Thực tiễn thương mại và
hàng hải quốc tế cũng như quy định của Bộ Luật Hàng hải VN đã có quy
định rõ ràng về vận đơn (trong đó có 2 loại: vận đơn đích danh và vận
đơn theo lệnh). Tuy nhiên, vừa qua có một vụ việc mà tòa án lại ra phán
quyết trái ngược với luật pháp VN và thông lệ quốc tế.
Cuối năm 2006, Cty S ở phía Nam bán một container gồm
2.970 túi xách và balô cho Cty E Sydney – Autralia theo giá FOB TP HCM:
87.035 USD, mã số DN của E ở Autralia là ABN 29112062554-NSW2020 (thực
tế đây là một Cty ma tại Autralia). Hợp đồng mua bán chỉ có 1 trang và
hết sức sơ sài, đặc biệt không đề cập khi nào quyền sở hữu lô hàng
chuyển từ người bán sang người mua.
Sau khi ký hợp đồng mua bán, E uỷ thác Cty giao nhận
vận tải T ở phía Bắc thuê tàu chở hàng từ TP HCM đi Sydney. T ký hợp
đồng lưu cước với Hãng tàu MOL. Ngày 20/12/2006 hàng được bốc lên tàu
tại TP HCM, Hãng tàu MOL cấp vận đơn chủ (Master B/L) cho T, trên cơ sở
đó T cấp vận đơn thứ cấp (House B/L) cho S với tư cách là người giao
hàng (vận đơn của T theo mẫu FIATA). Vận đơn ghi rõ E (cùng với địa chỉ
của họ) là người nhận hàng đích danh ở cảng đích.
Hàng đến Sydney 6/1/2007, Hãng tàu MOL giao hàng cho
đại lý của T ngày 14/1/2007. Từ đó trở đi E không đến lấy hàng. Phí lưu
kho, phạt lưu container lên đến 19.000 đôla Australia, hàng hoá có nguy
cơ hư hỏng hoàn toàn.
Theo tập quán và luật pháp Australia (tương tự như ở
VN) ngày 1/3/2007 đại lý của Cty T đã đưa hàng vào kho ngoại quan của
Hải quan Sydney để xử lý. Mãi ngày 14/4/2007, Cty S mới ra lệnh cho Cty T
đưa hàng về VN nhưng T không thể thực hiện được vì hàng đã đưa vào kho
ngoại quan, hơn nữa đây là vận đơn đích danh nên Cty S không thể ra lệnh
chở hàng về. Tuy vậy, ngày 14/5/2007, Cty E đã đến kho ngoại quan nhận
hàng, đại lý của Cty T không thu hồi vận đơn gốc. Từ đó trở đi, Cty S
luôn khẳng định rằng tuy hàng bán theo giá FOB nhưng với vận đơn gốc
trong tay, Cty S vẫn là chủ sở hữu lô hàng. Vì vậy, do không đòi được
tiền hàng từ E, Cty S đã khởi kiện Cty T tại một Toà án ở phía Bắc đòi
bồi thường 1,7 tỷ VND bao gồm trị giá hàng FOB của lô hàng 87.035 USD và
khoảng 350.000.000 VND các loại tiền phạt lưu kho bãi.
Trước tòa, Cty S (nguyên đơn) cho rằng vận đơn
này về hình thức có vẻ đích danh nhưng thực chất là vận đơn theo lệnh. Ô
chữ “người nhận hàng” ở mặt trước chỉ là ô chữ ghi lại tên và địa chỉ
chứ không có nghĩa đấy là người nhận hàng đích danh. Cty S đang nắm giữ
bản gốc nên vẫn là chủ sở hữu lô hàng. Hơn thế nữa vận đơn Cty S đang có
trong tay, tuy Cty T khẳng định là vận đơn đích danh nhưng vẫn chuyển
nhượng được (nghĩa là S vẫn có quyền ra lệnh giao hàng) vì điều 3.1 mặt
sau ghi rằng “Vận đơn này được ký phát theo hình thức có thể chuyển
nhượng được trừ khi nó được ghi không thể chuyển nhượng được”. Nguyên
đơn cũng cho rằng hợp đồng mua bán của họ là hợp đồng có giá FOB TP HCM
87.035 USD chứ không phải là hợp đồng giao hàng theo điều kiện FOB
Incoterms 2000. Vì vậy họ vẫn có quyền khởi kiện người vận chuyển để đòi
bồi thường.
Cty T lại khẳng định Cty S đã ký hợp đồng mua bán quá
sơ sài và lỏng lẻo thì phải tự gánh lấy hậu quả. Mặt khác, theo Điều 62
Luật Thương mại VN, do hợp đồng mua bán không quy định về việc khi nào
quyền sở hữu về lô hàng chuyển từ người bán sang người mua nên quyền sở
hữu lô hàng này đã chuyển sang người mua kể từ ngày 20/12/2006, (tức
ngày giao hàng ở TP HCM). Ngoài ra Cty T còn khẳng định rằng vận đơn do
họ cấp “Ghi rõ tên người nhận hàng gọi là vận đơn đích danh” như Điều
86, khoản 1, Mục a BLHH VN quy định. Đã là vận đơn đích danh thì không
chuyển nhượng được và người nhận hàng có tên trong vận đơn đích danh là
người nhận hàng hợp pháp và phù hợp với quy định trong Incoterms 2000,
chỉ có họ mới có quyền khởi kiện người vận chuyển nếu thiệt hại thực tế
xảy ra do lỗi của người vận chuyển.
Phán quyết của tòa:
1. Căn cứ vào Điều 3.1 mặt trước (ở đây Toà đã nhầm
lẫn, thực tế là mặt sau hoặc nói chính xác là mặt đối diện với mặt
trước, nguyên văn tiếng Anh là: Overleaf of Reverse Side) vận đơn này
không phải là vận đơn đích danh mà thực chất là vận đơn theo lệnh.
2. Toà cho rằng các chứng từ Hợp đồng mua bán, Hoá
đơn thương mại, Tờ khai hải quan hàng xuất khẩu của lô hàng này không
thể hiện rõ điều kiện giao hàng FOB.
3. Công ty T phải bồi thường cho Công ty S 57.000 USD
(sau khi đã trừ đi phần không ăn khớp giữa hợp đồng mua bán, hoá đơn
thương mại, tờ khai thương mại, tờ khai hải quan hàng xuất khẩu và số
lượng hàng trên vận đơn).
Rõ ràng phán quyết trên của toà án này đã đi ngược
lại thông lệ hàng hải và thương mại quốc tế cũng như luật pháp VN và
luật pháp Australia (nơi hàng đến).
Có lẽ trong lịch sử phát triển hơn 300 năm của ngành
hàng hải thế giới lần đầu tiên có một toà án lại căn cứ vào mặt sau (toà
nhầm lẫn gọi là mặt trước) để phán quyết một vận đơn là đích danh hay
theo lệnh.
Bản thân Toà nói rằng Hợp đồng thương mại, Hoá đơn
thương mại, Tờ khai hàng xuất khẩu không thể hiện rõ điều kiện giao hàng
FOB, trong khi đó Hợp đồng mua bán ghi rõ: “Giá hàng FOB thành phố Hồ
Chí Minh 87.035 USD” và Hoá đơn thương mại cũng ghi rõ: “Giá FOB thành
phố Hồ Chí Minh 87.035 USD, đồng thời Tờ khai hải quan hàng xuất khẩu lô
hàng này đề ngày 18/12/2006 ở ô số 20 ghi rõ: “Điều kiện giao hàng:
FOB”. Đây không phải là hợp đồng giao hàng theo điều kiện FOB thì nó là
hợp đồng giao hàng theo điều kiện gì?”.
Từ vụ kiện nói trên vấn đề đặt ra là các DN VN khi
xuất khẩu hàng hoá theo Incoterms 2000 ra nước ngoài, nhất là thị trường
Anh, Mỹ, Australia, Ấn Độ… nên sử dụng vận đơn theo lệnh để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình, hết sức tránh dùng vận đơn đích danh,
nhất là khi xuất hàng sang các thị trường áp dụng luật án lệ như những
nước nói trên.
SOURCE: BÁO DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment