NGUYỄN XUÂN
Pháp luật điều chỉnh lĩnh
vực đất đai đã qua nhiều lần sửa đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Do ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nên có một số mâu thuẫn trong các
quy định liên quan đến vấn đề khiếu kiện về đất đai. Tuy nhiên, từ khi
Nghị định 181 và Nghị định 84 ra đời, việc phân định thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện trong trường hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (QSDĐ)cơ bản không còn vướng mắc.
Không mâu thuẫn về thẩm quyền giải quyết
Điều 136 Luật Đất đai phân định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai đối với hai trường hợp có, không có giấy chứng nhận
QSDĐ. Nếu đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
Đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân
dân giải quyết. Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các
loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
thì được giải quyết theo con đường khiếu nại hành chính. Theo quy định
này, Tòa án nhân dân chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
giữa các cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư khi có phát sinh tranh chấp
đất đai với nhau, còn thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện.
Tuy nhiên, đối với việc thu hồi chứng nhận quyền sử
dụng đất, Điều 42 Nghị định 181 quy định: Sở Tài nguyên và Môi trường có
thẩm quyền thu hồi chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương cấp; Phòng Tài nguyên và Môi trường thu hồi chứng
nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh cấp. Điều này hoàn toàn phù hợp, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thuộc các trường hợp: cấp đổi; sạt lở tự nhiên đối với cả thửa đất;
có thay đổi ranh giới thửa đất mà phải cấp mới giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; các trường hợp tại Điều 38 Luật Đất đai (bắt buộc phải thu hồi
đất) thì cơ quan hành chính có thẩm quyền sẽ thu hồi vì được cấp trái
pháp luật. Đây là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
không phải là tranh chấp đất đai giữa các cá nhân, tổ chức với nhau nên
thẩm quyền giải quyết do các cơ quan hành chính thực hiện là hoàn toàn
phù hợp, không mâu thuẫn pháp lý hay xung đột thẩm quyền giải quyết.
Không xung đột pháp lý
Điều 21 Nghị định 84 quy định vấn đề thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ đã được cấp trái pháp luật đối với từng trường hợp cụ thể: Khoản 1
quy định cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ căn cứ văn bản kết luận
của cơ quan thanh tra hoặc cơ quan điều tra, nếu thấy kết luận đó đúng
thì có quyền ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 2
quy định trường hợp chính cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ phát hiện
giấy chứng nhận đã cấp là trái pháp luật thì thông báo bằng văn bản để
Thanh tra cùng cấp thẩm tra. Qua thẩm tra, xác định giấy chứng nhận QSDĐ
đã cấp trái pháp luật thì cơ quan đã cấp giấy chứng nhận ra quyết định
thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 3 quy định, trường hợp
công dân phát hiện giấy chứng nhận đã cấp sai pháp luật có quyền gửi văn
bản kiến nghị đến cơ quan đã cấp. Cơ quan đã cấp giấy chứng nhận thực
hiện biện pháp như khoản 2 nêu trên để giải quyết kiến nghị của công
dân. Cả 3 trường hợp nêu trên đều thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hành chính. Cụ thể là cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ trái pháp
luật- trong đó, cơ quan giúp việc cho cơ quan đã cấp là Thanh tra cùng
cấp. Tuy nhiên, do chưa nắm chính xác nội dung các quy định, có ý kiến
cho rằng, đây là xung đột pháp lý về thẩm quyền giải quyết. Như đã dẫn
chứng, Điều 21 Nghị định 84 quy định “Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã
cấp đối với các trường hợp không thuộc quy định tại khoản 2
Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, các khoản 1, 2 và 3 Điều này chỉ
được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực thi hành”. Như vậy, điều luật đã loại trừ các trường hợp tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân; cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chỉ thực hiện việc thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều 21
Nghị định 84 và Khoản 2, Điều 42 Nghị định 181 nên không có sự mâu thuẫn
hay xung đột thẩm quyền giải quyết từ phía các quy định pháp lý của hai
Nghị định.
Quy định pháp lý qua các giai đoạn ban hành, sửa đổi,
bổ sung… đôi khi còn mâu thuẫn, chồng chéo. Điều quan trọng là phải
nghiên cứu kỹ để hiểu chính xác và vận dụng đúng trong cuộc sống. Đây
cũng là điều kiện tránh sự xung đột trong quá trình thực thi pháp luật.
SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN
Trích dẫn từ:
= = = = = = = =
XUNG ĐỘT PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN TRƯỜNG HỢP ĐÃ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
NGUYỄN THANH BÌNH
Nghị định số 181 ngày
29.10.2004 và Nghị định số 84 ngày 25.5.2007 của Chính phủ có một số
điều, khoản quy định có thể đã gây ra những xung đột pháp lý về thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với các trường hợp đã được cơ
quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là “sổ
đỏ”).
Điều 42 khoản 3 Nghị định số 181 quy định: “Trường
hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất
ổn định được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì việc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết
định của Tòa án nhân dân đã được thi hành…”. Theo đó, những khiếu kiện
về QSDĐ mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ thuộc thẩm
quyền của tòa án và chỉ có tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải
quyết. Trước khi tòa án thụ lý, giải quyết, việc tranh chấp đó phải qua
UBND cấp xã, phường hòa giải nhưng không thành.
Điều 67 khoản 2, điểm a Nghị định số 84 quy định bãi
bỏ Điều 42 khoản 3 Nghị định số 181 nêu trên. Tuy nhiên, Điều 21 Nghị
định 84 lại có những nội dung quy định chưa thống nhất, thậm chí còn mâu
thuẫn về thẩm quyền, cách thức giải quyết một số trường hợp tranh chấp
mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Cụ thể, khoản 1 quy
định cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ căn cứ văn bản kết luận của cơ
quan thanh tra hoặc cơ quan điều tra, nếu thấy kết luận đó đúng thì có
quyền ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 2 quy định
trường hợp chính cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ phát hiện giấy
chứng nhận đã cấp là trái pháp luật thì thông báo bằng văn bản để Thanh
tra cùng cấp thẩm tra. Qua thẩm tra, xác định giấy chứng nhận QSDĐ đã
cấp trái pháp luật thì cơ quan đã cấp giấy chứng nhận ra quyết định thu
hồi giấy chứng nhận đã cấp. Khoản 3 quy định, trường hợp công dân phát
hiện giấy chứng nhận đã cấp sai pháp luật có quyền gửi văn bản kiến nghị
đên cơ quan đã cấp. Cơ quan đã cấp giấy chứng nhận thực hiện biện pháp
như khoản 2 nêu trên để giải quyết kiến nghị của công dân.
Như vậy, cả 3 trường hợp nêu trên đều thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan hành chính. Cụ thể là cơ quan đã cấp giấy
chứng nhận QSDĐ trái pháp luật; trong đó, cơ quan giúp việc cho cơ quan
đã cấp giấy là Thanh tra cùng cấp. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 21 Nghị định
84 lại quy định các trường hợp thuộc quy định tại khoản 1, 2 và 3 nêu
trên chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân
dân đã có hiệu lực thi hành (tức là thuộc thẩm quyền của tòa án), trừ
trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 42 Nghị định số 181. Quy định
như vậy vừa mâu thuẫn với quy định tại 3 khoản nêu trên, vừa không
lôgích.
Từ khi có Nghị định 84 đến nay, nhận thức và vận dụng
pháp luật để xác định thẩm quyền, cách thức giải quyết các tranh chấp
về đất mà người sử dụng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ở mỗi nơi, mỗi
vụ, việc mỗi khác. Tình trạng chuyển đơn vòng quanh giữa cơ quan hành
chính với Tòa án làm cho người dân bức xúc, gây mất trật tự xã hội và
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Thực tế, tranh chấp
liên quan đến việc đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ xảy ra nhiều, các cơ quan
và công chức Nhà nước không nhận thức thống nhất nên không giải quyết
đúng đắn được. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xem xét vấn
đề này để sớm có văn bản hướng dẫn hoặc bổ sung, sửa đổi quy định cho
thống nhất, giúp cho việc vận dụng pháp luật chính xác và thống nhất
trong cả nước.
SOURCE: BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment