THANH HƯƠNG (Tổng hợp)
Bài viết này sử dụng mô
hình của Michael Porter (Năm lực lượng của Porter – Porter’s 5 forces)
để nhìn vào thị trường ngân hàng Việt Nam và phân tích những lực lượng
cạnh tranh, các xu hướng phát triển cũng như cơ hội khai thác để tạo nên
lợi thế cạnh tranh phù hợp với nguồn lực của các ngân hàng.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Nếu các ngân hàng mới dễ dàng gia nhập thị trường thì
mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng. Nguy cơ từ các ngân hàng
mới sẽ phụ thuộc vào “độ cao” của rào cản gia nhập. Theo các cam kết khi
gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình bảy
năm. Ngành ngân hàng đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài
chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng ViệtNam và sự
xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã gỡ bỏ dần các hạn chế
về tỷ lệ tham gia cổ phần trong ngành ngân hàng của các định chế tài
chính nước ngoài theo cam kết trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ.
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung
về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt
Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn các quy định về khống chế tỷ lệ tham gia góp
vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài từ năm
2008.
Đã có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép
thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên khi nhìn vào con số các ngân hàng
nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân hàng nước
ngoài có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân
hàng 100% vốn nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự
xuất hiện của các ngân hàng có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên
sau khi Chính phủ tạm ngưng cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng
8-2008. Ngoài các quy định về vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục
có lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng
Nhà nước. Tuy nhiên điều đó sẽ không thể ngăn cản những doanh nghiệp, đủ
điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng một khi Chính phủ cho phép
thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc
thị trường, thị trường mục tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến,
giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách hàng, lòng trung thành của
khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc biệt
quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của một ngân hàng
đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho
mình một thương hiệu bền vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính
hiệu quả và khác biệt cộng với một cơ sở khách hàng đông đảo và trung
thành, chi phí chuyển đổi (switching cost) để lôi kéo khách hàng của
ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họ bắt buộc phải cân nhắc
thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường hay không. Thực tế
trên thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi
nhìn chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác
biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ.
Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một
chút và tạo một lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là
hệ thống phân phối. Các ngân hàng thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc
rối trong việc tìm một địa điểm ưng ý để đặt văn phòng chính cũng như
các chi nhánh văn phòng giao dịch bởi vì các vị trí đẹp và tiện lợi đều
đã bị các ngân hàng đang hoạt động dành mất. Tuy vậy, các ngân hàng
thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để phát triển hệ
thống kinh doanh của mình thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam hiện tại trong bối
cảnh Việt Nam cũng như thế giới đang bị bao trùm bởi cuộc khủng hoảng
kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng
mới trong tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giới hồi
phục cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng theo các cam kết với WTO và
các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới là một điều gần như
chắc chắn.
Nguy cơ bị thay thế
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có thể xếp vào 5 loại:
• Là nơi nhận các khoản tiền (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Là nơi giữ tiền (tiết kiệm…)
• Là nơi thực hiện các chức năng thanh toán
• Là nơi cho vay tiền
• Là nơi hoạt động kiều hối
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị
thay thế không cao lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng
như các chứng từ, hóa đơn trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân
hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ
thì đối tượng khách hàng này thường chuyển sang sử dụng một ngân hàng
khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen
sử dụng tiền mặt khiến cho người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt
tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng.
Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng
nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần
làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa điểm chấp nhận
thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng,
những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ
đợi nhân viên đi lấy máy đọc thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử
dụng thẻ để thanh toán. Chính sự bất tiện này cộng với tâm lý chuộng
tiền mặt đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và sử dụng tiền mặt hơn là
thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu
dùng Việt Nam còn có khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư
vào chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng,
kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình thức không
hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp
dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt,
tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do
cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức
7-8% một năm.
Quyền lực của khách hàng
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực
của khách hàng có lẽ là việc các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng
ATM trong khi người tiêu dùng không đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân
hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh
hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách hàng. Nhưng
không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của khách hàng trong
ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân
hàng dựa trên đồng vốn huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu
hút được dòng vốn của khách hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải.
Trong khi đó, như đã nói ở phần trên, nguy cơ thay thế của ngân hàng ở
Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là khá cao. Với chi phí chuyển
đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn
của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
Quyền lực của các nhà cung cấp
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa
dạng. Họ có thể là những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động,
hoặc là những công ty chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM.
Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và
chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy theo điều kiện. Điều này góp
phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp
cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác.
Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, ngân
hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại
làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì
như thế nào? Không nhắc đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị
trường chứng khoán mà chỉ nói đến những đại cổ đông có thể có tác động
trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của một ngân hàng. Nhìn chung hầu
hết các ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu tư của một ngân hàng khác. Quyền
lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu như họ có đủ cổ phần và
việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở một khía cạnh
khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng được
đầu tư.
Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực
ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10
năm tới, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường ngân hàng bán
lẻ có tốc độ cao nhất châu Á (*). Tuy khủng hoảng kinh tế làm cho tốc
độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu tới ngành ngân hàng nhưng thị
trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng còn rất lớn. Ảnh hưởng
tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các ngân hàng gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường độ cạnh
tranh sẽ tăng lên. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế qua đi, với một thị
trường tiềm năng còn lớn như Việt Nam, các ngân hàng sẽ tập trung khai
phá thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến cường độ cạnh tranh có
thể giảm đi.
Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao
khi có sự xuất hiện của nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng
nước ngoài thường sẵn có một phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh
nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ những khách hàng này từ rất lâu ở những
thị trường khác và khi khách hàng mở rộng thị trường sang Việt Nam thì
ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Ngân hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản
mà hiện nay nhiều ngân hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn
mức cho vay chứng khoán, nợ xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi
thế làm từ đầu và có nhiều chọn lựa trong khi với không ít ngân hàng
trong nước thì điều này là không thể. Ngoài ra, ngân hàng ngoại còn có
không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên
nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống Internet banking).
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng
lưới rộng khắp trên nhiều nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với
nhóm ngân hàng này, các ngân hàng trong nước đã trang bị hệ thống hạ
tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự… khá quy mô. Lợi thế của ngân
hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách hàng có sẵn. Ngân
hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối với những
khách hàng quan trọng của họ.
Triển vọng trong ngành ngân hàng
Hiện nay Việt Nam đang có quá nhiều ngân hàng nhưng
chưa có một ngân hàng thực sự mạnh tầm cỡ quốc tế. Nhìn chung, các ngân
hàng đã đua nhau mở rộng quy mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát
triển theo chiều rộng). Việc này dẫn đến tình trạng các ngân hàng đang
cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng mà quên mất các
sản phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo (chiều sâu). Đồng thời, các ngân
hàng mở rộng quy mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho nên
công tác quản trị lại không theo kịp quy mô phát triển.
Khủng hoảng kinh tế cũng mang lại rất nhiều khó khăn
cho ngành ngân hàng, một số ngân hàng đã không thể duy trì được mức tăng
trưởng trong năm vừa qua. Đây chính là cơ sở để nhiều chuyên gia về sáp
nhập (M&A) đưa ra nhận định rằng xu hướng sáp nhập trong ngành ngân
hàng đang đến gần.
Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một trong những ngành
nghề nhạy cảm, do vậy việc sáp nhập chỉ có thể xảy ra trong vòng một,
hai năm nữa khi ngành ngân hàng đã được mở nhiều cửa hơn theo cam kết
với WTO.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH – BỘ CÔNG THƯƠNG
0 comments:
Post a Comment