THIÊN LONG
Nhiều quy định
nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác nhau (Luật
Công chứng, quy định về đăng ký bất động sản…) có nhiều điểm “vênh” so
với các quy định của Luật Đất đai hiện hành. Đây là nhận định của nhiều
chuyên gia pháp lý. Điều quan trọng bây giờ là phải nhận thấy những điểm
“vênh” đó để sửa chữa đưa vào Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đất đai năm 2010.
Cần thống nhất dùng cụm từ “công chứng”
Luật sư Tuấn Anh- Đoàn Luật sư TP. Hà Nội nêu ý kiến:
hai cụm từ công chứng trong Bộ luật Dân sự và công chứng nhà nước trong
Luật Đất đai, Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành đã nảy sinh cách hiểu khác nhau: công chứng Nhà nước có giá trị
pháp lý cao hơn công chứng tư. Nhưng thực chất, không có sự khác nhau
giữa hai cụm từ này và Phòng công chứng hay Văn phòng công chứng chỉ là
hình thức hành nghề công chứng khác nhau nhưng giá trị văn bản công
chứng là như nhau. Vì thế, luật sư Tuấn Anh kiến nghị: cần thống nhất sử
dụng cụm từ “công chứng” trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đất đai.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia bất động sản, so với
Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn (Nghị định 79/2007 của Chính
phủ, các qui định về công chứng, chứng thực trong các hợp đồng về quyền
sử dụng đất (từ Điều 122 đến 131 Luật Đất đai 2003) không còn phù hợp.
Về vấn đề này, mới đây, trong cuộc họp nhằm rà soát các qui định về đăng
ký bất động sản, công chứng, chứng thực liên quan đến các đối tượng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai… Vụ Hành chính Tư pháp đề xuất
sửa đổi theo hướng cho phép hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện
chưa có tổ chức hành nghề công chứng được lựa chọn công chứng của tổ
chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc chứng thực của UBND cấp
xã nơi có đất đối với các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử
dụng đất.
Tách bạch thủ tục về giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất
Theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thúy Hiền, khoản 19
Điều 4 Luật Đất đai 2003 qui định: căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ
của chủ thể đối với quyền sử dụng đất là sau khi đăng ký quyền sử dụng
đất. Vậy các trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, thừa kế
quyền sử dụng đất, bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án liên quan
đến quyền sử dụng đất, thì chủ thể có cần đăng ký mới được xác định
quyền và nghĩa vụ đối với quyền sử dụng đất đó không? Do vậy, nên sửa
đổi theo hướng công nhận thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với
quyền sử dụng đất trong các trường hợp này là thời điểm có hiệu lực của
quyết định giao đất, cho thuê đất, của bản án, quyết định của tòa án hay
các hợp đồng giao dịch đã có công chứng. Còn việc đăng ký chỉ là thủ
tục để công khai quyền của chủ thể đó đối với quyền sử dụng đất.
Luật gia Hoàng Giang – Hội Luật gia Việt Nam cho
rằng, pháp luật hiện hành chưa xác định đúng bản chất của hành vi đăng
ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà nên đã đồng nhất thẩm quyền cấp giấy chứng nhận với thẩm quyền
quản lý nhà nước như giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất
của UBND cấp tỉnh và cấp huyện, cũng như đồng nhất quan hệ mang tính
chất dịch vụ công với quan hệ hành chính. Bên cạnh đó, các qui định pháp
luật cũng thể hiện sự không nhất quán khi điều chỉnh hành vi xác lập
quyền sử dụng đất cho người dân (như UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất lần đầu, nhưng nếu quyền sử dụng đất đó được chuyển nhượng cho
người khác thì lại do Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (đơn vị dịch
vụ công) thực hiện cấp. “Do đó, cần tách bạch thủ tục hành chính của
UBND cấp tỉnh và cấp huyện trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất đối với các hoạt động đăng ký bất động sản. Các quyết
định này cũng như bản án, quyết định của Tòa án và giao dịch là căn cứ
xác lập quyền của cá nhân, tổ chức đối với bất động sản, không phụ thuộc
vào việc đăng ký các quyền đó”, luật gia Hoàng Giang nêu ý kiến.
Theo Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, một số
nội dung liên quan đến giấy chứng nhận và cơ quan đăng ký quyền sử dụng
đất còn nhiều bất cập trong thực tiễn khi thực hiện chủ trương “một cửa,
một giấy” theo Nghị quyết số 07 năm 2007 của Quốc hội. Do đó, sửa đổi
Điều 48, Điều 52 Luật Đất đai 2003 là giải pháp có tính khả thi nhất
trong giai đoạn hiện nay.
SOURCE: BÁO ĐỜI SỐNG VÀ PHÁP LUẬT
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment