THS. NGUYỄN THỊ DUNG – Đại học Luật Hà Nội
Phát triển công nghiệp và đô
thị là một tiến trình tất yếu trên toàn thế giới. Và, thu hồi đất nông
nghiệp là cách thức thường được thực hiện để xây khu công nghiệp và đô
thị. Quá trình thu hồi đất đặt ra rất nhiều vấn đề kinh tế – xã hội cần
được giải quyết kịp thời và thỏa đáng. Để có thể hài hòa được lợi ích
của xã hội, tập thể và cá nhân, mỗi quốc gia có cách làm riêng của mình.
1. Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong khu vực
Ở Trung Quốc, có thể nói, mục tiêu bao
trùm lên chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là hạn chế đến mức
tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị
ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc
thu hồi đất là không thể tránh khỏi thì có sự chuẩn bị cẩn thận phương
án đền bù, trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của nhà nước, tập thể và
cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi đất có thể khôi phục lại
hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước
thu hồi đất thì người nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi
thường. Người bị thu hồi đất được thanh toán ba loại tiền: tiền bồi
thường đất đai, tiền trợ cấp về tái định cư, tiền trợ cấp bồi thường hoa
màu trên đất. Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái
định cư căn cứ theo tổng giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm
trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền bồi thường cho hoa màu, cho các loại
tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức bồi thường cho giải tỏa mặt bằng được thực
hiện theo nguyên tắc đảm bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao
hơn nơi ở cũ. Việc quản lý giải phóng mặt bằng được giao cho các cục
quản lý tài nguyên đất đai ở địa phương đảm nhiệm. Tổ chức, cá nhân được
quyền sử dụng thửa đất nào sẽ trả tiền thuê một đơn vị xây dựng giải
tỏa mặt bằng.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi giải phóng mặt
bằng, phương thức chủ yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách
tính ba khoản sau: Một là, giá cả xây dựng lại, chênh lệch giữa giá xây dựng lại nhà mới và nhà cũ; Hai là, giá đất tiêu chuẩn; Ba là, trợ cấp về giá cả. Ba khoản này cộng lại là tiền bồi thường về nhà ở.
Việc bồi thường nhà ở cho dân ở thành phố khác với
việc bồi thường cho dân ở nông thôn, bởi có sự khác nhau về hình thức sở
hữu đất đai ở thành thị và nông thôn. Đối với nhà ở của người dân thành
phố, nhà nước bồi thường bằng tiền là chính, với mức giá do thị trường
bất động sản quyết định qua các tổ chức trung gian để đánh giá, xác định
giá. Với người dân nông thôn, nhà nước thực hiện theo những cách thức
rất linh hoạt, theo đó, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có cách bồi thường
khác nhau: tiền bồi thường về sử dụng đất đai; tiền bồi thường về hoa
màu; bồi thường tài sản tập thể.
Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở
dĩ Trung Quốc có những thành công nhất định trong công tác bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư là do thứ nhất, đã xây dựng các chính sách và
thủ tục rất chi tiết, ràng buộc đối với các hoạt động tái định cư, đảm
bảo mục tiêu tạo cơ hội phát triển cho người dân tái định cư, tạo các
nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư. Thứ hai, năng lực
thể chế của các chính quyền địa phương khá mạnh. Chính quyền cấp tỉnh
chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc thực hiện chương trình bồi thường
hỗ trợ tái định cư. Thứ ba, quyền sở hữu đất tập thể làm cho việc
thực hiện bồi thường hỗ trợ tái định cư có nhiều thuận lợi, đặc biệt là
ở nông thôn. Tiền đền bù cho đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia
đình mà được cộng đồng sử dụng để tìm kiếm, phát triển đất mới hoặc mua
của các cộng đồng sở tại hay dùng để phát triển kết cấu hạ tầng. Chính
quyền thôn, xã chịu trách nhiệm phân chia cho các hộ bị ảnh hưởng.
Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại
nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm; tốc độ tái định cư chậm, thiếu
đồng bộ, thực hiện giải phóng mặt bằng trước khi xây xong nhà tái định
cư…
Ở Thái Lan, cũng giống như ở nhiều nước
khác trong khu vực châu Á, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng,
mọi giao dịch về đất đai đều do cơ chế thị trường điều tiết. Tuy nhiên,
với những dự án do Chính phủ quản lý, việc đền bù được tiến hành theo
trình tự: tổ chức nghe ý kiến người dân; định giá đền bù.
Giá đền bù phụ thuộc vào từng khu vực, từng dự án.
Nếu một dự án mang tính chiến lược quốc gia thì nhà nước đền bù với giá
rất cao so với giá thị trường. Nhìn chung, khi tiến hành lấy đất của
dân, nhà nước hoặc cá nhân đầu tư đều đền bù với mức cao hơn giá thị
trường(1).
Ở Hàn Quốc, vào những năm 70 của thế kỷ
trước, trước tình trạng di dân ồ ạt từ các vùng nông thôn vào đô thị,
thủ đô Xơ-un đã phải đối mặt với tình trạng thiếu đất định cư trầm trọng
trong thành phố. Để giải quyết nhà ở cho dân nhập cư, chính quyền thành
phố phải tiến hành thu hồi đất của nông dân vùng phụ cận. Việc đền bù
được thực hiện thông qua các công cụ chính sách như hỗ trợ tài chính,
cho quyền mua căn hộ do thành phố quản lý và chính sách tái định cư.
Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ
do thành phố quản lý, được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách
Xơ-un khoảng 5 km. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi thị trường
bất động sản bùng nổ, hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại
quyền mua căn hộ của mình với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc
2. Kết quả thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở Việt Nam
Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng
như yêu cầu của các quy luật kinh tế. Quan tâm tới lợi ích của những
người bị thu hồi đất, Nghị định 197/2004/NĐ-CP sau một thời gian thực
hiện, đặc biệt là sau sự ra đời của NĐ 84/2007/NĐ-CP đã thể hiện được
tính khả thi và vai trò tích cực của các văn bản pháp luật. Vì thế, công
tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong thời gian qua đã đạt được các
kết quả khá khả quan, thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư ngày càng được xác định đầy đủ chính xác, phù hợp với tình
hình thực tế của đất nước, giúp cho công tác quản lý đất đai của Nhà
nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng thấy thỏa đáng.
Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao
tạo điều kiện cho người dân bị thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản
bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã được bổ sung và quy định rất rõ ràng,
thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước nhằm giúp cho
người dân ổn định về đời sống và sản xuất.
Thứ ba, việc bổ sung quy định về quyền tự thỏa
thuận của các nhà đầu tư cần đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm
sức ép cho các cơ quan hành chính trong việc thu hồi đất.
Thứ năm, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường
hỗ trợ tái định cư đã giải quyết được nhiều khúc mắc trong thời gian
qua, giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác bồi
thường, tái định cư đạt hiệu quả.
Thứ sáu, các địa phương bên cạnh việc thực
hiện các quy định Luật đất đai năm 2003, các Nghị định hướng dẫn thi
hành, đã dựa trên sự định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước, tình
hình thực tế tại địa phương để ban hành các văn bản pháp luật áp dụng
cho địa phương mình, làm cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
được thực hiện hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn như: Quyết định
143/QĐ-UB sửa đổi bổ sung một số vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư của UBND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15/08/2007; Quyết định số
80/2005/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội…Do đã vận dụng các chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thỏa đáng nên việc thu hồi đất tiến hành
bình thường, mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng con số này ít và
không gây trở ngại đáng kể trong quá trình thực hiện.
Thứ bảy, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa
nhân văn cũng như tính chất phức tạp của vấn đề thu hồi đất, tái định cư
của các nhà quản lý, hoạch định chính sách, của chính quyền địa phương
được nâng lên. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để tạo điều kiện vật chất và
kỹ thuật trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư có năng lực và có nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo; sự chia
sẻ kinh nghiệm thực tiễn của công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
giữa các bộ, ban, ngành có các dự án đầu tư ngày càng được mở rộng và có
hiệu quả.
Nhờ những cải thiện về quy định pháp luật về phương
pháp tổ chức, về năng lực cán bộ thực thi giải phóng mặt bằng, tiến độ
giải phóng mặt bằng trong các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn
so với các dự án cũ, góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người
dân cũng như đối với dự án. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đã giúp cho đất nước ta xây dựng cơ sở vật chất, phát
triển kết cấu hạ tầng, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, các dự án trọng điểm của Nhà nước, cũng như góp phần chuyển
đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị
thu hồi.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó chúng ta cũng
còn những tồn tại, vướng mắc khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư, trong đó đặc biệt là vấn đề giá đền bù, gây những tác động tiêu cực
đối với thị trường bất động sản.
Để góp phần làm lành mạnh thị trường bất động sản,
tạo thuận lợi cho việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, phục vụ quá
trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, theo chúng tôi, cần xử
lý một số vấn đề sau:
Một là, đảm bảo tính thống nhất, nhất quán
trong chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư, tránh tình trạng mỗi
địa phương, mỗi dự án, mỗi công trình có mức bồi thường và hỗ trợ khác
nhau, từ đó làm nảy sinh ý tưởng so sánh quyền lợi từ phía người dân.
Khẩn trương hoàn thiện các quy định của pháp luật, theo hướng dựa trên
cơ sở thị trường để giải quyết vấn đề bồi thường cho người bị thu hồi
đất.
Hai là, nâng cao chất lượng công trình quy
hoạch tái định cư; chú ý đến yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen của
đồng bào các dân tộc khi xây các khu tái định cư.
Ba là, nâng cao năng lực thực hiện bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư của các ban, ngành ở địa phương và các đơn vị tư
vấn, cũng như tinh thần trách nhiệm, sự tuân thủ trình tự thủ tục theo
quy định của pháp luật, của cán bộ thực thi việc kiểm kê, kiểm đếm, lập
phương án đền bù.
Bốn là, có một kế hoạch dài hạn với nguồn tài
chính đảm bảo trong nhiều năm để thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. Khống chế một cách nghiêm chỉnh về quy mô thu hồi đất; xác định tiêu
chuẩn bồi thường một cách hợp lý và hoàn thiện hơn nữa quy trình thu
hồi đất.
Năm là, khắc phục những khó khăn trong việc
xác định nguồn gốc đất dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định điều kiện
để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân.
Tóm lại, những vấn đề nảy sinh trong thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư là không thể tránh khỏi đối với bất cứ quốc
gia nào, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Khắc phục những tồn tại
đó sẽ đảm bảo sự ổn định, nâng cao điều kiện sống cho người dân ở những
khu vực có đất bị thu hồi, góp phần vào sự vận hành và phát triển của
thị trường bất động sản ở Việt Nam./.
(1) Changchui He, Opening statêmnt at the Reghional Conference on Land Titling in Thailand, 19-21,2003, Bangkok, Thailand,http://www.fao.org/reguonal/rap/speeches/2003/3030219.html; 2-Land Ownership in Thailand, http//www.phuket-realestate-law.com/law/law- Ownership.htm)
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 11 (179) NĂM 2009
0 comments:
Post a Comment