xuyên suốt và
thể hiện rõ trong Bộ luật là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi, địa vị của
người chồng, người cha trong gia đình. Thí dụ, nếu không có con, người
chồng có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ ngoại
tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông cho
chết. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà
thôi. Điều 129 qui định : "Nếu vợ của dân tự do ngủ với người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống sông"
Tàn dư của xã hội nguyên thuỷ rất rõ
là nguyên tắc trả thù ngang bằng, thậm chí còn cho phép trừng trị cả
những người không liên quan đến tội phạm. Nguyên tắc này chỉ căn cứ vào
hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng trách nhiệm pháp lí, chứ không
xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể thực hiện hành vi vi phạm.
Thí dụ, Điều 38 qui định: " Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều 39: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo".
Bằng
phương pháp thống kê, tác giả thấy trong Luật Hammurabi có nhắc tới 32
trường hợp xử tử hình. Thường là các hình phạt rất khắc nghiệt như dìm,
đóng đinh, chém v.v…Tính chất tương xứng trong trách nhiệm pháp lý nhấn
mạnh nhiều đến tính trừng trị đối nhân hoặc đối vật, mà chưa tính đến
tính giáo dục, hay tạo điều kiện để người vi phạm hoàn lương. Bên cạnh
đó, Bộ luật còn nêu ra trách nhiệm tập thể của các thành viên công xã
đối với nhà nước; qui định về trừng phạt kẻ giúp nô lệ chạy trốn, trừng
phạt những kẻ xâm phạm quyền sở hữu của nhà vua, chủ nô; Trừng phạt
người quản gia làm thất thoát tài sản của chủ bị ném cho dã thú xé xác;
Lấy cắp gia cầm hoặc các đồ dùng khác của chủ sẽ bị phạt từ 10 đến 30
lần giá trị thứ lấy cắp. Nếu không nộp được phạt, kẻ lấy cắp sẽ bị giết.
Điểm
tiến bộ trong lĩnh vực hình sự là luật đã manh nha phân biệt phạm tội
vô ý và phạm tội cố ý. Ví dụ luật ghi trong khi ẩu đả làm chết người,
nếu kẻ làm chết người chứng minh được rằng không cố ý giết người thì sẽ
không bị tử hình, chỉ bị phạt tiền.
d. Về tố tụng:
Tố tụng là thủ tục giải quyết các vụ
án. Bộ luật đã có nhiều qui định về thủ tục bắt giữ, giam cầm, qui định
những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi trọng
chứng cứ, phán quyết phải được thi hành nghiêm minh...
Có hai qui định rất đặc thù về tố tụng của Bộ luật này:
Thứ nhất, qui định về trách nhiệm của thẩm phán.
”Nếu
thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát
hiện lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả
12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện,
đồng thời ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và
không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa”(Nguyên
bản Tiếng Anh để bạn đọc tiện tra cứu: If a judge try a case, reach a
decision, and present his judgment in writing; if later error shall
appear in his decision, and it be through his own fault, then he shall
pay 12 times the fines set by him in the case, and he shall be publicly
removed from the judge’s bench, and never again shall be sit there to
render judgement.)Qui định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc
xét xử như qui định trên trong một xã hội thể hiện tính giai cấp sâu sắc
quả thật là một sự tiến bộ. Qua đó cho thấy, thời kỳ này rất coi trọng
công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm
phán. Sử sách đã ca ngợi rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần thượng tôn
luật pháp và thói quen cầu viện công lý đã ăn sâu vào tác phong sinh
hoạt của người dân nơi đây.
Thứ hai, về hình thức xét xử
Nếu
một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một dòng sông và
nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở hữu
nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn là
không có tội, tức là anh ta còn sống sót, thì nguyên đơn sẽ bị giết
chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn”(Nguyên
bản Tiếng Anh để bạn đọc tiện tra cứu: If anyone bring an accusation
against a man, and the accused go to the river and leap into the river,
if he sink in the river, the accuser shall take possession of his house.
But if the river prove that the accused is not guilty, and he escape
unhurt, then he who had brought the accusation shall be put to death,
while he who leaped into the river shall take the possession of the
house that had belonged to his accuser)Có một thực tế là người cổ
đại bất lực trước tự nhiên, bất lực trước việc giải thích các hiện tượng
tự nhiên và xã hội, hơn nữa không phải lúc nào cũng dễ dàng có được
chứng cứ xác thực khi khoa học chưa phát triển, nên ta thấy cách thức xử
lý có vẻ như bất bình thường kia lại trở nên rất dễ hiểu, dễ hiểu đến
mức bình thường và tự nhiên trong quan niệm, trong cách hành xử của
người dân Lưỡng Hà cổ đại. Họ tin rằng đấng tối cao đã sáng tạo muôn
loài, sáng tạo nên nhà nước và luật pháp nên họ chấp nhận điều đó, và
tin rằng thần thánh mới là người công minh nhất, thần thánh mới là người
cho họ biết thế nào nào là đúng, thế nào là sai, thế nào là công bằng
hay không công bằng.
Phần kết luận, Hammurabi khẳng định lại mục đích của Bộ luật và tuyên bố sẽ trừng phạt bất cứ ai vi phạm Bộ luật này: “Để
cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ yếu; để cho những người cô quả có thể
nương tựa ở thành Babilon…; để cho sự tuyên án trong nước tiện việc
quyết định; để cho những kẻ thiệt thòi được trình bày lẽ phải…Nếu kẻ nào
thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ được các thần phù hộ, trái lại nếu
người nào không nghiêm chỉnh thi hành hoặc sửa đổi bộ luật thì sẽ bị
thần linh trừng phạt”.Bộ luật Hammurabi là Bộ luật thành văn cổ nhất
trên thế giới, là một trong những thành tựu có giá trị bậc nhất của
lịch sử văn minh cổ đại. Giá trị của Bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp
tục được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu, khai thác và kế thừa.
Bộ luật đã xây dựng rất công phu, điều chỉnh và phản ánh một cách sinh
động các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của vương quốc
Babilon. Bộ luật không chỉ có giá trị về nghiên cứu pháp lý mà còn là
nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quí giá để nghịên cứu nền văn hoá
Babilon - Lưỡng Hà cổ đại.
Vượt ra khỏi hạn chế về tính giai cấp, có
thể thấy chứa đựng trong nhiều qui phạm của Bộ luật dù ở dạng thức sơ
khai nhất, cổ xưa nhất vẫn hằng chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân
văn, đặc biệt là về kĩ thuật lập pháp trong các qui định từ hôn nhân
gia đình đến thừa kế, và qui định về hợp đồng. Gấp Bộ luật lại, nhìn vào
cuộc sống và suy ngẫm ta thấy không khỏi ngạc nhiên và trân trọng những
giá trị lịch sử pháp lý của Bộ luật, những qui định ra đời cách đây gần
4000 năm vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa, và phát
triển./.
[1]
Hiện nay có nhiều bản dịch khác nhau từ Tiếng nước ngoài. Ví dụ như bản
dịch của Nguyễn Gia Phu dịch theo bản Trung Văn của Nhật Trị in trong
“Thế giới sử tư liệu tùng san, sơ tập” được công bố khá rộng rãi trong
cuốn Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục do Lương Ninh (Chủ biên). Khi
viết phần này, tác giả chủ yếu tham khảo bản dịch từ Website của Trường
Đại học Yale của Hoa kỳ do tác giả L. W. King dịch từ nguyên bản: http://www.yale.edu/lawweb/avalon/medieval/hamframe.htm
(Nguồn ảnh minh hoạ cho bài viết này ở trên được lấy từ đây)
0 comments:
Post a Comment