(Tài
liệu sử dụng cho bài nói chuyện “Chính sách, pháp luật đất đai với kinh
tế thị trường ở Việt Nam” của Gs. TsKh. Đặng Hùng Võ tại Chương trình
Giảng dậy Kinh tế Fulbright)
1. Mở đầu
Từ năm 2003 đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp nhận được
27.262 lượt đơn có nội dung tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, trong đó năm
2003 là 5.211 lượt đơn, năm 2004 là 4.421 lượt đơn, năm 2005 là 10.500 lượt đơn
và 8 tháng đầu năm 2006 là 7.130 lượt
đơn. Như vậy, số lượng lượt đơn của năm sau có xu hướng tăng nhiều hơn
so với năm trước. Năm 2004 có giảm hơn so với năm 2003 một chút nhưng
năm 2005 lại tăng gần như gấp đôi so với năm 2003. Số lượng lượt đơn
chưa nói lên số lượng vụ việc cần giải quyết nhưng lại là một chứng cứ
rất rõ để nói lên rằng cả hệ thống hành chính lẫn hệ thống tư pháp giải
quyết không tốt tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Tình hình hiện nay cho thấy những vụ việc
cũ giải quyết không được nhiều hoặc giải quyết nhưng chưa đúng, những
vụ việc mới phát sinh tăng lên theo tỷ lệ với diện tích đất bị Nhà nước
thu hồi. Nếu tình trạng như vậy cứ tiếp diễn thì không biết bao giờ
chúng ta mới có thể yên tâm về những hệ quả xấu nẩy sinh trong quá trình
thực thi pháp luật về đất đai. Như vậy, đất nước đang đòi hỏi những đổi
mới mang tính đột biến tích cực trong giải quyết các vụ việc về tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo của người dân, doanh nghiệp đối với đất đai.
2. Tình hình giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Trong tổng số đơn gửi đến, Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã tập trung phân loại. Bộ tập trung giải quyết ngay những
trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ (trường hợp tranh chấp
đất đai mà ít nhất có một bên tranh chấp là tổ chức nhưng người tranh
chấp không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh) và trường hợp Thủ tướng Chính phủ giao Bộ giải quyết. Số đơn
còn lại cũng được Bộ xử lý theo cách hoặc hướng dẫn cho người có đơn đến
nộp tại cơ quan theo đúng thẩm quyền giải quyết hoặc xem xét lại tính
phù hợp pháp luật của những quyết định giải quyết cuối cùng của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh để có văn bản đối với những trường hợp vi phạm pháp
luật.
Qua việc phân loại và xử lý đơn, có một số vấn đề nổi cộm như sau:
a) Số lượt đơn gửi đến Bộ ngày càng
nhiều, số đơn nhận được trong 8 tháng đầu năm 2006 tăng gấp 1,5 lần so
với số đơn nhiều nhất trong cùng khoảng thời gian 8 tháng trước đây.
Trong số đơn gửi đến Bộ, rất ít đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ
mà phần lớn là đơn khiếu nại quyết định giải
1
quyết cuối cùng của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và một số đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ.
b) Trong tổng số đơn Bộ nhận được, 70% có
nội dung khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư và 30% còn lại có nội dung khiếu nại đòi lại đất cũ, khiếu nại liên
quan đến đất tôn giáo, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật nhằm vụ lợi
của cán bộ, tranh chấp đất đai với nông, lâm trường
và với đất quốc phòng. Kể cả trường hợp
khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
trường hợp tranh chấp đất đai với tổ chức đều dẫn đến tình trạng khiếu
kiện đông người tạo nên những điểm nóng khó giải quyết. Ngay trong thời
gian gần đây cũng đã có vụ khiếu nại về quyết định thu hồi đất mà số
người có đơn lên đến con số trên một nghìn,
c) Nội dung viết trong các đơn khiếu nại,
tố cáo luôn thể hiện một cách nhìn tiêu cực đối với quyết định hành
chính và hành vi hành chính của chính quyền các cấp ở địa phương, nói
chung nhìn thấy rõ một ngăn cách khá sâu giữa chính quyền cơ sở và dân.
d) Trong số đơn đã phân tích, có nhiều
đơn bị cơ quan hành chính chuyển sang cơ quan tư pháp, cơ quan tư pháp
lại chuyển sang cơ quan hành chính rồi người dân có đơn không biết phải
đến đâu để giải quyết sau vài năm rất nỗ lực chạy đi chạy lại theo chỉ
dẫn của những nơi có trách nhiệm tiếp nhận đơn. Tình trạng này thường
xẩy ra đối với trường hợp đòi lại đất cũ khi nhiều năm trước đây đã có
quyết định giao đất đó cho người khác sử dụng (trách nhiệm giải quyết
lần đầu thuộc cơ quan ra quyết định hành chính nhưng cơ quan ra quyết
định trước đây không thuộc bộ máy hành chính hiện nay), cơ quan hành
chính hiện nay lại nhìn việc đòi lại đất cũ như tranh chấp về quyền sử
dụng đất giữa người có giấy tờ cũ và người đang sử dụng đất (trách nhiệm
giải quyết thuộc toà án nhân dân đối với tranh chấp đất đai mà đất đó
đã có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
đ) Trong quyết định giải quyết cuối cùng
của cơ quan hành chính cũng như quyết định giải quyết của toà án nhân
dân còn có nhiều trường hợp không phù hợp pháp luật; có trường hợp phù
hợp pháp luật về dân sự nhưng không phù hợp pháp luật về đất đai và
ngược lại, tương tự có quyết định phù hợp pháp luật này nhưng lại trái
với pháp luật khác. Trường hợp này thường xẩy ra khi Luật Đất đai công
nhận mọi hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất không có công
chứng hoặc chứng nhận của chính quyền cơ sở trước ngày Luật Đất đai năm
2003 có hiệu lực thi hành nhưng toà án nhân dân lại tuyên bố hợp đồng,
giấy tờ như vậy không có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật
về dân sự.
e) Theo quy định của Hiến pháp thì hệ
thống tư pháp có quyền phán quyết độc lập với bộ máy hành chính cùng cấp
nhưng trong thực tế lại không
2
xây ra như vậy. Trong thực tế giải quyết
các vụ án hành chính, toà án nhân dân cấp huyện (hoặc cấp tỉnh) rất khó
quyết định Uỷ ban nhân dân cấp huyện (hoặc cấp tỉnh) bị thua kiện.
Những vấn đề nổi cộm nêu trên cũng đã chỉ
ra phần nào những bất cập trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo
về đất đai hiện nay.
0 comments:
Post a Comment