Kính gửi: Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11 năm 2007), Quốc hội khoá
XII đã thông qua Nghị quyết số 07/2007/QH12 về kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội năm 2008, trong đó đã quyết định nhiều biện pháp để đẩy nhanh
tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xác định thời hạn hoàn
thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phạm vi cả
nước đến hết năm 2010.
Thực hiện Nghị quyết số 07/2007/QH12 của Quốc hội và
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (gọi
là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP), Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn
thực hiện Khoản 2 Điều 66 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đối với việc
đăng ký các giao dịch quyề sử dụng đất kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2008
như sau:
1. Đối với trường hợp người sử dụng đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng trước ngày 01 tháng 11 năm 2007
đã nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật
về đất đai mà người đó có nhu cầu thực hiện các giao dịch quyền sử dụng
đất thì giải quyết như sau:
1.1.Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
04/2006/TTLT/TP-BTNMT ngày 13 tháng 6 năm 2006 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn
bản thực hiện quyền của người sử dụng đất (gọi là Thông tư liên tịch số
04/2006/TTLT/BTP-BTNMT), trước khi thực hiện việc công chứng, chứng
thực hợp đồng giao dịch, Phòng Công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn phải liên hệ với Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
(nơi đã tiếp nhận hồ sơ đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất) để được cung cấp thông tin địa chính;
1.2. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách
nhiệm cung cấp thông tin địa chính theo Mẫu số 03/PYCCC bàn hành theo
Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT và cung cấp thêm các thông
tin sau:
a) Người sử dụng đất có hay không có một trong các
loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50
của Luật Đất đai;
b) Trường hợp người sử dụng đất không có một trong
các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều
50 của Luật Đất đai thì phải cung cấp thêm thông tin là người sử dụng
đất có đủ điều kiện hay không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành của pháp luật về đất đai;
1.3. Phòng Công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn thực hiện công chứng hoặc chứng thực hợp đồng giao dịch
đối với trường hợp sau:
a) Người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai;
b) Người sử dụng đất không có một trong các loại giấy
tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
Đất đai nhưng có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất;
1.4. Việc cung cấp thông tin địa chính, việc công
chứng hoặc chứng thực hợp đồng giao dịch và việc đăng ký giao dịch quyền
sử dụng đất thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Đất đai (gọi là Nghị định số 181/2004/NĐ-CP), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
và Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT.
2. Trường hợp người sử dụng đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một trong các loại giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
thì được thực hiện các giao dịch quyền sử dụng đất chậm nhất đến hết
ngày 31 tháng 12 năm 2010 (theo thời hạn hoàn thành cơ bản việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên phạm vi cả nước được quy định trong
Nghị quyết số 07/2007/QH12 của Quốc hội).
Việc công chứng hoặc chứng thực hợp đồng giao dịch,
việc đăng ký giao dịch được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định
tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và Thông tư
liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT.
Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tư pháp và các
cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện thống nhất khoản 2 Điều 66 Nghị
định số 84/2006/NĐ-CP theo hướng dẫn nêu trên; đồng thời chỉ đạo việc
lập và thực hiện kế hoạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của địa
phương để sớm hoàn thành trước thời hạn nêu trên.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về Bộ Tài nguyên và Môi trường để được giải quyết./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Bộ Tư pháp;
- Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên;
- Các Sở TNMT, Sở Tư pháp;
- Vụ ĐKTKĐĐ, PC, TTr Bộ;
- Lưu VT, ĐĐ.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Đã ký)
Trần Thế Ngọc
|
——————————————————————
MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ THẨM QUYỀN VỀ CÔNG VĂN SỐ 12
1. Đề nghị xử lý hai công văn hướng dẫn về đất đai có điểm chưa phù hợp
Hôm qua (14/1), ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Bộ Tư pháp đã ký công văn
số 09/KTrVB gửi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường và Chủ tịch UBND
thành phố Hồ Chí Minh.
Trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, ông
Lê Hồng Sơn cho biết, vừa qua, để thực hiện quy định tại Điều 66 Nghị
định 84/2007/NĐ-CP về thời hạn thống nhất thực hiện các giao dịch về
quyền sử dụng đất bằng giấy chứng nhận, Bộ Tài nguyên – Môi trường và
UBND thành phố Hồ Chí Minh đã có 2 công văn hướng dẫn về vấn đề này. Bộ
Tài nguyên – Môi trường có Công văn số 12/BTNMT-ĐĐ ngày 2/1/2008 và UBND
thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 9261/UBND-ĐTMT ngày 31/12/2007.
Sau khi thực hiện thẩm quyền kiểm tra văn bản, nghiên cứu nội dung của 2
công văn, Cục Kiểm tra VBQPPL đã phát hiện ra một số điểm không phù
hợp.
Về Công văn số 12/BTNMT-ĐĐ ngày 2/1/2008 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, bên cạnh việc hướng dẫn, tháo gỡ những vướng mắc
thì công văn đã đưa ra một số nội dung hướng dẫn mang tính quy phạm pháp
luật hoặc có cách diễn đạt làm cho người đọc hiểu rằng đây là những quy
định có tính quy phạm. Đặc biệt, tại mục 2 của công văn có nêu: “Trường
hợp người sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì được thực hiện các giao
dịch về quyền sử dụng đất chậm nhất đến ngày 31/12/2010 (theo thời hạn
hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phạm
vi cả nước được quy định trong Nghị quyết số 07/2007/NQ-QH12 của Quốc
hội“. Cục Kiểm tra VBQPPL cho rằng Bộ Tài nguyên – Môi trường đưa
ra những nội dung nêu trên vừa không bảo đảm thẩm quyền về hình thức,
vừa không phù hợp với nội dung Nghị quyết số 07: “phấn đấu đến năm 2010 cơ bản hoàn thành về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tất cả các loại đất trên phạm vi toàn quốc“
Tương tự, Công văn số 9261/UBND-ĐTMT ngày 31/12/2007 của UBND thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra nội dung hướng dẫn: “… Trường
hợp người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận thì vẫn được thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho
quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có đủ hai điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 66 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP…”.
Cục Kiểm tra VBQPPL cho rằng Công văn số 9261 của UBND thành phố Hồ Chí
Minh ban hành trước Công văn số 12 của Bộ Tài nguyên và Môi trường 2
ngày, khi Công văn số 12 được ban hành đã dẫn đến tình trạng nội dung
của 2 công văn mâu thuẫn nhau trong cách hiểu quy định khoản 2 Điều 66
của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
Ông Sơn cho biết thêm, theo hướng dẫn tại Công văn số 9261, “khi có đủ hai điều kiện”
đã dẫn đến việc áp dụng trong thực tế như sau: người sử dụng đất, tuy
đã nộp hồ sơ nhưng không có các loại giấy tờ đã được quy định tại khoản
1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai cũng như người sử dụng đất tuy có các
loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 mà chưa nộp hồ sơ
cũng đều bị loại ra khỏi đối tượng được thực hiện các quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế
chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. “Như vậy, diện được hưởng quyền sẽ còn lại không nhiều, nếu không nói là quá hẹp” – ông Sơn khẳng định.
Bên cạnh việc đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi
trường và Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh xem xét lại nội dung 2
công văn cho bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật, Cục Kiểm tra
VBQPPL cũng mở ra một hướng giải quyết. Đó là, Bộ Tài nguyên – Môi
trường là cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong phạm vi toàn quốc
về vấn đề này, những hướng dẫn của Bộ Tài nguyên – Môi trường có hiệu
lực áp dụng đối với tất cả các địa phương. Do đó, Bộ Tài nguyên – Môi
trường và UBND thành phố Hồ Chí Minh có thể trao đổi để thống nhất cách
hiểu nội dung quy định tại khoản 2 Điều 66 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP,
trường hợp cần thiết có thể báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để
tháo gỡ vướng mắc.
Hồng Thuý – MOJ.GOV.VN
2. Giao dịch nhà đất chưa có “sổ đỏ”: Theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên – Môi trường
Chiều 22.1, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế (Bộ Tư pháp) Dương Đăng Huệ cho biết, trong khi chưa có hướng dẫn mới tháo gỡ vướng mắc đối với hiệu lực giao dịch của đất, nhà chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo khoản 2 Điều 66 Nghị định 84/CP) thì vẫn áp dụng theo giải thích của Bộ Tài nguyên – Môi trường tại công văn số 12.
Chiều 22.1, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế (Bộ Tư pháp) Dương Đăng Huệ cho biết, trong khi chưa có hướng dẫn mới tháo gỡ vướng mắc đối với hiệu lực giao dịch của đất, nhà chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo khoản 2 Điều 66 Nghị định 84/CP) thì vẫn áp dụng theo giải thích của Bộ Tài nguyên – Môi trường tại công văn số 12.
Theo ông Dương Đăng Huệ, vướng mắc trong cách tháo gỡ
của Bộ Tài nguyên – Môi trường chỉ là chưa đúng cách thức ra văn bản
pháp luật, nhưng về chủ trương là đúng. Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên –
Môi trường sẽ có thông tư hướng dẫn về chủ trương tháo gỡ đối với khoản 2
Điều 66 sau khi được Thủ tướng thông qua để đảm bảo nhất thể hóa và
tính hợp pháp của văn bản pháp luật.
Được biết, theo công văn số 12, đối với các loại đất
chưa có “sổ đỏ” nhưng có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại
khoản 1 và 2 Điều 50 Luật Đất đai thì được thực hiện các giao dịch đến
hết 31.12.2010.
(Theo Người Lao Động)
0 comments:
Post a Comment