TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN – Đại học Luật Hà Nội
1. Tầm quan trọng của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN
Đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, đất đai có
vai trò vô cùng quan trọng với cuộc sống của người dân (nhất là đối với
người nông dân). Chính vì vậy, việc đăng ký quyền sử dụng đất và được
đứng tên chủ sử dụng trong GCNQSDĐ thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi
tầng lớp dân cư. Ở quốc gia mà tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” tồn tại
trong một thời gian dài và “ăn sâu, bám rễ” trong tâm thức của một bộ
phận không nhỏ người dân thì việc người đàn ông (người chồng) đứng tên
chủ sở hữu tài sản nói chung và đứng tên trong GCNQSDĐ của vợ, chồng nói
riêng được coi như lẽ đương nhiên. Do đó, Luật đất đai năm 2003 quy
định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng khi cấp GCNQSDĐ
phải ghi rõ cả họ, tên vợ và họ, tên chồng và việc triển khai thí điểm
cấp đổi GCN ở một số địa phương1 được coi là một cuộc cách mạng không
chỉ tấn công trực diện vào quan niệm phong kiến lạc hậu mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của người đàn ông có tên trong GCN. Việc làm
này đã vấp phải không ít những khó khăn, trở ngại bởi sự không đồng
thuận hoặc sự chống đối của một bộ phận nam giới mang nặng tư tưởng phân
biệt, kỳ thị đối với phụ nữ. Đặt trong bối cảnh đó, hoạt động tuyên
truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN có vị trí hết sức
quan trọng. Đây là hoạt động phải được triển khai trước tiên trước khi
tiến hành các hoạt động mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ tiếp theo về cấp
đổi GCN. Vai trò của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp
đổi GCN được thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tác động làm thay đổi nhận thức
của người dân về bình đẳng giới trong sử dụng đất nói chung và trong cấp
GCNQSDĐ nói riêng; phê phán quan niệm phong kiến lạc hậu và lên án mọi
sự kỳ thị, phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Trên cơ sở đó, xây dựng quan
niệm đúng đắn về sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp
cận các quyền của người sử dụng đất.
Thứ hai, góp phần đề cao sự bình đẳng nam,
nữ trong xã hội Việt Nam nói chung và trong việc tiếp cận sử dụng đất
đai nói riêng. Hơn nữa, hoạt động này còn tạo ra sự đồng thuận xã hội
trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ đối với tài sản là nhà, đất. Ở khía
cạnh khác, phụ nữ là lực lượng lao động chủ yếu trong sản xuất nông
nghiệp. Khi họ được bình đẳng với nam giới về quyền và nghĩa vụ trong sử
dụng đất đai sẽ tạo ra động lực tích cực giúp phụ nữ hăng say sản xuất
góp phần đáng kể vào quá trình đẩy nhanh tỷ lệ giảm đói, nghèo ở khu vực
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba, thông qua hoạt động truyền thông
giúp phụ nữ nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng nam, nữ trong sử dụng
đất đai và khi nhận thức được nâng cao, chị em sẽ tìm ra các biện pháp
để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Đối với nam giới,
hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN sẽ
giúp họ có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội. Trên cơ sở đó, nam giới sẽ có những hành động thiết
thực góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong sử dụng
đất đai.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về công tác cấp đổi GCN sẽ tạo ra hiệu quả xã hội vô cùng to
lớn góp phần thay đổi tư tưởng phong kiến lạc hậu “trọng nam, khinh nữ”
tồn tại hàng trăm năm nay ở khu vực nông thôn. Quyền bình đẳng giới
trong sử dụng đất đai được nâng cao và được tôn trọng sẽ góp phần đẩy
lùi từng bước nạn bạo hành, ngược đãi, phân biệt đối xử đối với phụ nữ;
các mâu thuẫn, xung đột trong gia đình được giải quyết ổn thỏa trên cơ
sở có sự bàn bạc nhất trí, đồng thuận của hai vợ chồng. Gia đình là tế
bào của xã hội. Khi các mối quan hệ trong gia đình được củng cố, duy trì
trong sự tôn trọng, yêu thương, chia sẻ, bình đẳng giữa các thành viên
sẽ tạo nền móng rất vững chắc để duy trì sự ổn định xã hội.
Thứ năm, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về công tác cấp đổi GCN là một hoạt động có ý nghĩa xã hội vô
cùng to lớn. Bởi lẽ, cấp đổi GCN là một vấn đề rất nhạy cảm; nó đụng
chạm trực tiếp đến quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy,
hoạt động này thu hút sự quan tâm của mọi người dân. Hơn nữa, với tư
cách là các tổ chức quần chúng thành lập trên cơ sở tự nguyện, thượng
tôn pháp luật và bảo vệ quyền lợi của hội viên; Hội Nông dân, Hội Phụ nữ
và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không thể
đứng ngoài hoạt động này. Hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật
về công tác cấp đổi GCN đã thu hút sự tham gia tích cực và tạo điều kiện
phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng trong việc tuyên truyền
nâng cao nhận thức cho hội viên về quyền bình đẳng nam, nữ trong cấp đổi
GCN.
Với ý nghĩa xã hội, kinh tế to lớn, hoạt động tuyên
truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN đã nhận được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự tổ chức triển khai thực
hiện của chính quyền các cấp góp phần tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh” do
Đảng ta đề ra.
Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN là nhằm tuyên truyền chủ trương, chính sách của
Đảng về quyền bình đẳng nam, nữ trong xã hội nói chung và quyền bình
đẳng nam, nữ trong sử dụng đất đai nói riêng. Nó cũng là hoạt động tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về Luật đất đai năm 2003 cho nhân dân. Nhận
thức và thực hiện tốt việc cấp đổi GCN chính là việc góp phần đưa các
nội dung của Luật đất đai năm 2003 nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát
huy tác dụng trong việc tạo lập cơ sở pháp lý bảo vệ quyền về tài sản
của công dân.
2. Kinh nghiệm tuyên truyền chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN
Từ việc nghiên cứu thực tiễn hoạt động tuyên truyền
chính sách, pháp luật về công tác cấp đổi GCN, có thể rút ra một số kinh
nghiệm bổ ích sau đây:
Thứ nhất, muốn thay đổi quan niệm phong kiến
lạc hậu về sự bất bình đẳng nam, nữ trong sử dụng đất đai trong việc
cấp GCNQSDĐ chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng, chúng ta cần chỉ ra những
hạn chế và hậu quả tiêu cực của quan niệm này đối với đời sống xã hội.
Hoạt động tuyên truyền phải làm cho người dân hiểu và nhận thức được tại
sao lại phải thực hiện việc cấp đổi GCN. Để làm được việc này, cán bộ
tuyên truyền cần tập trung truyền thông cho người dân nhận thức rõ những
hậu quả pháp lý tiêu cực, những rủi ro cho một bên vợ hoặc chồng không
được đứng tên trong GCNQSDĐ như: họ có thể bị tước mất quyền sử dụng
đất; gặp khó khăn trong việc thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn phát
triển sản xuất; họ sẽ bị rơi vào tình trạng bất bình đẳng so với bên vợ
hoặc chồng có tên trong GCNQSDĐ trong việc định đoạt, để thừa kế tài sản
nhà, đất; GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình chỉ ghi tên chủ hộ không thực sự
tạo điều kiện cho những thành viên khác trong gia đình thực hiện các
quyền do pháp luật quy định và tạo ra sự phân biệt đối với phụ nữ hoặc
người chồng không có tên trong GCNQSDĐ. Vai trò của người không có tên
trong GCNQSDĐ thường bị xem nhẹ hơn.
Thứ hai, để tạo sự đồng thuận của người dân
trong việc thực hiện cấp đổi GCN, hoạt động tuyên truyền cần hướng vào
việc phân tích những ích lợi của việc phụ nữ và nam giới cùng đứng tên
trong GCNQSDĐ. Theo đó, việc cấp đổi GCN ghi cả họ, tên vợ và họ, tên
chồng sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực như: tạo cơ sở pháp lý để Nhà
nước bảo đảm quyền cho cả người vợ và người chồng cùng được hưởng quyền
và lợi ích ngang nhau trong việc sử dụng diện tích đất chung (cùng được
hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao; cùng được
hưởng quyền lợi khi Nhà nước bồi thường trong trường hợp bị thu hồi
đất…). Việc cấp đổi GCN ghi tên vợ và chồng sẽ bảo đảm cho họ cùng có
quyền quyết định ngang nhau khi thực hiện các giao dịch dân sự về quyền
sử dụng đất. Hơn nữa, nó bảo đảm cho quyền lợi của mỗi bên (đặc biệt đối
với phụ nữ) đối với diện tích đất chung khi vợ, chồng ly hôn hoặc để
thừa kế quyền sử dụng đất. Đây sẽ là cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm
ngang nhau giữa vợ và chồng trong việc thực hiện nghĩa vụ của người sử
dụng đất theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, để nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên
truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN và thu hút sự tham gia đông
đảo của quần chúng nhân dân, cán bộ tuyên truyền cần sự dụng nhiều hình
thức tuyên truyền phong phú, bao gồm: 1) Mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn
về chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý nhà nước về đất đai các cấp từ tỉnh, huyện, xã; các lớp
bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và kỹ năng tuyên truyền cho Bí thư Chi
bộ, Trưởng thôn, Trưởng bản, ấp; người đứng đầu các đoàn thể quần chúng ở
cơ sở. 2) Tiến hành các đợt tuyên truyền lưu động, các buổi tuyên
truyền mẫu về chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN ở cơ sở. 3) Thực hiện
tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN thông qua việc biên
soạn tờ rơi, tài liệu, sách cẩm nang, băng, đĩa phản ánh thực tế kết quả
thực hiện thí điểm việc cấp đổi GCN ở các địa phương cũng như kinh
nghiệm tổ chức thực hiện. 4) Thực hiện tuyên truyền thông qua đội ngũ
tuyên truyền viên ở xã, thôn, ấp, bản, đội ngũ các nhà sư, các cha đạo,
già làng, trưởng bản, trưởng họ… (các đối tượng này được tập huấn, bồi
dưỡng về kiến thức pháp luật về cấp đổi GCN và kỹ năng tuyên truyền). 5)
Xây dựng kế hoạch, nội dung, cung cấp băng đĩa, tài liệu, chuyển giao
kỹ thuật, công nghệ về tuyên truyền cho đội ngũ tuyên truyền viên để họ
thực hiện việc tuyên truyền thông qua hệ thống đài phát thanh, đài
truyền hình địa phương. Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền về chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN còn được thực hiện thông qua việc lồng ghép các
hoạt động sinh hoạt cộng đồng, các buổi họp thôn, các buổi sinh hoạt
câu lạc bộ, các buổi họp của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở.
Thực tế cho thấy, muốn người dân tin tưởng và làm
theo thì hoạt động tuyên truyền phải dựa trên những ví dụ, kết quả thực
tế sinh động. Đồng bào phải được “mắt thấy, tai nghe” mới thực sự bị
thuyết phục. Vì vậy, thông qua hệ thống băng đĩa, cán bộ tuyên truyền
cần chuyển tải những kết quả, những kinh nghiệm thực tế của một số địa
phương đã thực hiện việc cấp đổi GCN cũng như ý kiến, đánh giá, nhận xét
của cán bộ trung ương, tỉnh, huyện, xã, thôn và người dân về ích lợi
của việc cấp đổi GCN.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN không thể thực hiện được nếu thiếu sự phối hợp
chặt chẽ, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Bộ Tài nguyên và môi trường,
sự phối kết hợp triển khai của các Sở Tài nguyên và môi trường, các
Phòng Tài nguyên và môi trường ở các địa phương vì đây là các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai trực tiếp tổ chức chỉ đạo, triển khai việc
đưa quy định về cấp đổi GCN đi vào cuộc sống.
Thứ năm, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN không thể thực hiện được nếu thiếu sự chỉ đạo
của các cấp Uỷ đảng, sự lãnh đạo của các cấp chính quyền và sự tham gia,
phối kết hợp chặt chẽ của các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính
trị từ tỉnh đến xã. Suy cho cùng, tuyên truyền chính sách, pháp luật về
cấp đổi GCN là việc tuyên truyền một chủ trương, chính sách mang ý nghĩa
chính trị, xã hội, kinh tế to lớn của Đảng và Nhà nước.
Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN chỉ là một nội dung nằm trong tổng thể các nội
dung mang tính pháp lý, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ về cấp đổi GCN.
Nó hỗ trợ cho việc triển khai các hoạt động mang tính kỹ thuật, nghiệp
vụ về cấp đổi GCN. Vì vậy, việc triển khai hoạt động tuyên truyền phải
gắn kết, tích hợp với các hoạt động mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ về cấp
đổi GCN. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền.
3. Những thuận lợi và khó khăn trong triển khai hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN
3.1. Những thuận lợi
Thứ nhất, việc cấp đổi GCN nhằm thực hiện
quy định tại Điều 48, Luật đất đai năm 2003. Chính vì vậy, hoạt động
tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN cũng là hoạt động nhằm
nâng cao nhận thức cộng đồng về Luật đất đai năm 2003 nên nó nhận được
sự hưởng ứng tích cực của các địa phương.
Thứ hai, nhận thức được lợi ích to lớn,
thiết thực của việc cấp đổi GCN mang lại cho công tác quản lý nhà nước
về đất đai nên hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi
GCN được ngành tài nguyên và môi trường nhanh chóng triển khai thực
hiện.
Thứ ba, việc cấp đổi GCN là một chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thực thi quyền bình đẳng nam, nữ trong sử
dụng đất đai; góp phần tích cực vào công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và
phát triển bền vững. Do đó, việc làm này nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
có hiệu quả của các cấp Uỷ đảng, chính quyền và sự tham gia tích cực của
các đoàn thể quần chúng ở các địa phương. Điều này góp phần vào sự
thành công của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi
GCN.
Thứ tư, việc cấp đổi GCN mang lại những ích
lợi về nhiều mặt cho người dân (đặc biệt là người phụ nữ). Việc triển
khai thực hiện hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi
GCN đã nhận được sự ủng hộ, sự tham gia, hưởng ứng tích cực của đông đảo
quần chúng nhân dân. Đây là một trong những nhân tố góp phần đem lại sự
thành công của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi
GCN.
3.2. Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản được đề cập trên đây,
hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN gặp không
ít những khó khăn, trở ngại, cụ thể là:
Thứ nhất, nhận thức về bất bình đẳng giới
vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân. Ở nước
ta, do sự phát triển kinh tế, xã hội và trình độ dân trí không đồng đều
giữa các vùng, miền nên tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” vẫn còn tồn tại
trong một số bộ phân dân cư (đặc biệt tại khu vực nông thôn, vùng sâu,
vùng xa). Tại những nơi này, người phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam
giới. Khi chết, cha mẹ không để lại tài sản nhà, đất thừa kế cho con
gái; phụ nữ khi đi lấy chồng không được gia đình nhà chồng chia đất;
người đàn ông đứng tên chủ sở hữu mọi tài sản trong gia đình… Với tư
tưởng cam chịu, an phận; tâm lý tự ti và tập quán lạc hậu “thuyền theo
lái, gái theo chồng” nên người phụ nữ không dám đấu tranh bảo vệ quyền
lợi của mình đối với tài sản nhà, đất. Đối với những nơi này, việc triển
khai hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN vấp
phải sự không đồng thuận do nhận thức lạc hậu của một số người dân mà
quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Thậm chí, nhận thức bất bình đẳng về giới
còn tồn tại trong suy nghĩ của một bộ phận cán bộ ở cơ sở. Điều tương
tự xảy ra đối với một số cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số- nơi mà ở
đó còn tồn tại chế độ mẫu hệ: người phụ nữ là người chủ trong gia đình.
Thực tế cho thấy nhận thức sai lệch về bình đẳng giới là một trở ngại
lớn đối với hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN.
Thứ hai, sự hạn chế về nguồn kinh phí thực
hiện hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN. Do
nguồn kinh phí ngân sách sử dụng cho hoạt động này còn hạn chế nên phạm
vi và đối tượng của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp
đổi GCN chỉ giới hạn ở một số xã, huyện nhất định cũng như chỉ có một số
lượng nhất định đối tượng người dân và cán bộ được tuyên truyền về
chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN.
Thứ ba, muốn thay đổi quan niệm lạc hậu về
sự bất bình đẳng nam nữ trong sử dụng đất đai thì hoạt động tuyên truyền
chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN phải tiến hành thường xuyên, liên
tục và kiên trì trong một thời gian dài. Song, do khó khăn về kinh phí
nên hoạt động này chưa tiến hành thường xuyên, liên tục. Điều này ảnh
hưởng đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động tuyên truyền.
Thứ tư, kết quả của hoạt động tuyên truyền
chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN có tính trìu tượng, khó nhìn thấy
không giống như kết quả cụ thể của các hoạt động khác. Hơn nữa, đây là
hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động kỹ thuật, nghiệp vụ cấp đổi GCN song
lại phải được thực hiện trước tiên. Chính vì vậy, hoạt động tuyên truyền
gặp một số khó khăn nếu không gắn kết với việc triển khai các nội dung
khác của Dự án. Người dân còn hoài nghi, băn khoăn về hiệu quả của công
tác tuyên truyền hoặc chưa hăng hái tham gia vào các hoạt động tuyên
truyền do chưa nhìn thấy ngay lợi ích của hoạt động này mang lại…
Thứ năm, do sự phát triển không đồng đều về
trình độ nhận thức của người dân cũng như đội ngũ cán bộ, về điều kiện
phát triển kinh tế – xã hội giữa các địa phương thực hiện hoạt động
tuyên truyền nên hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi
GCN cũng gặp một số khó khăn như: năng lực, trình độ và kỹ năng tuyên
truyền của đội ngũ tuyên truyền viên còn hạn chế hoặc thiếu kinh nghiệm
trong hoạt động tuyên truyền…
Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN được triển khai thực hiện trong bối cảnh bên
cạnh việc tuyên truyền, đội ngũ tuyên truyền viên ở các địa phương còn
phải đảm nhiệm nhiều công việc khác nên thời gian dành cho hoạt động này
bị phân tán. Hiệu quả của hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật
về cấp đổi GCN chưa đạt như mong muốn.
4. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền chính
sách, pháp luật về cấp đổi GCN góp phần nhanh chóng đưa quy định tại
Khoản 3, Điều 48, Luật đất đai năm 2003 đi vào cuộc sống, chúng tôi kiến
nghị một số nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện hoạt động tuyên
truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN cho người dân và đội ngũ
cán bộ ở cơ sở. Công tác này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
và tập trung truyền thông để người dân hiểu và tạo ra sự đồng thuận của
đông đảo nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện. Hoạt động tuyên truyền cần tập trung nhấn mạnh các nội dung
cụ thể sau: đây là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
đem lại nhiều ích lợi về kinh tế, xã hội cho người dân; cấp đổi GCN ghi
tên một người sang GCN ghi tên vợ và tên chồng nhằm thực hiện Khoản 3,
Điều 48, Luật đất đai năm 2003; cấp đổi GCN ghi tên một người
sang GCN ghi tên vợ và tên chồng nhằm thực hiện quyền bình đẳng nam, nữ
được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992.
Thứ hai, Bộ Tài nguyên và môi trường cần tìm
kiếm thêm các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, từ sự tài trợ của
các tổ chức trong và ngoài nước để mở rộng phạm vi triển khai hoạt động
tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN trong cả nước.
Thứ ba, hoạt động tuyên truyền chính sách,
pháp luật về cấp đổi GCN cần tiến hành trong mối quan hệ kết nối, tích
hợp với các hoạt động mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ về cấp đổi GCN để
vừa hỗ trợ lẫn nhau vừa nâng cao hiệu quả công tác truyền thông.
Thứ tư, ngành tài nguyên và môi trường cần
tìm kiếm nguồn kinh phí để tiếp tục chỉnh sửa, nâng cao chất lượng các
tài liệu tuyên truyền chính sách, pháp luật về cấp đổi GCN và xuất bản,
phát hành rộng rãi các tài liệu này trong phạm vi cả nước.
Chú thích:
(1) Năm 2004, Bộ Tài nguyên và môi trường đã thực
hiện thí điểm dự án “thay đổi/cấp mới GCNQSDĐ có tên cả vợ và chồng”.
Mục tiêu của dự án là: thông qua chiến dịch truyền thông nhằm tăng cường
nhận thức của nhân dân địa phương về bình đẳng giới trong việc quản lý
và sử dụng đất; thay đổi/cấp mới GCNQSDĐ có tên cả vợ và chồng tại 20 xã
thuộc 20 tỉnh trong cả nước, xem tại: http://www.ubphunu-ncfaw.gov.vn/index.asp?lang=V&func=newsdt&catid=151&newsid=1025&MN=65.
0 comments:
Post a Comment