GS, TSKH. VŨ MINH GIANG - Phó Giám đốc Đại học quốc gia Hà Nội
Sở hữu đất đai
và tôn giáo là hai vấn đề rất khác nhau. Một nặng tính vật chất, thiên
về “đời thường”, một thuộc về “đạo”, hướng về đời sống tinh thần, đậm
màu sắc tâm linh, nhưng cả hai lại rất giống nhau ở một điểm cực kỳ nhạy
cảm và phức tạp. Chính vì vậy mà khi diễn ra một sự kiện nào đó liên
quan trực tiếp đến hai vấn đề này thì tính chất nhạy cảm và phức tạp tất
sẽ bội phần tăng lên.
Trong bài viết này, tác giả không có tham vọng trình
bày cặn kẽ, thấu đáo và toàn diện về vấn đề này, mà chỉ muốn từ những
hiểu biết của mình, nêu ra một số suy nghĩ ban đầu từ góc nhìn lịch sử
với hy vọng giúp người đọc có thêm cơ sở cho việc nhìn nhận, đánh giá
một số sự kiện đang diễn ra.
1 – Một số đặc trưng nổi trội của chế độ ruộng đất trong lịch sử
Gần đây, trước thực tế của hiện tượng “đòi đất”, có ý
kiến cho rằng Luật Đất đai ở ta đã lạc hậu, cần phải thay đổi. Quả thực
luật không phải “nhất thành, bất biến” (hình thành và không biến đổi).
Sự ổn định của nó chỉ là tương đối. Khi thực tiễn của lĩnh vực mà luật
điều chỉnh phát triển tới mức luật trở thành lực cản, kìm hãm thì chắc
chắn luật phải được xem xét để chỉnh sửa, bổ sung, thậm chí thay đổi.
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn cần phải được cân nhắc thận trọng, đánh giá
một cách toàn diện và phải được tiến hành theo đúng quy trình lập pháp
chứ không thể căn cứ vào một số đòi hỏi cụ thể để vội vàng nhận định
rằng luật đã “lạc hậu”, phải thay đổi.
Cũng có người đem so với luật của nước ngoài, chủ yếu
là của các nước Âu – Mỹ để đi tới nhận định luật đã “lạc hậu”. Thực tế
lịch sử thế giới cho thấy, tiếp thu, học tập lẫn nhau trong lĩnh vực
luật pháp là việc thường thấy vì luật pháp là một bộ phận của văn hóa
với đặc trưng quan trọng là giao lưu, tiếp biến. Tuy nhiên, điều đó
không bao giờ đồng nghĩa với việc tùy tiện nói luật nước này lạc hậu hơn
luật nước kia.
Liên quan đến ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, có
hai nhân tố nổi trội, tác động rất mạnh mẽ và thường xuyên đến chế độ sở
hữu là quan hệ cộng đồng và vai trò của Nhà nước. Đây là điểm khác biệt
căn bản giữa Việt Nam với các quốc gia khác. ở châu Âu, chế độ tư hữu
ruộng đất hình thành rất sớm và từ thời cổ đại đã hình thành các thiết
chế bảo đảm quyền sở hữu tư nhân. Điều này tuyệt nhiên chẳng liên quan
gì đến quan niệm cho rằng, châu âu văn minh hơn hay tiến hóa hơn mà đơn
giản chỉ là ở đây, sản xuất nông nghiệp ít (hoặc thậm chí là không) cần
đến công sức của cộng đồng và cũng không yêu cầu sự hỗ trợ từ nhà nước.
Trong khi đó ở Việt Nam, một xứ sở mà mưa lũ, bão lụt diễn ra thường
xuyên, hệ thống sông ngòi dày đặc, cư dân lấy trồng lúa nước làm nghề
sống chính không thể làm ăn, sinh sống nếu thiếu sức mạnh của cộng đồng
và vai trò đắp đê trị thủy của Nhà nước. Điều này giải thích tại sao ở
Việt Nam sở hữu công điền tồn tại rất lâu, có thể nói là nhất thế giới.
Đó là một đặc trưng nổi trội của chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam, là
di tồn của lịch sử được phản ánh đậm nét trong các bộ luật về đất đai từ
trước cho đến nay. Điều này đã quy định tính chất không triệt để, không
hoàn toàn của sở hữu tư nhân ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà những người
phương Tây đến Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, khi so sánh với chế độ ruộng
đất ở châu âu, từng đưa ra nhận xét rằng ở đây “không có sở hữu tư
nhân”. Dù có không thích, có chê bai rằng đó là lạc hậu thì đây vẫn là
một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của ai.
Nhận xét trên đây của những người châu âu còn xuất
phát từ hiện tượng có thể là “xa lạ” với họ, nhưng lại rất bình thường
đối với người Việt Nam là Nhà nước có quyền lực rất lớn đối với đất đai.
ở Việt Nam từng tồn tại rất lâu dài quyền sở hữu tối cao của Nhà nước
về ruộng đất. Nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các loại hình sở hữu,
kể cả sở hữu tư nhân, chẳng hạn như ấn định quy mô sở hữu (hạn điền), tịch thu ruộng bỏ hoang giao cho người khác cày cấy, hoặc trưng dụng ruộng đất
vào việc xây dựng các công trình công cộng (đắp đê, làm đường, xây cất
cầu cống…). Điều cần làm rõ là quyền lực này không phải chỉ là ý chí chủ
quan của chính quyền mà còn có căn nguyên lịch sử, do những tác động
của hoàn cảnh khách quan. Chính quyền qua các thời kỳ lịch sử là người
tổ chức đắp đê, trị thủy, cứu trợ dân chúng hằng năm mỗi khi bị thiên
tai, vì vậy có vai trò rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Có thể ví von
một cách hình tượng là nếu như ở phương Tây, mùa màng năm sau tốt hay
xấu chỉ phụ thuộc vào độ dày mỏng của tuyết trong mùa đông năm nay, thì ở
Việt Nam, sản xuất nông nghiệp phát triển hay đình đốn phần nhiều lại
phụ thuộc vào năng lực quản lý của chính quyền. Với ý nghĩa đó, mỗi thửa
ruộng, mỗi thước đất đã hàm chứa một phần sở hữu của Nhà nước.
2 – Tác động của hoàn cảnh lịch sử
Hoàn cảnh lịch sử là một một khái niệm có nội hàm
rộng, nhưng về đại thể, đó là những tác động lớn, ngoài ý muốn chủ quan.
Chẳng riêng gì Việt Nam mà ở bất cứ nơi đâu, chế độ sở hữu ruộng đất
luôn gắn rất chặt với hoàn cảnh lịch sử. Khác với nhiều nước trên thế
giới, từ ngàn xưa nhân dân Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với rất
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Có thể nói nước ta là nơi có tần số
chiến tranh chống ngoại xâm vào loại nhiều nhất thế giới. Ngoài vai trò
tổ chức đắp đê, trị thủy, cứu trợ do thiên tai, chính quyền ở Việt Nam
qua các thời còn là người tổ chức các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Quyền sở hữu tối cao của Nhà nước về ruộng đất một phần cũng từ đây mà
ra. Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu thế kỷ XV, ngay sau khi đánh thắng
quân xâm lược Minh, nhà Lê có thể ban hành Luật Quân điền, theo đó Nhà
nước tuyên bố tất cả ruộng đất trong nước thuộc về vua và đưa ra quy
định chia ruộng cụ thể cho tất cả các làng xã thực hiện. Quyền sở hữu
tối cao này có thay đổi theo thời gian nhưng tồn tại cho đến tận năm
1886 khi thực dân Pháp ép vua Đồng Khánh phải từ bỏ. Trong trường hợp
này, tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu tối cao (mà thực chất là trao lại cho
chính quyền đô hộ thực dân) của một ông vua bù nhìn đồng nghĩa (và cũng
đồng thời) với việc nước ta hoàn toàn mất độc lập, chủ quyền (1).
Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam
giành lại độc lập thì việc toàn bộ đất đai thuộc về toàn dân cũng là hợp
với lô-gic lịch sử. Theo lô-gic đó, nếu chỉ viện dẫn bằng khoán này nọ
do chính quyền thực dân cấp, hoặc đòi hỏi một thứ tư hữu hóa tuyệt đối
như ở phương Tây để cho là luật này sai, luật kia đúng là chưa hiểu hết
văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Trở lại ý kiến cho rằng luật nước ta “lạc hậu”so với
luật nước ngoài, cần phải nắm vững đặc tính phản ánh của luật pháp. Đó
là lĩnh vực luôn luôn in đậm dấu ấn văn hóa của một cộng đồng dân tộc.
Có thể dẫn ra đây một một số thí dụ rất đơn giản và dễ hiểu. Chẳng hạn,
những nước trong luật giao thông quy định đi bên phải là đúng (như nước
ta chẳng hạn) không thể phê phán những nước có luật quy định đi bên trái
mới là thuận chiều (như Nhật Bản, Anh, Thái Lan…). Hay chúng ta có thể
thấy theo luật pháp của những nước theo đạo Hồi thì đàn ông được lấy 4
vợ là phản ánh văn hóa của thế giới Hồi giáo, không thể coi là mẫu mực
cho các nước khác học tập. Rồi nữa, có thể dẫn ra nhiều điều của bộ luật
Hồng Đức (thời Lê) về quyền của phụ nữ rất khác với luật Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc… Chuyên gia của những nước này từng rất ngạc nhiên là
mặc dù cùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Khổng giáo, nhưng phụ
nữ Việt Nam thời phong kiến lại được luật pháp bảo vệ quyền bình đẳng
với nam giới trong chia quyền thừa kế, thậm chí có thể được bỏ chồng nếu
người chồng phạm những tội ngược đãi vợ… Cho nên khi xem xét luật luôn
phải lưu ý đó là một sản phẩm của văn hóa, phản ánh đời sống của một
cộng đồng dân tộc, khó có thể lấy luật nước nào làm chuẩn mực.
3 – Quan hệ giữa tôn giáo và chính quyền trong lịch sử Việt Nam
Từ xa xưa, quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo luôn là
vấn đề hệ trọng. Các nhà sử học thường gọi hai thực thể này dưới thời
phong kiến là vương quyền và thần quyền. ở châu âu trung cổ, thần quyền
thường có vị trí cao hơn vương quyền. Những lễ nghi quan trọng (kể cả lễ
đăng quang) thường tổ chức ở nhà thờ. Tại đây người có giáo phẩm cao
thường làm nghi lễ đội vương miện lên đầu ông vua mới lên ngôi hàm ý nhà
thờ có quyền trao cho ông ta quyền cai trị thế tục. ở Nam Âu, có tục
Thần – Vua đồng nhất (Deva – raji), theo đó vị quân vương chính là một
vị thần. Còn ở Việt Nam, theo hiểu biết của tôi, chưa bao giờ có tôn
giáo nào đứng trên vương quyền. Chẳng hạn, người ta thường nói vào thời
Lý, Phật giáo là Quốc giáo với người đứng đầu Quốc sư, nhưng theo sử
sách, chức đó là do vua ban và vị trí trang trọng nhất mà vị Quốc sư đó
lấy làm vinh hạnh là được đứng ngang với Thế tử (người con được chọn sẽ
kế vị ngai vua) trong các buổi thiết triều.
Điều quan trọng là qua các thời kỳ lịch sử, các tôn
giáo đã tìm được chỗ đứng trong lòng dân tộc, gắn bó với số phận của dân
tộc và có quan hệ tốt với chính quyền. Phật giáo là tôn giáo du nhập
vào Việt Nam từ rất sớm và có những bước thăng trầm trong quá trình phát
triển. Trong thời kỳ thịnh đạt, Phật giáo cũng có rất nhiều đất đai,
nhưng phần lớn trong số đó cũng là do Nhà nước cấp. Thậm chí, có lúc
triều đình (dưới thời Trần chẳng hạn) còn đặt ra một ngạch quan chức để
giúp nhà chúa quản lý đất đai.
Thiên chúa giáo vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVII
và cũng đã từng co những giai đoạn khó khăn, nhưng khi thích ứng với văn
hóa dân tộc, tôn trọng các giá trị truyền thống thì đã có được vị trí
trong đời sống tâm linh của một bộ phận dân tộc. Đồng bào theo Công giáo
Việt Nam vừa thờ Chúa vừa hương nhang thờ cúng Tổ tiên là hiện tượng
độc đáo hiếm có đối với đạo Thiên chúa, vừa phản ánh tính cách người
Việt, vừa nói lên thái độ mềm dẻo của Công giáo.
Người Việt Nam dù theo bất kỳ tôn giáo nào thì phẩm
chất đạo đức hàng đầu vẫn phải là yêu nước, phụng sự dân tộc và tôn kính
Tổ tiên.
Lịch sử Việt Nam cũng chỉ ra rằng, bất kỳ tôn giáo
nào nếu hòa đồng với dân tộc, có quan hệ tốt với chính quyền, hướng tới
sự phát triển khối đoàn kết toàn dân, tham gia bình ổn xã hội nhằm đưa
đất nước đi lên thì luôn được trân trọng. Trái lại, nếu chỉ đặt lợi ích
riêng của tôn giáo lên trên tất cả thì khó lòng tìm được sự ủng hộ của
nhân dân. Đây không phải chỉ là vấn đề ứng xử mà cao hơn thế cũng là vấn
đề đạo lý. Nói tới khía cạnh đạo lý, tôi muốn nhấn mạnh điều mà nếu là
người Việt Nam ai cũng có thể đồng tình, đó là “uống nước nhớ nguồn”,
phải biết cái mình đang có ở đâu mà ra để cư xử cho đúng mực.
Có thể nêu ra đây một thí dụ. Nhà thờ lớn ở Hà Nội
hoành tráng hiện tọa lạc trên một khu đất đẹp đẽ cao ráo ở trung tâm
thành phố. Có điều mà không phải ai cũng biết là đất xây nhà thờ ấy ở
đâu mà ra, tiền xây dựng nhà thờ ấy lấy từ nguồn nào? Quả thực, nếu
không có tư liệu lưu trữ và lời tự thuật của những người trực tiếp xử lý
công việc này thì cũng khó có ai biết được. Năm 1923 Tạp chí Đông Dương
có đăng bài viết của nguyên Công sứ Pháp tại Hà Nội R. Bông-nan với
nhan đề “Ghi chép và hồi ký ở Bắc kỳ (1873 – 1888)(2)”
đã cho chúng ta biết khá tường tận về vấn đề này. R. Bông-nan kể lại
rằng, sau khi quân Pháp chiếm được thành Hà Nội vào năm 1882, vị Giám
mục Hội Truyền giáo Pháp Puy-gi-ni-ê đã đề xuất với ông ta ý muốn xây
dựng một nhà thờ khang trang và khu đất mà ông ta nhắm vào lại đúng vị
trí của chùa Báo Thiên – một ngôi chùa cổ mà chính người Pháp cũng phải
thừa nhận là “được sùng kính nhất thành phố” (3).
Biết rằng việc phá chùa lấy đất xây nhà thờ là không đơn giản, nhưng để
chiều lòng vị cha cố, viên Công sứ Pháp đó dàn dựng một kế hoạch hết
sức tinh vi. Ông ta đã khôn khéo “chuyển trường hợp này cho tổng đốc
Nguyễn Hữu Độ” (người do Pháp dựng lên sau khi tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn
tiết và thành Hà Nội thất thủ) vì “ông ta (Nguyễn Hữu Độ) có quan hệ tốt
với Đức Cha và cũng muốn làm vui lòng Đức Cha như tôi (Bông-nan)”. Ông
tổng đốc này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vị Công sứ giao cho.
Đây là lời kể của Bông-nan về thủ thuật của Nguyễn Hữu Độ: “ông ta chọn
một số kỳ lão trong số dân bản địa theo Công giáo ở khu phố và ra lệnh
họ kiểm tra sự vững chắc của ngôi chùa. Những người này không do dự
tuyên bố ngôi chùa trong khi đổ nát có thể gây ra tai nạn cho người qua
lại. Thế là đâu vào đấy…” Với lý do đó, Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá
chùa Báo Thiên để rồi biếu không cho Hội Truyền giáo miếng đất thu hồi
được. Cần lưu ý rằng sự kiện trên đây xảy ra vào năm 1883, khi quân Pháp
vừa kết thúc việc đánh chiếm Bắc kỳ lần 2 và Hà Nội vẫn chưa tan khói
súng. Từ đó chùa Báo Thiên, ngôi chùa được sùng kính, từng là niềm tự
hào của người Việt đã vĩnh viễn mất đi.
Dẫn lại tư liệu do chính vị Công sứ Pháp kể để thấy nhân dân Việt Nam, chính quyền cách mạng đã nhân ái, vị tha biết chừng nào.
Còn tiền xây nhà thờ lấy đâu ra thì nhà lưu trữ học
người Pháp An-đrê Ma-xông đã tra cứu các tàng thư cho biết, kinh phí xây
dựng nhà thờ nguy nga đó là tiền lấy từ dân chúng qua con đường bán xổ
số của chính quyền thực dân. Lần thứ nhất phát hành ngày 28-1-1884 theo
lệnh của đô đốc Cuốc-bê. Do không đủ, đến 14-8-1886 toàn quyền Pôn Béx
lại ra quyết định phát hành xổ số lần thứ 2 cho nhà thờ. Và công trình
đó hoàn thành vào ngay năm sau (1887).
Câu chuyện trên đây cốt để chúng ta nhớ lại lịch sử,
để thấy việc đặt vấn đề “đòi đất, đòi quyền sở hữu” cũng cần có sự suy
nghĩ sâu xa, cần thấy cả khía cạnh đạo lý – điều mà mọi người có lương
tri, không kể có theo tôn giáo hay không đều tôn trọng.
Từ những điều trình bày trên đây tôi thấy cần phải có
đôi lời về cách đặt vấn đề và xử sự việc đòi đất của giáo xứ Thái Hà ở
178 Nguyễn Lương Bằng và của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội ở 42 Nhà Chung (Hà
Nội).
Trước hết phải nói ngay rằng cá nhân tôi rất kính
trọng kiến thức uyên bác, hiểu biết sâu rộng của các vị linh mục. Chính
vì vậy mà tôi không hiểu nổi vì sao người có giáo phẩm cao như ông Ngô
Quang Kiệt lại hành xử như vậy.
Trước khi kêu gọi giáo dân tham gia vào những sự kiện
được gọi là “đòi đất” như vừa qua thì ít ra cũng phải ngẫm nghĩ thấu
đáo ba điều:
Thứ nhất và quan trọng nhất là hệ
thống các văn bản pháp luật hiện hành. Pháp luật không phải là chính
quyền mà là ý nguyện của dân. Tôn trọng pháp luật là tôn trọng ý nguyện
của nhân dân. Hành xử theo đúng pháp luật là biểu hiện của trình độ văn
hóa. Đó cũng là cách ứng xử của người dân các nước văn minh.
Thứ hai, xa hơn một chút, khi đặt
vấn đề “đòi đất” cần xem xét kỹ tính chính đáng của việc thụ đắc khu đất
đó, phải thấu hiểu nó ở đâu mà ra, cái “quyền” mình có do ai đem lại.
Nghĩa là phải tìm hiểu lịch sử.
Thứ ba, điều sâu xa mà cho dù là ai,
là tổ chức nào cũng cần phải hiểu là mỗi tấc đất trên lãnh thổ Việt Nam
và Thủ đô Hà Nội đều thấm đẫm máu, xương của bao thế hệ đã ngã xuống để
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Hiện nay, toàn bộ đất đai đều thuộc sở
hữu toàn dân là thành quả của bao nhiêu năm đấu tranh hy sinh, gian khổ
của cả dân tộc mới có được.
Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần
đây đã có những chính sách cởi mở và tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn
giáo. Tôi được biết, khi tòa giám mục có nhu cầu, chính quyền Hà Nội đã
rất thiện chí giới thiệu và sẵn sàng dành cho những khu đất đẹp với
diện tích không nhỏ để mở rộng địa bàn xây cất các cơ sở tôn giáo, nhưng
ông Ngô Quang Kiệt và một số linh mục lại không nhận mà chỉ đòi “trả
lại đất”. Như vậy, người ta có thể đặt câu hỏi phải chăng mục đích của
sự kiện vừa qua đâu phải là vì sự phát triển của tôn giáo?
Tôi cho rằng cách đặt vấn đề “đòi lại đất” xét từ góc
độ pháp lý, lịch sử và cả đạo lý đều không phù hợp. Với ý nghĩa đó,
việc chính quyền Thủ đô quyết định xây dựng trên các khu đất này những
công viên cây xanh, khu vui chơi giải trí phục vụ nhân dân là việc làm
đúng đắn, có ý nghĩa về nhiều mặt. Tôi tin rằng, tuyệt đại đa số quần
chúng nhân dân đồng tình với cách giải quyết đó./.
(1) Xem thêm Vũ Minh Giang: “Sự tiến triển của chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí khoa học, 3-1988
(2) R. Bông-nan: Au Tonkin – Notes et souvenirs (1873 – 1886), Revue Indochinoise
(3) An-đrê Ma-xông: Hanoi pendant la périod héroique 1873 – 1888, Paris 1929
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 22 (166) NĂM 2008
0 comments:
Post a Comment