HOÀNG LONG
Cty TNHH TM – DV
Mai Anh có trụ sở tại 3 bis Tôn Đức Thắng- P.Bến Nghé – Q1 – TPHCM do
ông Hoàng Việt Hùng làm GĐ và bà Bùi Thị Kim Loan làm PGĐ và cty TNHH
Việt An có trụ sở tại 223 Lý Tự Trọng – Q1 – TPHCM do ông Hồ Trọng Sơn
làm GĐ và ông Hồ Trọng Tích làm PGĐ đã ký kết hợp đồng kinh doanh xăng
dầu số 10 ngày 2/2/1998. Theo đó, Cty Việt An góp vốn 2,693 tỷ đồng
(tương đương 200.000 USD), hai bên thống nhất sau khi trừ chi phí, lợi
nhuận sẽ chia theo tỷ lệ 50/50. Tuy nhiên, quá trình làm ăn bị thua lỗ,
trong khi hai bên chưa bàn bạc thanh lý hợp đồng thì ông Sơn đã phát đơn
kiện đòi nợ ông Hùng-bà Loan và gửi tới TAND Q2.
Sau khi nhận được đơn của ông Sơn, TAND Q2 có sự phối
hợp của CQĐT-VKSND TP. HCM đã ra Quyết định hoà giải số 72 ngày
11/9/2002 buộc ông Hùng, bà Loan phải trả cho ông Sơn hơn 4,5 tỷ đồng
bao gồm cả gốc lẫn lãi. Bên cạnh đó, TAND Q2 còn cho kê biên nhà số 3
bis của công ty TNHH TM – DV Mai Anh để phục vụ cho việc thi hành án.
Cho rằng việc xét xử của TAND Q2 có nhiều khuất tất,
bà Loan đã gửi đơn kêu cứu tới TW và các cơ quan chức năng, nhưng vụ
việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
Điều tra trước khi thụ lý đơn kiện
Một trong những uẩn khúc của vụ việc này là không
hiểu vì sao, trong đơn kiện cty Mai Anh gửi TAND Q2, ông Hồ Trọng Sơn có
đề ngày 12/4/2002 nhưng trong văn bản lấy lời khai đương sự lại ghi
ngày 16/1/2001 do đích thân ông Phạm Thư – phó phòng điều tra VKSND
TP.HCM ký và chuyển sang TAND Q2 thụ lý. Dư luận đặt ra câu hỏi lớn: Tại
sao ông Thư lại có hành động “cầm đèn chạy trước ôtô” khác thường như
vậy?
Từ việc “bắt tay” vi phạm tố tụng …
Đấy là chưa kể, trong đơn kiện của ông Sơn có nhiều
chi tiết tiền hậu bất nhất. Cụ thể, ở phần đầu đơn, ông Sơn đòi kiện cty
Mai Anh nhưng nội dung lại nói về cty NAVARRE có trụ sở tại khu công
nghiệp Cát Lái – Q2. Trên thực tế, hai cty này hoạt động độc lập. Cty
Mai Anh đứng tên ký hợp đồng với công ty của ông Sơn chứ không phải là
cty NAVARRE. Có lẽ việc viện dẫn “lung tung” này nhằm giúp TAND Q2 “hợp
thức hóa” việc thụ lý án của mình vì theo quy định tại điều 13 Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: “Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự là tòa án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn,
nếu bị đơn là pháp nhân thì Tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi bị đơn có
trụ sở…”. Thực tế này rất sơ đẳng không thể nói VKS và tòa án không
biết. Nhưng tại sao biết vẫn làm? Và tại sao vụ kiện dân sự lại phải đến
tay phòng điều tra của VKSTP? Không biết nghiêm trọng tới mức nào mà
đích thân ông Phó phòng điều tra phải ra tay? Liệu có phù hợp với luật
pháp quy định về tổ chức và chức năng nhiệm vụ của CQĐT VKS?
Mặt khác, trong đơn kiện không xác định là cá nhân
ông Sơn hay cty Việt An kiện công ty Mai Anh. Nếu là cá nhân thì không
có hiệu lực pháp lý vì đây là hợp đồng liên kết kinh doanh giữa hai cty,
nếu ông Sơn thay mặt cty kiện thì tại sao đơn không đóng dấu? Còn rất
nhiều vấn đề cần phải được làm sáng tỏ, nếu không nói là vi phạm quy
trình tố tụng trong vụ án này. Trong phạm vi có giới hạn chúng tôi xin
đơn cử một số hiện tượng bất thường :
Thứ nhất, liệu có phải ông Thư trực tiếp điều tra và
“cố tình” chuyển sang cho TAND Q2 thụ lý mặc dù không đúng thẩm quyền
như điều 13 nêu trên trong khi “ông Phạm Thư là em ruột ông Phạm Thao –
chánh án Q2”? Từ kiểu điều tra “cầm đèn chạy trước ôtô” đến việc phù
phép vụ kiện HĐKT cụ thể của hai cty góp vốn kinh doanh trở thành vay nợ
cá nhân?
Thứ hai, mặc dù trong đơn, ông Sơn chỉ kêu đòi 3,9 tỷ
cả gốc và lãi (số tròn), nhưng toà vẫn xử cho ông Sơn được trên 4,5 tỷ.
Việc này trái ngược với luật dân sự, quy định toà chỉ xem xét thụ lý
những vấn đề được nguyên đơn yêu cầu. Vậy tại sao toà lại hào phóng như
vậy? Về lãi suất tại thời điểm xử, theo quy định của NHNN là 7,4%/năm,
nhưng toà vẫn “ưu ái” cho nguyên đơn hưởng lãi suất 2,1%/ tháng…?
Thật trớ trêu, tại biên bản lấy lời khai ông Sơn của
TAND Q2 không số hồi 16h ngày 13/5/2002 có ghi ông Trần Kiên Hùng –
Chánh án, bà Lê Thị Thuý Hoa – thư ký, kết thúc 16h30’ cùng ngày nhưng
ký tên đóng dấu lại là ông Phạm Thao – Chánh án. Lẽ nào TAND Q2 lại có 2
chánh án?
Đến thi hành án bất chấp luật
Quyết định 72 của TAND Q2 quy định, việc trả nợ của
ông Hùng, bà Loan phải thực hiện làm 3 đợt. Đợt 1 là ngày 19/11/2002
phải trả 1,5 tỷ đồng nhưng không hiểu vì động cơ gì, Thi hành án Q2 lại
vội vàng ra Thông báo số 121 ngày 14/10/2002 (trước 35 ngày) phong toả
nhà 3bis Tôn Đức Thắng là nhà riêng của bà Loan cho cty Mai Anh mượn làm
trụ sở. Việc vội vàng này không chỉ vượt thẩm quyền mà còn tước đi điều
kiện chấp hành án của đương sự. Việc làm bất chấp luật pháp của Thi
hành án Q2 đã được khẳng định bằng văn bản 75 của VKS NDTC ngày
10/1/2003 yêu cầu Thi hành án Q2 bãi bỏ phong toả nhà 3bis trên, nhưng
Thi hành án Q2 vẫn không thực hiện. Sự ngang ngược này đã được 12 cơ
quan TW có công văn yêu cầu giải quyết đúng luật nhưng lại một lần nữa
Thi hành án TP.HCM đẩy về Thi hành án Q1 thực hiện!
Một điều cần nói thêm là tại sao toà không phân xử
trách nhiệm thi hành án cho hai người đại diện là ông Hùng và bà Loan mà
lại quy về “ một mối” là bà Loan? Nhất là ông Hoàng Việt Hùng đã chết
ngày 5/12/2007 thì việc phân định này càng phải rõ ràng.
Sự kiện không bình thường của các cơ quan điều tra VKS, TAND Q2, Thi hành án cần sớm làm sáng tỏ, trả lời trước công luận.
SOURCE: BÁO DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
0 comments:
Post a Comment