GS.TSKH. ĐẶNG HÙNG VÕ
PHẦN 1. Bài học "cưỡng bức" hiện tại
Trong những ngày đầu
ĐỔI MỚI, Đảng và Nhà nước đã ban hành một quyết định dũng cảm, mang tính
bản lề tạo nên thành công, đó là chính sách giao đất sản xuất nông
nghiệp do các hợp tác xã nông nghiệp đang sử dụng cho hộ gia đình để sử
dụng ổn định lâu dài. Chính sách này đã đưa nước ta từ tình trạng thiếu
lương thực trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Như trên biểu đồ về giá trị sản xuất nông nghiệp dưới
đây, có thể thấy từ năm 1991 trở đi mức tăng trưởng của sản xuất nông
nghiệp khá đều đặn với khoảng hơn 5 nghìn tỷ đồng tăng thêm mỗi năm
(theo giá so sánh năm 1994).
Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 (tỷ đồng) sau ĐỔI MỚI (1990-2009)
Để có được quyết định quan trọng này, cũng phải trải
qua một quá trình nhận thức nhất định và cũng đã có cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh phải chịu thiệt thòi như Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Từ thực tiễn, ai
cũng thấy được tổng sản lượng canh tác của các hộ gia đình trên 5% diện
tích ruộng được hợp tác xã giao cho sử dụng riêng còn cao hơn sản lượng
canh tác trên 95% diện tích ruộng do hợp tác xã tổ chức sử dụng chung.
Nhìn vào bản chất của sự việc, có thể thấy người
nông dân chưa vứt bỏ được tư duy tư hữu đã chất chứa từ hàng nghìn năm
nay ở vùng nông thôn nước ta.
Phương thức sản xuất tập thể theo mô hình hợp tác xã
cần tới một trình độ cao về tổ chức sản xuất, tư duy mới về công nghiệp
hóa trong nông nghiệp nhưng lãnh đạo các hợp tác xã ở nông thôn ta chưa
có được.
Cũng chính tính tư hữu đã tạo ra tình trạng tham
nhũng nặng nề trong bộ máy lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp. Lúc đó,
câu ca dao mới "mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài mua xe" gần như phổ biến ở khắp các miền quê.
Phương thức sản xuất tập thể theo mô hình hợp tác xã
đã mất động lực, người nông dân tập trung vào chăm lo cho mảnh đất 5%
của mình. Hầu hết các nhà lý luận kinh tế chính trị đã có giải thích
rằng quan hệ sản xuất tập thể trong nông nghiệp chưa phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất còn nhỏ nhoi, lạc hậu nên phải
đổi mới quan hệ sản xuất. Cần chuyển từ mô hình hợp tác xã sang mô hình
hộ gia đình. Đây là một giải thích rất đúng đắn.
Chắc chắn rằng trong xã hội đã đạt được điều kiện của
xã hội xã hội chủ nghĩa thì mô hình sản xuất hợp tác xã nông nghiệp có
hiệu quả cao hơn mô hình sản xuất hộ gia đình. Lúc đó, ngoài các điều
kiện về hạ tầng cần có, người nông dân phải có nhận thức tốt về tổ chức
sản xuất lớn, biết hạn chế lại tư hữu để nâng cao hiệu quả của hợp tác
chung, có thu nhập cao để chủ động loại trừ tham nhũng trong khâu phân
phối lợi ích.
Khi chưa đạt được những điều kiện của xã hội xã hội
chủ nghĩa này thì mô hình sản xuất hợp tác xã nông nghiệp không những
không tạo được hiệu quả mà còn tạo nên tình trạng thiếu lương thực.
Một sự việc tương tự nhưng ở tầm vĩ mô hơn đã xẩy ra
vào năm 1991 là việc Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành một quyết
định quan trọng thứ hai: thay thế cơ chế kinh tế bao cấp – chỉ huy tập
trung bằng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế
có điều khiển đó chỉ có thể phát huy được ưu việt khi đã đạt được các
điều kiện của xã hội xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế tự điều chỉnh mới
phù hợp với điều kiện hạ tầng, con người trong giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Từ thực chứng lịch sử này, có thể rút ra bài học kinh nghiệm: sự
tốt đẹp trong tương lai không thể cưỡng bức phải tốt đẹp ngay trong
hiện tại khi hiện tại chưa có đủ điều kiện để tạo nên sự tốt đẹp đó, sự
cưỡng bức này thường gây ra hậu quả ngược lại và cái giá phải trả là
thời gian bị kéo lùi. Tiền nhân đã có câu "dục tốc bất đạt" là vì lẽ đó.
Điều chúng ta mong muốn trong tương lai chỉ có thể
thành tựu được khi hiện tại được sắp xếp đúng quy luật, điều mong muốn
đó sẽ đến nhanh hơn.
PHẦN 2. Công hữu đất đai không hợp với thời quá độ
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta được
quy định trong Hiến pháp từ năm 1980, dựa trên lý luận kinh tế chính trị
học xã hội chủ nghĩa là các tư liệu sản xuất chủ yếu đều được công hữu
hóa. Đất đai là một loại tư liệu sản xuất chủ yếu nên phải thuộc chế độ
công hữu mà ta gọi là sở hữu toàn dân. Điều này là hợp lý vì trong nền
sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại một tầng lớp người là
chủ đất, không thực hiện đầu tư trên đất mà chỉ thu lợi từ việc cho nhà
đầu tư thuê đất (chủ đất thu toàn bộ địa tô tuyệt đối từ nhà đầu tư).
Đất đai thuộc chế độ công hữu thì xóa bỏ được việc
thu tư lợi từ địa tô tuyệt đối. Xác lập được đúng đắn chế độ công hữu về
đất đai là tạo được sự bình đẳng giữa mọi người đối với quyền được tiếp
cận đến đất đai và quyền hưởng dụng đất đai.
Chế độ công hữu về đất đai trong xã hội xã hội chủ
nghĩa cần phải được hiểu đúng nghĩa là mọi quyền chiếm hữu, định đoạt,
sử dụng đều thuộc Nhà nước, Nhà nước cho mọi người có nhu cầu sử dụng
đất thuê đất có thời hạn, người thuê đất phải trả địa tô tuyệt đối cho Nhà nước.
Trong thời gian qua từ 1987 tới nay, việc xây dựng
pháp luật về đất đai đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn đặt ra
giữa chế độ công hữu về đất đai trong xã hội xã hội chủ nghĩa ở thì
tương lai và hoàn cảnh xã hội hiện tại chưa đủ điều kiện là một xã hội
xã hội chủ nghĩa. Luật Đất đai 1987 đã được xây dựng rất nghiêm túc trên
cơ sở chế độ công hữu về đất đai.
Luật Đất đai 1993 tiếp tục giữ vững nguyên tắc cơ bản
của chế độ công hữu này, mọi loại đất đều được sử dụng có thời hạn
nhưng đã cho phép hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thực hiện 5
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê đối với
quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng nhằm tạo sự phù hợp hơn với cơ
chế thị trường. Về bản chất, các quyền này thực hiện trong thời hạn sử
dụng đất không làm mất đi nguyên tắc cơ bản của chế độ công hữu về đất
đai.
Năm 1994, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở chính trị cho quá
trình phát triển kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Nhu cầu sử dụng đất cho
các doanh nghiệp tăng lên rất cao, kèm theo những đòi hỏi về quyền của
các nhà đầu tư đối với đất đai và nhu cầu mở rộng chế độ sử dụng đất đối
với đất phi nông nghiệp.
Quốc hội đã quyết định thông qua Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đất đai vào năm 1998 với nhiều quy định trái
với nguyên tắc của chế độ công hữu đối với đất đai. Thứ nhất là đất ở được sử dụng vô thời hạn.
Thứ hai là nhà đầu tư cũng được giao đất sử
dụng vô thời hạn trong trường hợp thực hiện các dự án xây dựng kinh
doanh nhà ở và trường hợp được Nhà nước đổi đất lấy cơ sở hạ tầng.
Thứ ba là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất có chế độ sử dụng vô thời hạn được thực hiện các quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp,
góp vốn đối với quyền sử dụng đất.
Trên thực tế, đây không phải là khuyết điểm của các
nhà xây dựng luật pháp lúc đó mà là sự thiếu phù hợp của chế độ công hữu
về đất đai trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 2003, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai lần thứ
ba, mục tiêu đầu tiên là xác định chi tiết nội hàm của chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai. Tức là, xác định cụ thể quyền lực và trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, xác
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thực hiện quyền sở hữu
toàn dân về đất đai.
Nhà nước có quyền quyết định về quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; quyết định về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
thông qua các quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất; quyết định về giá đất
trên nguyên tắc phù hợp với giá đất hình thành trên thị trường.
Người sử dụng đất là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn đối với quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
Tới lúc này, nội dung về các quyền cụ thể của Nhà
nước và của người đang giữ đất đối với đất đai có liên quan đến quyền sở
hữu về đất đai ở nước ta và các nước tư bản không khác nhau nhiều lắm.
Chúng ta đang đi theo hướng mở rộng chế độ công hữu
về đất đai để chuyển một phần sang tư hữu, các nước tư bản đã và đang đi
theo hướng thu hẹp quyền sở hữu tư nhân về đất đai để chuyển một phần
sang công hữu. Sự khác nhau chỉ còn ở 2 điểm: một là có sự khác nhau về
tên gọi của chế độ sở hữu đất đai (đây là khác nhau về hình thức); hai
là Nhà nước ta có quyền thu hồi đất do người này đang sử dụng để giao
cho người khác sử dụng khi chưa hết hạn sử dụng đất (đây là khác nhau về
nội dung).
Như vậy, trong thời gian gần 15 năm qua kể từ ngày
ĐỔI MỚI, pháp luật về đất đai đã buộc phải đổi mới để vượt qua những khó
khăn thực tế do chế độ công hữu về đất đai không phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất với nhiều thành phần kinh tế đang tạo
nên phát triển.
Những đổi mới đó đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của
chế độ công hữu về đất đai nhưng những đổi mới đó là bức thiết vì chế
độ công hữu về đất đai là không phù hợp với giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
SOURCE: TUANVIETNAM.NET
0 comments:
Post a Comment