
ThS. Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Luật, ĐHQGHN
Nguồn: Nghiên cứu Lập pháp,
Số 33(118) Tháng 3/2008 , Hiến kế Lập pháp (tr.49 - 51)
(I)
Cách diễn đạt qui phạm pháp luật
trong Bộ luật Hồng Đức
1. Muốn xây nhà phải có gạch, từng
viên gạch trong tòa nhà pháp luật chính là các qui phạm pháp luật. Một
qui phạm pháp luật thường rất chặt chẽ vì xét về mặt logic nó gồm có 3
bộ phận là giả định, qui định và chế tài. Giả định trả lời câu hỏi chủ
thể nào, thời gian nào, hoàn cảnh nào phải thực hiện pháp luật? Bộ phận
qui định trả lời câu hỏi nếu đặt vào hoàn cảnh đã nêu ở phần giả định
thì chủ thể đó sẽ phải xử sự như thế nào? và bộ phận chế tài trả lời câu
hỏi trường hợp không xử sự đúng yêu cầu đó thì chủ thể sẽ phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi như thế nào?
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật
thành văn nổi tiếng và có giá trị bậc nhất trong cổ pháp Việt Nam. Bộ
luật này gồm 722 Điều, được chia làm 13 Chương, đa phần các điều luật
được xây dựng theo phương thức cả 3 bộ phận là giả định, quy định và chế
tài đồng thời xuất hiện trực tiếp, thậm chí ngay trong cùng một Điều
luật.
Chẳng hạn như:
Điều 586 có ghi: “Trâu
của 2 nhà đánh nhau, con nào chết thì 2 nhà cùng ăn thịt, con nào sống
thì 2 nhà cùng cày, trái luật thì sẽ xử phạt 80 trượng.”. Trong đó:
trâu của 2 nhà đánh nhau là giả định; con nào chết thì 2 nhà cùng ăn
thịt, con nào sống thì 2 nhà cùng cày là quy định; trái luật thì sẽ xử
phạt 80 trượng là chế tài.
Hoặc, Điều 89: “Trước sau ngày hoàng đế
lên ngôi một tháng, cấm các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang,
người nào phạm phải thì phạt 50 roi, biếm một tư”. Trong đó: Trước
sau ngày hoàng đế lên ngôi một táng là giả định; cấm các nhà ở trong
kinh thành cử hành việc tang là qui định; trái luật thì sẽ xử phạt 80
trượng là chế tài.
Với cách mô tả hành vi vi phạm pháp luật và chế
tài đối với chủ thể thực hiện hành vi đó rõ ràng như vậy, người dân sẽ
biết được hành vi nào nên làm, hành vi nào nên tránh. Quan xử án cũng
biết được cần phải xử như thế nào, mức cụ thể ra sao.
Tính chất cụ
thể, rõ ràng của cách diễn đạt thể hiện rất rõ ở việc mô tả ngắn gọn lại
một tình huống cụ thể. Thí dụ như điều 393: “Người cha lấy vợ trước
sinh được một con trai, phần hương hoả đã giao cho giữ; nhưng người con
trai ấy lại chỉ sinh được một người con gái; mà cha có vợ lẽ hay nàng
hầu lại sinh được một con trai nhưng lại bị cố tật, người con trai cố
tật ấy sinh được cháu trai, thì ruộng đất hương hoả phải giao cho người
cháu trai con kẻ cố tật, để tỏ ra rằng dòng họ không thể để tuyệt.”. Hoặc thí dụ, Điều 395: “Cha
mẹ sinh được hai con trai, người con trai trưởng chỉ sinh con gái, con
thứ lại có con trai thì phần hương hỏa giao cho con trai người con thứ;
nhưng con trai người con thứ chỉ sinh cháu gái thì phần hương hỏa trước
kia lại phải giao trả cho con gái người con trưởng”. Ưu điểm của
cách qui định ngắn gọn một tình huống, ngoài việc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ
vận dụng còn cho thấy từ một vấn đề pháp lý khá phức tạp đã được chuyển
hóa thành một tình huống rất đơn giản.
2.
Một nét đặc sắc khác trong quy phạm pháp luật của Bộ luật Hồng Đức
chính là cách qui định chế tài dưới dạng chế tài cố định. Nghĩa là với
mỗi một vi phạm cụ thể thì có một hình phạt cụ thể tương ứng; mức độ
tăng nặng hay giảm nhẹ cũng được quy định ngay sau đó một cách cụ thể,
rõ ràng.
Ví dụ như điều 466 quy định: "Đánh
gãy răng, sứt tai mũi, chột 1 mắt, gãy ngón chân, ngón tay, giập xương,
hay lấy nước sôi, lửa làm người bị thương và rụng tóc, thì xử tội đồ
làm khao đinh. Lấy đồ bẩn thỉu ném vào đầu mặt người ta thì xử biếm 2
tư; đổ vào miệng mũi thì biếm 3 tư. Đánh gãy 2 răng, 2 ngón tay trở lên
thì xử tội đồ làm tượng phường binh. Lấy gươm giáo đâm chém người, dẫu
không trúng cũng phải lưu đi châu gần (người quyền quý phạm tội thì xử
tội biếm). Nếu đâm chém bị thương và làm đứt gân, chột 2 mắt, đoạ thai
thì xử tội lưu đi châu xa. Nếu trong khi đương xét hỏi, người bị thương
lại bình phục, thì tội nhân được giảm tội 2 bậc. Nếu đánh bị thương 2
người trở lên và nhân bị thương mà thành cố tật, hay đánh đứt lưỡi, huỷ
hoại âm, dương vật đều xử tội giảo; và phải đền tiền thương tổn như lệ
định. Với chế tài cố định này, nó đã đảm bảo tính chính xác trong việc
áp dụng luật của các cơ quan Nhà nước, tránh được sự tuỳ tiện trong việc
áp dụng luật”.
3. Làm luật quan trọng nhất là dự đoán
được các vấn đề phát sinh. Dự đoán tốt, luật sẽ có sức sống lâu dài.
Trong Bộ luật Hồng Đức từ một sự kiện hay vụ việc, nhà làm luật đã khéo
léo lường tính các vấn đề phát sinh xung quanh vụ việc đó. Thí dụ, Điều
234: “Những quan coi quân đội ở các trấn, lộ hay huyện cùng những
quan viên trong các cục các viện, đi lại giao kết với nhau, mưu làm việc
phản nghịch, mà quan ty quản giám chẳng lưu tâm xem xét, hay dung túng
giấu giếm không tâu lên, thì cùng với người phản nghịch cùng một tội;
nếu đã tâu lên mà lại ngầm sai người báo cho kẻ phản nghịch biết thì tội
cũng thế. Nếu vì tâu lên không giữ kín đáo để cho kẻ phản nghịch biết
thì viên quan tâu được giảm tội 1 bậc. Nếu việc mưu phản nghịch đã lộ,
việc hung ác đã rõ, mà quan giám không xét tình thế mà lung bắt và tâu
lên, thì bị tội như tội đồng mưu; nếu việc mưu phản chưa lộ thì được
giảm nhẹ hai bậc.”.
(II)
Cách diễn đạt qui phạm pháp luật hiện hành
Thực tế qui phạm pháp luật hiện hành
thường không xuất hiện đầy đủ, trực tiếp cả ba bộ phận giả định, qui
định và chế tài mà thông thường chỉ thể hiện một cách trực quan hai bộ
phận trong một qui phạm đó là giả định và qui định hoặc giả định và chế
tài.
Ví dụ 1: Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2000: “Khi
ly hôn, nếu một bên túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính
đáng, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng cấp dưỡng”
Ví dụ 2: Điều 151 Bộ luật hình sự 1999 có quy định: “Người
nào ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc
người có công nuôi dưỡng mình gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị xử phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.”
Như vậy, ví dụ thứ nhất chỉ xuất
hiện trực tiếp 2 bộ phận là Giả định và Qui định. Khá nhiều người dân
hiện nay do không có điều kiện tiếp cận một cách cơ bản về luật học nên
họ có suy nghĩ rằng qui phạm qui định như ở Điều 60 đến đó là hết, nhiều
người còn hiểu rất nguy hiểm rằng như vậy luật chỉ mang tính chất
khuyên răn, không cấp dưỡng cũng không sao?! Họ không hề biết rằng, đây
là hình thức gửi chế tài, chế tài đã được gửi ở cuối văn bản ở Chương xử
lý vi phạm, hoặc được dẫn chiếu đến văn bản pháp luật khác có liên
quan, có thể là Bộ luật, Luật hoặc một văn bản hướng dẫn khác. Ai phải
thi hành, tuân thủ pháp luật nếu không phải là những người dân, mà cách
qui định thường thấy như lâu nay, người dân dễ gì tiếp cận, mà tiếp cận
nó thì dễ gì để hiểu, mà chưa hiểu thì nói gì đến việc làm đúng được.
Ví dụ thứ hai, bộ phận qui định đã
bị ẩn đi, người ta gọi đó là qui định ẩn, vì theo cách lập luận của các
nhà lý luận, bất kì ai cũng hiểu hành vi “ngược đãi ông bà cha mẹ…” là
một hành vi bị pháp luật ngăn cấm rồi, vì liền sau nó là chế tài. Người
dân thì lại dễ hiểu lầm rằng đây là qui phạm không có qui định.
Phần chế tài của ví dụ 2 là “thì
bị xử phạt cảnh cáo….đến ba năm”. Ai đọc đến đây cũng hiểu rằng phần chế
tài ở đây không phải là chế tài cố định như Bộ luật Hồng Đức, ngược lại
phạm vi áp dụng chế tài ở đây rất rộng “phạt tù từ ba tháng đến ba
năm”. Có người cho rằng phạm vi chế tài rộng như thế, sao tránh được
tình trạng tùy tiện, tình trạng “xử kiểu gì cũng được”?
(III)
Trao đổi và kiến nghị
Bộ luật Hồng Đức ra đời ở một thời
điểm rất xa so với hiện tại, nhiều vấn đề không thể so sánh được, song
những giá trị của Bộ luật về kĩ thuật lập pháp thì lại như một hằng số
đang liên quan trực tiếp đến những vướng mắc của hiện tại, rất đáng để
ta phải suy ngẫm, kế thừa:
1- Việc xây dựng các chế tài cố
định trong Bộ luật Hồng Đức ở một chừng mực nhất định rất thuận lợi cho
việc áp dụng, và có ưu điểm là tránh được sự tùy tiện trong việc áp
dụng. Không nên xây dựng chế tài mà khoảng cách giữa mức thấp nhất và
mức cao nhất của chế tài rộng, rất dễ dẫn đến sự tùy tiện trong việc áp
dụng. Xây dựng nhà nước pháp quyền thì nguyên tắc “cán bộ, công chức sẽ
chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” phải được tuyệt đối tuân
thủ.
2- Pháp luật được đảm bảo thực
hiện ngày nay phần quan trọng là ở người dân, nếu vậy luật phải được xây
dựng một cách rõ ràng, đầy đủ và cụ thể tất cả các bộ phận (giả định,
quy định, chế tài) của quy phạm pháp luật. Có như thế mới tạo điều kiện
để toàn thể mọi tầng lớp nhân dân hiểu luật, sống và làm việc theo pháp
luật. Cũng nên nghiên cứu và học tập các mô tả tình huống, rồi mở rộng,
lường tính tất cả các vấn đề phát sinh trong Bộ luật. Nhà làm luật nên
chăng cần suy nghĩ về các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, dự đoán,
lường tính các vấn đề phát sinh, chứ không phải là đi sửa chữa về mặt
câu chữ theo kiểu “làm văn tập thể” như một Đại biểu quốc hội đã nói
trước Quốc hội.
3- Lý giải về vấn đề phương thức
diễn đạt “gửi chế tài” hay “qui định ẩn” của pháp luật hiện hành, có
quan điểm cho rằng làm như thế là vì “muốn tránh việc lặp lại không cần
thiết”. Nếu như theo cách lý giải trên thì tại sao Luật tổ chức Quốc Hội
năm 2001 có “quá nhiều việc lặp lại không cần thiết”? Cụ thể như Điều 1
của Luật tổ chức Quốc Hội năm 2001 giống với điều 83 của Hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi); cũng như thế
điều 2 giống với điều 84, điều 6 giống với điều 90, điều 7 giống với
điều 91, điều 43 là sự ghép lại của điều 97 và một ý nhỏ thêm vào, một
phần điều 49 giống điều 98, 1 phần điều 58 giống điều 99, điều 62 giống
điều 86, điều 65 viết lại theo ngôn ngữ khác của 1 phần điều 86, Hay như
Luật tổ chức chính phủ năm 2001 cũng như vậy, có quá nhiều điều lặp lại
hoàn toàn hoặc 1 phần của Hiến pháp 92 sửa đổi. Đó không phải là lời
giải thích thuyết phục. Để tránh việc “lồng ghép” lợi ích của ngành của
Bộ cả trong việc trình dự thảo luật lẫn việc ban hành văn bản hướng dẫn,
tại sao chúng ta không nghĩ đến một cơ chế hiệu quả hơn thay thế cách
làm lâu nay là ngay trong một văn bản luật ta chia làm hai phần: Phần
chung và phần riêng. Phần chung chỉ nêu lên những nguyên tắc chung, còn
Phần riêng nêu tất cả các tình huống, các vấn đề phát sinh một cách cụ
thể, chi tiết?
Luật của ta hiện nay chủ yếu vẫn
là luật khung chứ không phải luật chi tiết. Luật khung tạo cơ hội cho
sáng kiến cá nhân phát triển và có khả năng thích ứng cao với những thay
đổi trong thực tiễn, nhưng đó cũng chính là thiên đường của sự lạm
quyền. Còn luật chi tiết thì hạn chế sự lạm quyền, nhưng lại ít có khả
năng thích ứng với thực tiễn thay đổi. Thực trạng “Luật chờ Nghị định,
Nghị định chờ Thông tư” hiện nay đã quá phổ biến, làm nảy sinh hiện
tượng nhiều vấn đề cụ thể, thậm chí cả vấn đề khó thì dành cho văn bản
hướng dẫn thi hành, khó nữa lại đẩy cho cấp thấp hơn. Những người cần
đến luật cứ phải ngóng cổ chờ dài và vô tình tiếp tay cho lối tư duy cục
bộ ngành, cục bộ Bộ, cục bộ địa phương, dễ cho nhà nước mà khó cho dân .
Ngẫm mới thấy, thời nào cũng vậy, Luật càng chi tiết thì người dân càng
dễ nắm bắt, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu, dễ vận dụng và thực hiện theo
luật. Phải chăng đã đến lúc phải suy nghĩ một cách dũng cảm về việc qui
định một cách chi tiết một cách tối đa các vấn đề ngay trong chính văn
bản luật?
0 comments:
Post a Comment