TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** Số: 169/2002/KHXX |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ******** Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2002 |
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 169/2002/KHXX
NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC ĐƯỜNG LỐI GIẢI QUYẾT CÁC KHIẾU KIỆN,
CÁC TRANH CHẤP ĐÒI LẠI ĐẤT ĐÃ GIAO CHO NGƯỜI KHÁC SỬ DỤNG
Kính gửi:- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Để bảo đảm việc giải quyết của Toà án nhân dân được
thống nhất, đúng pháp luật, ngày 04-9-2001 Toà án nhân dân tối cao đã có
Công văn số 108/2001/KHXX gửi Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền
của Chính phủ đề nghị cho biết đường lối xử lý của Nhà nước đối với các
khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại
đất đã giao cho người khác sử dụng. Trên cơ sở đề nghị của các cơ quan
có thẩm quyền của Chính phủ (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Nhà
nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), ngày 04-10-2002 Văn phòng
Chính phủ đã có Công văn số 5538/VPCP-VII thông báo cho Toà án nhân dân
tối cao về ý kiến của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng thay
mặt Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề nghị của các cơ quan có thẩm quyền
của Chính phủ; cụ thể 1à:
“1. Trường hợp áp dụng khoản 2 Điều 2 của Luật Đất
đai 1993: Trong thực tiễn có thể có trường hợp việc thực hiện chính sách
đất đai là chưa đúng với quy định tại thời điểm đó (sai đối tượng, sai
căn cứ…) như Công văn 108/2001/KHXX ngày 04-9-2001 của Toà án nhân dân
tối cao nêu. Tuy nhiên, việc xem xét giải quyết các vấn đề có liên quan
đến quan hệ đất đai phải xuất phát từ nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, như Hiến pháp 1992 và Luật Đất
đai 1993 đã quy định. Cùng với các quy định này và trong thực tiễn thi
hành quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai 1993 đến nay đã đảm
bảo được ổn định chính trị, xã hội. Mặt khác, những người hiện đang sử
dụng đất này thực tế đã được Nhà nước giao đất và sử dụng ổn định lâu
dài, do đó không nên đặt ra vấn đề trả lại đất cho chủ cũ.
2. Trường hợp thực hiện Quyết định số 13-HĐBT ngày
01-02-1989 của Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 13/HĐBT được ban hành
nhằm giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất trong thời gian đó.
Sau khi Luật Đất đai 1993 có hiệu lực thi hành thì Quyết định này không
còn hiệu lực nữa. Nếu chủ sử dụmg đất trước đây, nay đòi lại đất thì áp
dụng khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai 1993 không thừa nhận việc đòi lại
đất cũ đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính
sách đất đai của Nhà nước”.
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án các cấp
khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên
quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng cần quán triệt
đường lối xử lý trên đây của Chính phủ. Tuy nhiên, để bảo đảm việc giải
quyết được thống nhất, đúng pháp luật, Toà án nhân dân tối cao lưu ý một
số điểm sau đây:
1. Khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các
tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác
sử dụng, Toà án cần thực hiện đúng các hướng dẫn tại Thông tư liên tịch
số 01/2002/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03-01-2002 của Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính “Hướng dẫn
về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến quyền sử dụng đất”.
2. Toà án chỉ được căn cứ vào đường lối xử lý nêu
trên của Chính phủ (được thông báo trong Công văn số 5538/VPCP-VII của
Văn phòng Chính phủ) khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các tranh
chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ví dụ 1: Thực hiện Thông tư số 73/TTg ngày 07-7-1962
của Thủ tướng Chính phủ “Về việc quản lý đất của tư nhân cho thuê, đất
vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị” và Thông tư số 10-TTg ngày
04-02-1963 của Thủ tướng Chính phủ giải thích Thông tư số 73/TTg này, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã ra quyết định quản lý một diện tích đất
của M đang cho người khác thuê và đã giao cho N sử dụng. Nay M khiếu
kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho N sử dụng.
Ví dụ 2: Thực hiện Quyết định số 13-HĐBT ngày
01-02-1989 của Hội đồng Bộ trưởng “Về việc giải quyết một số vấn đề cấp
bách về ruộng đất”, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quyết định thu hồi
một diện tích đất của X và giao cho Y là thương binh sử dụng. Nay X
khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho Y sử dụng.
Đối với các trường hợp nêu trong hai ví dụ trên đây,
khi giải quyết khiếu kiện, tranh chấp, Toà án không đặt vấn đề xem xét
việc thu hồi, quản lý đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đúng hay
không đúng về các điều kiện thu hồi, quản lý đất mà phải căn cứ vào
đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ; cụ thể là phải áp dụng khoản 2
Điều 2 Luật Đất đai không chấp nhận yêu cầu của đương sự về việc đòi lại
đất đã giao cho người khác sử dụng. Nếu họ có yêu cầu đền bù về việc
làm tăng giá trị của đất, thanh toán tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất, thì Toà án giải quyết theo thủ tục chung. Tuỳ từng trường hợp cụ
thể và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà chấp nhận toàn bộ
hoặc chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận yêu cầu của họ.
3. Đối với các trường hợp người thuê đất, mượn đất,
chiếm dụng đất… của người khác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định giao đất đó cho sử dụng là do họ tự kê khai, tự làm các thủ
tục mà không phải do việc thực hiện một chính sách đất đai nào đó của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thì không phải là đối tượng thuộc đường lối xử lý nêu trên của Chính
phủ.
Ví dụ 1: A thuê đất của B. Trong quá trình thuê đất A
tự kê khai, tự làm các thủ tục xin cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định giao đất. Trên cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có quyết
định giao đất cho A.
Nay B khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho A sử dụng.
Ví dụ 2: C là người sử dụng hợp pháp một khu đất. Vì
lý do nào đó mà không có điều kiện trực tiếp quản lý, sử dụng khu đất
này. Tuy vậy, Nhà nước không thu hồi, không quản lý đối với khu đất đó. D
đã chiếm dụng một phần hoặc toàn bộ khu đất đó để sản xuất hoặc để xây
dựng nhà ở và đã tự kê khai, tự làm các thủ tục xin cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định giao đất đối với diện tích đất đã chiếm dụng. Trên
cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có quyết định giao đất cho
D. Nay C khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho D sử
dụng.
Đối với các trường hợp nêu trong hai ví dụ trên đây,
khi giải quyết khiếu kiện, tranh chấp, Toà án không được căn cứ vào
đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ mà phải căn cứ vào các quy định
của Luật Đất đai, Bộ luật dân sự cũng như các quy định khác của pháp
luật và tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án mà quyết định việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu
đòi lại đất của đương sự; nếu đương sự có yêu cầu đền bù về việc làm
tăng giá trị của đất, thanh toán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất,
thì Toà án cũng giải quyết theo thủ tục chung.
4. Các hướng dẫn trong Công văn này được thực hiện kể
từ ngày 15 tháng 11 năm 2002 khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét
xử giám đốc thẩm các vụ án về khiếu kiện, về tranh chấp đòi lại đất đã
giao cho người khác sử dụng.
Đối với các vụ án hành chính, dân sự có liên quan đến
việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng mà bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Công văn này để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì vướng mắc
cần được giải thích, hướng dẫn thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân
tối cao biết để có giải thích, hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Đặng Quang Phương
0 comments:
Post a Comment