HẢI YẾN
Thời gian gần đây,
Cty cổ phần Tràng Tiền được khá nhiều báo chí nhắc đến không phải vì
sản phẩm kem nổi tiếng mà vì những mâu thuẫn xung quanh sự việc người
lao động đòi được trả “lương hiệu quả kinh doanh bằng 50% lợi nhuận sau
thuế”. Theo các chuyên gia pháp lý, đây là sự đòi hỏi hoàn toàn không có
cơ sở pháp lý.
Trước hết, cần phân biệt giữa tiền lương và các khoản
phụ cấp có tính chất lương và chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế là
chỉ tiêu được tính vào cuối năm bằng cách lấy tổng doanh thu cộng các
khoản thu nhập khác trừ tổng chi phí sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hợp
lệ và thuế TNDN phải nộp.
Vô lý
Vì vậy, nếu xác định “lương hiệu quả kinh doanh bằng
tỷ lệ % lợi nhuận sau thuế” là xác định một khoản phải chi ngay trên cơ
sở một chỉ tiêu chưa biết hoặc mới chỉ là ước tính. Bên cạnh đó, sau khi
đã bù đắp các khoản chi phí, trong đó có chi phí tiền lương và thực
hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, trong các DN, lợi nhuận sau
thuế là của chủ sở hữu. Với các DNNN, đó là của Nhà nước, với các Cty cổ
phần, đó là của các cổ đông – những người là chủ sở hữu của Cty. Quy
định đó là hợp lý vì khi DN có lãi thì chủ sở hữu được hưởng phần lợi
nhuận sau thuế, ngược lại, nếu DN kinh doanh thua lỗ, thì chủ sở hữu sẽ
bị mất vốn góp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được thực hiện theo
quy định tại Điều lệ Cty. Khoản 12, Điều 22 Luật DN năm 2005 quy định
một trong những Nội dung của Điều lệ Cty là: “12. Nguyên tắc phân chia
lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh”. Điều lệ Cty do các cổ
đông thông qua, không có quy định nào bắt buộc phải lấy ý kiến của người
lao động vào văn bản này.
Nếu thừa nhận việc người lao động được trả “lương
hiệu quả kinh doanh bằng cách trích từ lợi nhuận sau thuế” thì khi Cty
kinh doanh bị lỗ vì lý do khách quan, người lao động cũng phải góp tiền
để bù lỗ cho Cty. Điều đó không được quy định ở bất kỳ văn bản luật nào
và ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Và thiếu căn cứ pháp lý
Căn cứ Luật Lao động, Luật DN, Luật thuế thu nhập DN
hiện hành, tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương mà DN
trả cho người lao động theo đúng quy định của pháp luật là một trong
những khoản chi phí phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của DN. DN phải xây
dựng quy chế lương và đăng ký với Sở LĐ – TB và Xã hội nơi Cty đóng trụ
sở thì các khoản lương và phụ cấp DN chi trả cho người lao động mới
được thừa nhận tính vào chi phí được trừ khi xác định thuế thu nhập DN.
Lợi nhuận sau thuế của Cty cổ phần là của các cổ
đông. Bởi lẽ, theo quy định của Luật DN VN và thông lệ quốc tế, “Cổ đông
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của DN trong
phạm vi số vốn đã góp vào DN”. Điều đó có nghĩa là, nếu Cty hoạt động
kinh doanh có lãi, các cổ đông được chia cổ tức, ngược lại, nếu Cty hoạt
động kinh doanh bị lỗ, hoặc bị phá sản, thì cổ đông sẽ bị mất (một phần
hoặc toàn bộ) số vốn góp. Hơn nữa, kể cả khi có lãi, song do nhu cầu
đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng thương hiệu… các cổ đông có thể quyết
định sử dụng toàn bộ lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. Điều đó luôn luôn
được khuyến khích nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, việc
Cổ đông và Hội đồng Quản trị Cty quyết định trích tỷ lệ 50% (hoặc bất
kỳ một tỷ lệ nào khác) từ lợi nhuận sau thuế để chi trả lương hiệu quả
kinh doanh, là không đúng về nội dung kinh tế của tiền lương. Đòi hỏi
của người lao động về “lương hiệu quả kinh doanh bằng 50% lợi nhuận sau
thuế” về bản chất là đòi chia lãi với chủ sở hữu. Đó là đòi hỏi vượt quá
các quyền của người lao động và có lẽ là “chuyện lạ, có thật” chỉ xảy
ra ở Cty cổ phần Tràng Tiền!
SOURCE: BÁO DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
0 comments:
Post a Comment