NGUYỄN QUANG DANH
Trong cuộc sống ngoài
xã hội có rất nhiều giao dịch, quan hệ tài sản có liên quan đến hộ gia
đình ở lĩnh vực đất đai, tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, quy định
về hộ gia đình vẫn chưa được làm sáng tỏ, gây lúng túng cho cơ quan quản
lý cũng như người dân.
Hộ gia đình Theo Điều 106 BLDS quy định, hộ gia đình
là những hộ mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức
để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một
số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định. Hộ gia đình
là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực nầy.
Quyền tài sản của hộ gia đình Theo Điều 107 BLDS quy định:
1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao
dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc 1 thành viên khác đã
thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác
đã thành niên làm đại diện của hộ quan hệ dân sự.
2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình
xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ của cả hộ gia đình.
Điều 108 BLDS quy định: “Tài sản chung của hộ gia
đình gồm QSD đất, QSD rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản docác
thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung,
được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là
tài sản chung của hộ”.
Bên cạnh đó. Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự
bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực
hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên
đới bằng tài sản riêng của mình (theo khoản 2, Điều 110 BLDS).
Về định đoạt tài sản là QSD đất của hộ gia đình:
Tại khoản 2, Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai: “Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng,
thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho QSD
đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSD đất thuộc QSD chung
của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi
dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản ủy
quyền theo quy định của pháp luật về dân sự”.
Từ những quy định của Bộ luật Dân sự, Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai về hộ gia đình chúng ta thấy:
- Chủ hộ của hộ gia đình trong BLDS khác với chủ hộ
trong sổ hộ khẩu được quy định tại Luật Cư trú. Chủ hộ của hộ gia đình
có thể đồng thời hoặc khôngđồng thời là chủ hộ trong sổ hộ khẩu và vì
thế chủ hộ trong sổ hộ khẩu không thể đương nhiên dùng tư cách chủ hộ
của hộ gia đình để thực hiện các giao dịch dân sự cho cả hộ (trừ trường
hợp được cả hộ ủy quyền).
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, nếu có bất kỳ giao
dịch dân sự nào liên quan đến hộ gia đình thì cơ quan quản lý nhà nước
cũng như người dân luôn yêu cầu người đại diện phải là chủ hộ trong sổ
hộ khẩu. Thực tế trên đã và đang làm các giao dịch dân sự liên quan đến
hộ gia đình bị hiểu và thực hiện lệch lạc so với quy định pháp luật về
hộ gia đình.
- Đối với tổ chức hành nghề công chứng: Công chứng
các hợp đồng, giao dịch có liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng của
nhiều người như QSD đất của hộ gia đình, tài sản chung của vợ chồng
nhưng trên giấy chỉ ghi tên 1 người thì cách xác định người có quyền lợi
hợp pháp với tài sản giữa các cơ quan cũng không thống nhất. Hiện nay
pháp luật cũng chưa quy định rõ căn cứ nào để xác định chính xác số
lượng thành viên trong 1 hộ gia đình sử dụng đất.
Giữa những quy định về hộ gia đình trong BLDS và sổ
hộ khẩu trong Luật Cư trú chưa có sự đồng nhất nhưng chưa có văn bản
hướng dẫn rõ ràng. Nếu không căn cứ vào số hộ khẩu thì không có cơ sở
nào để xác định các thành viên sử dụng đất, còn nếu căn cứ vào sổ hộ
khẩu để xácđịnh chủ sử dụng đất sẽ dẫn đến những bất cập khi người sử
dụng đất có nhu cầu giao dịch thửa đất đó, cụ thể như người đứng tên chủ
hộ trong giấy chứng nhận QSD đất nhưng không phải là chủ hộ gia đình
trong sổ hộ khẩu gia đình; việc tách nhập, thay đổi sổ hộ khẩu, nhân
khẩu trong thời gian sử dụng đất thì rất khó xác định được chính xác ai
là thành viên của hộ gia đình làm chủ thể hợp pháp khi tham gia giao
dịch.
Và nếu như căn cứ vào sổ hộ khẩu để xác định các
thành viên trong hộ sử dụng đất thì khi công chứng các giao dịch về QSD
đấtcủa hộ gia đình Công chứng viên phải yêu cầu xuất trình sổ hộ khẩu,
điều này lại trái với Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày
13/6/2006 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên Môi trường hướng dẫn việc công
chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng
đất. Vì tại
Thông tư này chỉ cho phép yêu cầu xuất trình sổ hộ
khẩu đối với trường hợp khi nhận chuyển đổi QSD đất nông nghiệp hoặc
nhận chuyển nhượng, tặng cho QSD đất ở, đất nông nghiệp trong phân khu
bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng,
trong khu vực rừng phòng hộ.
Nên xác định thành viên trong hộ gia đình sử dụng
đất. Việc xác định số lượng thành viên, tư cách thành viên trong hộ gia
đình sử dụng đất là rất quan trọng. Bởi vì từ đó xác định được các quyền
sở hữu khối tài sản chung và nghĩa vụ liên đới phát sinh nếu có rủi ro
trong giao dịch, vì vậy: Để giúp cho cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức
hành nghề công chứng, người dân… có căn cứ pháp lý thực hiện các hợp
đồng về QSD đất của hộ gia đình Nhà nước nên sớm có quy định và hướng
dẫn cụ thể về QSD đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ TƯ PHÁP TỈNH ĐỒNG THÁP
0 comments:
Post a Comment