TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN – Khoa Pháp luật Kinh tế, Đại học Luật Hà Nội
Trong thời kỳ đổi mới,
nhà nước đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai
(PLĐĐ) đáp ứng các yêu cầu quản lý và sử dụng đất trong cơ chế thị
trường. Hệ thống PLĐĐ ở nước ta là một hệ thống pháp luật đồ sộ bao gồm
các văn bản do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nên không
tránh khỏi trường hợp “văn bản pháp luật về đất đai ban hành nhiều,
nhưng chồng chéo, thiếu đồng bộ… Nhiều chính sách đã ban hành chưa được
tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và thi hành nghiêm túc” Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 60.. Sau 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, đây là thời điểm để chúng ta nhìn nhận, đánh giá lại hệ
thống PLĐĐ nhằm chỉ ra những tồn tại, bất cập và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện.
I. Những thành công của hệ thống PLĐĐ trong 20 năm đổi mới
1. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về quản lý đất đai
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 1992, “Nhà nước
thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả” (Điều 18), nhà nước ta đã không
ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLĐĐ. Nhiều văn bản pháp luật ra
đời điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực đất đai. “Từ năm 1993 đến nay, nhà
nước ở trung ương đã ban hành hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản
lý và sử dụng đất đai, trong đó có Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp,
Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất và nhiều đạo luật khác có liên quan,
tám pháp lệnh, một nghị quyết của Quốc hội, ba nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, ba nghị quyết của Chính phủ, 68 nghị định, 23 quyết
định, 16 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 11 thông tư của Tổng cục Địa
chính, 25 thông tư liên bộ, 23 thông tư của các bộ, ngành liên quan, 9
quyết định của ngành. Ngoài ra còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên
quan quy định về vấn đề đất đai như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự,
Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất…
và các văn bản hướng dẫn thi hành” Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo
Tổng kết 10 năm thi hành Luật đất đai (1993 – 2003), tháng 4/2003, tr.
8..
Bên cạnh đó, uỷ ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương cũng ban hành nhiều văn bản tổ chức thi hành ở
địa phương. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về đất đai
được ban hành trong 20 năm qua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc tổ chức thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Đó là
một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, giải quyết khá tốt mối quan hệ
đất đai ở khu vực nông thôn, bước đầu đáp ứng được các mối quan hệ đất
đai mới hình thành trong quá trình công nghiệp hoá (CNH) và đô thị hoá.
Hệ thống PLĐĐ luôn đổi mới, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển
kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh và ổn định xã hội. Bên cạnh nội
dung hành chính, hệ thống PLĐĐ đã có nội dung kinh tế – xã hội (KT-XH)
phù hợp với đường lối quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường của Đảng và
nhà nước.
Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về
đất đai trong thời kỳ CNH, hiện đại hoá đất nước, Luật đất đai năm 2003
và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành có những quy định mới
đề cập đến QSDĐ trong thị trường bất động sản (BĐS), thủ tục hành chính
trong quản lý và sử dụng đất, giải quyết vấn đề đòi lại đất do lịch sử
để lại, làm rõ mối quan hệ đất đai thuộc sở hữu toàn dân với các quyền
của người sử dụng đất, thành lập cơ quan dịch vụ công về đất đai như: tổ
chức phát triển quỹ đất, văn phòng đăng ký QSDĐ, tổ chức tư vấn về giá
đất…
2. Hệ thống PLĐĐ ngày càng chỳ ý đến tính đồng bộ, thống nhất với các đạo luật có liên quan
Hệ thống PLĐĐ liên quan đến nhiều đạo luật thuộc các
lĩnh vực khác nhau như: Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ), Luật
Bảo vệ môi trường (Luật BVMT), Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ tài nguyên
nước, Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Xây dựng, Luật về Nhà ở, Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp. Như vậy, một trong những yêu cầu đặt ra khi ban hành
quy phạm PLĐĐ là phải bảo đảm sự thống nhất, tương thích với những quy
định của các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan. Để thực hiện yêu cầu
này, từ năm 1986 đến nay, hệ thống PLĐĐ luôn được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn và thống nhất với các đạo luật có liên quan. Điều
này biểu hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, các quy định của PLĐĐ hiện hành về QSDĐ là
tài sản chung của vợ, chồng thống nhất và tương thích với nội dung của
Luật HN &GĐ năm 2000. Theo đó, pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng đất. Khi đăng
ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với tài sản chung của vợ chồng là
nhà, đất hoặc các tài sản có giá trị khác thì giấy chứng nhận quyền sở
hữu tài sản phải ghi rõ cả họ tên vợ và họ tên chồng (trừ trường hợp vợ,
chồng có thoả thuận khác);
Thứ hai, PLĐĐ và BLDS có các quy định thống nhất về
căn cứ xác lập QSDĐ; hình thức, giá, nguyên tắc chuyển QSDĐ; hiệu lực
của việc chuyển QSDĐ; thừa kế QSDĐ…
- QSDĐ được thừa nhận là một loại quyền đặc biệt về
tài sản được phép tham gia vào các giao dịch trên thị trường thông qua
việc chuyển nhượng, cho thuê, chuyển đổi…
- Hình thức pháp lý của chuyển QSDĐ là hợp đồng được
lập thành văn bản có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực
của UBND xã, phường, thị trấn
- QSDĐ của người sử dụng được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật…
Thứ ba, các quy định của PLĐĐ hiện hành về xử lý vi
phạm hành chính (XLVPHC) trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất thống
nhất với nội dung của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 về nguyên tắc, thời
hiệu, hình thức, thẩm quyền, mức xử phạt và trình tự, thủ tục xử phạt…
Thứ tư, các quy định về thời hạn thuê đất của tổ
chức, cá nhân nước ngoài thống nhất với nội dung của Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)
thuê của tổ chức, cá nhân nước ngoài trong và ngoài khu chế xuất, khu
công nghiệp, khu kinh tế tuân theo các quy định về trình tự, thủ tục và
thẩm quyền cấp GCNQSDĐ của PLĐĐ…
Thứ năm, PLĐĐ đã xác lập mặt bằng pháp lý bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ cho mọi đối tượng sử dụng đất; xoá bỏ sự phân biệt
về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong nước và người nước
ngoài. Luật đất đai năm 2003 dành Chương IV quy định về quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất, bao gồm: tổ chức sử dụng đất; hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo sử dụng đất; người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất. Theo đó, mọi
đối tượng sử dụng đất đều được pháp luật cho hưởng các quyền và nghĩa vụ
chung của người sử dụng đất được quy định tại Điều 105 và Điều 107;
Thứ sáu, các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai của Luật Đất đai năm 2003 thống nhất với nội dung của Luật
Khiếu nại, tố cáo về thời hạn, trình tự, thủ tục, thẩm quyền… giải quyết
khiếu nại, tố cáo;
Thứ bảy, trình tự, thủ tục về thừa kế, thế chấp, bảo
lãnh bằng QSDĐ của Luật Đất đai năm 2003 tuân theo các quy định chung về
vấn đề này của BLDS;
3. Những thành công cụ thể của hệ thống PLĐĐ
Thứ nhất, cập nhật nội dung hành chính, KT – XH trong lĩnh vực đất đai.
PLĐĐ được ban hành trước đó (Luật Đất đai năm 1987 và
các văn bản hướng dẫn thi hành) mới giải quyết mối quan hệ hành chính
về đất đai giữa nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền sở hữu đất đai
với người được nhà nước giao đất với tư cách là chủ thể của QSDĐ. Điều
đó làm cho quan hệ đất đai không được vận động theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, kể từ năm 1993 đến nay, hệ thống PLĐĐ đã
có một bước chuyển biến rất tích cực là không chỉ giải quyết mối quan hệ
giữa nhà nước với người sử dụng đất theo “chiều dọc” mà còn xác lập mối
quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau, đó là các mối quan hệ
mang tính chất dân sự – thương mại giữa những người sử dụng đất với nhau
theo “chiều ngang”, cụ thể:
- Người sử dụng đất có quyền sử dụng ổn định, lâu dài
và được chuyển QSDĐ trong thời hạn sử dụng đất; được pháp luật trao cho
quyền lựa chọn hình thức sử dụng đất phù hợp với năng lực và điều kiện
cụ thể của mình;
- Hộ gia đình, cá nhân là đối tượng được giao đất sản
xuất nông, lâm nghiệp thay vì giao đất cho tập đoàn sản xuất, hợp tác
xã nông, lâm nghiệp. Hơn nữa, PLĐĐ hiện hành còn bổ sung thêm một số đối
tượng sử dụng đất cho phù hợp với thực tiễn, cụ thể: bên cạnh đối tượng
sử dụng đất là tổ chức trong nước; hộ gia đình, cá nhân; người Việt Nam
định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài, PLĐĐ còn thừa nhận
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo là chủ thể sử dụng đất;
- Một đổi mới cơ bản của chính sách đất đai hiện hành
là người sử dụng đất được nhà nước giao đất, cho thuê đất phải trả tiền
sử dụng đất (trừ trường hợp sử dụng đất vào mục đích quốc phòng – an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng);
- Đất đai được thừa nhận có giá và nhà nước xác định
giá đất để quản lý; từ đó, nhà nước không chỉ quản lý đất đai theo diện
tích, loại, hạng đất mà còn quản lý theo giá trị;
- Với việc pháp luật cho phép QSDĐ được tham gia vào
các giao dịch trên thị trường, QSDĐ đã mang một vai trò mới, nó không
chỉ là quyền của chủ sử dụng nhằm khai thác các thuộc tính có ích của
đất mà còn trở thành một loại quyền tài sản được sử dụng trong quan hệ
góp vốn sản xuất, kinh doanh, trong quan hệ thế chấp, bảo lãnh vay vốn
với các tổ chức tín dụng. Điều này góp phần vào việc hình thành thị
trường BĐS ở nước ta và giúp nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều
kiện kinh tế thị trường.
Ở một khía cạnh khác, vai trò của đất đai được nhìn
nhận trên một phương diện mới: đất đai không chỉ là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở KT – XH, văn hoá, an ninh và quốc phòng mà đất đai còn là
nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước; QSDĐ được coi là một
loại hàng hóa đặc biệt. Những chính sách đổi mới đó làm cho đất đai thực
sự trở thành tài sản vô cùng quý giá. Người sử dụng đất yên tâm, gắn bó
lâu dài với đất đai, khuyến khích sự đầu tư bồi bổ, cải tạo nâng cao
hiệu quả sử dụng đất…
Thứ hai, quy định cụ thể hơn quyền của nhà nước trong vấn đề sở hữu đất đai.
Các Luật Đất đai được ban hành trước năm 2003 đều
dừng lại ở quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà không xác định rõ
vai trò của nhà nước trong vấn đề sở hữu đất đai: nhà nước là chủ sở hữu
đất đai hay là người đại diện chủ sở hữu; nhà nước có những quyền gì
trong vấn đề sở hữu đất đai. Điều này làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai. Khắc phục tồn tại này, Luật Đất đai năm 2003
quy định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đất đai thông qua các hình thức:
Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; Quy định về hạn mức giao
đất và thời hạn sử dụng đất; Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; Định giá đất;
Vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai của nhà nước còn
được thể hiện thông qua việc nhà nước: (i) thực hiện quyền điều tiết các
nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai;
(ii) trao QSDĐ cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho
thuê đất, công nhận QSDĐ đối với người sử dụng đất ổn định; quy định
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Hơn nữa, PLĐĐ hiện hành còn
phân biệt rõ ràng, rành mạch chức năng đại diện chủ sở hữu đất đai của
nhà nước với chức năng quản lý đất đai của nhà nước nhằm xác định cụ thể
hơn nội hàm của vấn đề sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta;
Thứ ba, bên cạnh việc quản lý đất đai bằng biện pháp
hành chính, PLĐĐ ngày càng chú trọng đến việc quản lý đất đai bằng các
biện pháp kinh tế nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất đai thông
qua việc quy định giá đất và các vấn đề tài chính về đất đai; thực hiện
việc đấu giá QSDĐ, đấu thầu dự án có sử dụng đất…
Giá đất do nhà nước xác định là căn cứ để tính tiền
sử dụng đất, tiền cho thuê đất, tiền bồi thường thiệt hại khi nhà nước
thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; tính thuế sử dụng đất, thuế
chuyển QSDĐ; tính giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi doanh
nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá… Tuy nhiên, để giá đất do nhà nước
xác định luôn theo kịp với sự vận động của quan hệ đất đai và phù hợp
với thực tiễn, pháp luật xác định các nguyên tắc trong việc định giá đất
là: (i) sát với giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường trong
điều kiện bình thường; khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng
QSDĐ thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp; (ii) các
thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kết cấu
hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử
dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau; (iii) đất tại khu vực giáp
ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có điều kiện tự
nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng
mục đích sử dụng đất theo quy hoạch thì mức giá như nhau. Mặt khác, giá
đất do UBND cấp tỉnh quy định được công bố công khai vào ngày mồng một
tháng một hàng năm.
Một điểm đáng chú ý là, PLĐĐ hiện hành áp dụng rộng
rãi cơ chế đấu giá QSDĐ, đấu thầu dự án có sử dụng đất bên cạnh hình
thức nhà nước giao đất, cho thuê đất. Điều này đã khắc phục được tình
trạng xin – cho, giảm thiểu sự tham nhũng, tiêu cực trong việc phân phối
đất đai và bảo đảm nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong sử dụng đất;
đồng thời, góp phần tăng nguồn thu từ đất đai cho ngân sách nhà nước;
Bên cạnh đó, PLĐĐ còn chú ý đến việc cải cách mạnh mẽ
thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai thể hiện ở các khía
cạnh: (i) Lần đầu tiên, Luật Đất đai năm 2003 có một chương riêng quy
định về thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng đất; trong đó định rõ
trình tự, thủ tục và thời gian thực hiện các thủ tục hành chính trong
lĩnh vực đất đai; (ii) Cơ chế “một cửa” trong thực hiện thủ tục hành
chính về đất đai được xác lập. Theo đó, văn phòng đăng ký QSDĐ là cơ
quan dịch vụ công chịu trách nhiệm giúp cơ quan tài nguyên và môi trường
trong việc thực hiện thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất;
(iii) ở một khía cạnh khác, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất được PLĐĐ phân cấp mạnh mẽ cho UBND các địa
phương thực hiện Xem Điều 37, Luật Đất đai năm 2003..
Thứ tư, PLĐĐ không chỉ xác lập quyền làm chủ thực sự
của hộ gia đình, cá nhân đối với đất đai mà còn mở rộng các quyền cho
người sử dụng đất; đi đôi với việc xoá bỏ sự phân biệt, đối xử về quyền
và nghĩa vụ giữa các đối tượng sử dụng đất.
Từ năm 1993 đến nay, song hành với sự phát triển của
hệ thống PLĐĐ là sự phát triển của chế định QSDĐ. Với quy định giao đất
cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định lâu dài, Luật Đất đai năm
1993 đã đặt nền móng xác lập quyền làm chủ thực sự của người nông dân
đối với đất đai. PLĐĐ không ngừng mở rộng các quyền của người sử dụng
đất: bắt đầu từ việc quy định năm quyền năng cho người sử dụng đất của
Luật Đất đai năm 1993 đó là quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền
cho thuê, quyền thừa kế và quyền thế chấp QSDĐ đến việc bổ sung hai
quyền năng (quyền cho thuê lại; quyền góp vốn bằng QSDĐ) của Nghị định
số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999. Tiếp đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đất đai năm 2001 ra đời bổ sung quyền bảo lãnh bằng QSDĐ
cho người sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 được ban hành không chỉ bổ
sung quyền tặng cho QSDĐ mà còn dành cho người sử dụng đất quyền được
lựa chọn hình thức sử dụng đất. Như vậy, với việc ghi nhận và bảo hộ các
quyền năng của người sử dụng đất; QSDĐ đã trở thành một loại quyền dân
sự về tài sản thuộc sở hữu tư nhân của người sử dụng đất.
Ngoài ra, PLĐĐ còn từng bước xoá bỏ sự khác biệt
trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Điều này
thể hiện quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước; hộ gia đình, cá nhân;
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài sử
dụng đất đều được ghi nhận trong Luật Đất đai năm 2003.
Thứ năm, xử lý vi phạm PLĐĐ là một nội dung cơ bản
được PLĐĐ ghi nhận và luôn được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi
phạm PLĐĐ. Theo đó, mọi hành vi vi phạm PLĐĐ do người quản lý hoặc người
sử dụng đất gây ra đều bị xử lý. Để có thể xác định chính xác mức độ,
hậu quả của hành vi vi phạm hành chính, PLĐĐ đã đề ra nguyên tắc quy đổi
giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị vi phạm thành tiền để đưa ra mức
xử phạt. Mặt khác, để đấu tranh với tình trạng nhũng nhiễu của đội ngũ
cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai, PLĐĐ cũng quy định cụ
thể việc xử lý đối với trường hợp các đối tượng này có hành vi vi phạm
PLĐĐ hoặc vi phạm quy định về thực hiện trình tự, thủ tục hành chính
trong quản lý và sử dụng đất.
Thứ sáu, PLĐĐ từng bước xây dựng và hoàn thiện quyền,
nghĩa vụ của tổ chức nói chung và tổ chức kinh tế nói riêng sử dụng
đất. Trong Luật Đất đai năm 1993, quyền và nghĩa vụ của tổ chức sử dụng
đất (đặc biệt là các tổ chức kinh tế trong nước, tổ chức, cá nhân nước
ngoài) dường như được quy định rất mờ nhạt. Do đòi hỏi của sự hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đất đai năm 1998 và năm 2001 ra đời đã bổ sung các quy định cụ thể về
quyền của tổ chức kinh tế sử dụng đất. Việc cho phép các tổ chức kinh tế
được quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng
QSDĐ đã nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của loại chủ thể kinh
doanh này. Hơn nữa, đứng trước nhu cầu sử dụng đất để xây dựng cơ sở sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh), Luật Đất đai năm 2003 đã có các quy định về sử dụng
đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; việc sử dụng đất
sử dụng đất cho khu công nghiệp, khu kinh tế và khu công nghệ cao…Các
quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp trong việc tiếp
cận đất đai sử dụng vào xây dựng, mở rộng nhà xưởng sản xuất, kinh
doanh.
Thứ bảy, thực tế thời gian qua cho thấy, nhà nước
chưa quản lý tốt giao dịch về BĐS, trong đó có giao dịch về QSDĐ có
nguyên nhân từ việc hệ thống pháp luật thiếu các quy định về quản lý thị
trường BĐS. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2003 bổ sung các
quy định về QSDĐ trong thị trường BĐS nhằm xác lập cơ sở pháp lý ban đầu
cho thị trường BĐS hoạt động lành mạnh, góp phần tạo lập các yếu tố
đồng bộ mang tính “đầu vào” của nền kinh tế thị trường;
Thứ tám, PLĐĐ hiện hành ngày càng chú ý đưa việc lồng
ghép vấn đề đất đai và vấn đề môi trường trong các quy định của mình.
Điều này thể hiện:
- Hệ thống cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường
được thành lập lần đầu tiên ở nước ta theo quy định của Luật Đất đai năm
2003. Việc ra đời hệ thống cơ quan này đã tách chức năng quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường với chức năng khai thác, sử dụng tài
nguyên; đồng thời, nó thể hiện quan điểm tiếp cận quản lý tổng hợp, sử
dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự phát triển bền vững
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường;
- Vấn đề môi trường được lồng ghép trong quy định về
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cụ thể: (i) một trong những nguyên tắc
của việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là khai thác hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường (BVMT); (ii) và việc quy hoạch
sử dụng đất phải xác định các biện pháp sử dụng đất, bảo vệ, cải tạo đất
và BVMT;
- Một trong những trường hợp bị nhà nước thu hồi đất
là người sử dụng đất cố ý huỷ hoại đất đai được quy định tại Điều 38
Luật Đất đai năm 2003. Hơn nữa, hành vi huỷ hoại đất còn bị coi là hành
vi vi phạm PLĐĐ và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tuân theo các quy định về BVMT trong sử dụng đất là
một trong những nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy định tại Điều
107 Luật Đất đai năm 2003;
II. Những tồn tại của hệ thống PLĐĐ trong 20 đổi mới
1. Tồn tại nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản PLĐĐ hoặc liên quan đến đất đai
Để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện các quy định của
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992; Luật Đất đai năm 1987, Luật
Đất đai năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998 và năm
2001), Luật Đất đai năm 2003, các luật và pháp lệnh liên quan đến đất
đai đã được ban hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn có quá nhiều cơ
quan có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật về đất đai hoặc liên quan
đến đất đai. Sau khi có Luật Đất đai 1993, Chính phủ, các cơ quan trung
ương và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành nhiều văn
bản để cụ thể hoá và tổ chức thi hành luật. ở trung ương đã ban hành
được hơn 70 văn bản, trong đó có 6 văn bản thuộc thẩm quyền của Quốc hội
và trên 30 văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ. ở các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương cũng đã ban hành trên 400 văn bản về giá đất,
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài,
giải quyết tranh chấp đất đai và về quản lý, sử dụng đất của địa phương
Tiểu ban soạn thảo sửa đổi, bổ sung Luật đất đai của Chính phủ (1998),
Tờ trình Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Luật đất đai-số
12/TBSĐL-ngày 22/7/1998.. Điều đó cho thấy: đất đai và quan hệ đất đai
là vấn đề hệ trọng liên quan trực tiếp đến mọi tổ chức và công dân, do
đó hiện tồn tại một thực trạng là rất nhiều cơ quan nhà nước có quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật đất đai để điều chỉnh quan hệ đất
đai là điều chưa hợp lý: “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đất đai
hiện nay còn có những nhược điểm: một là số lượng văn bản quá nhiều, mức
độ phức tạp cao, không thuận lợi trong sử dụng; hai là trong nội bộ hệ
thống còn có một số mâu thuẫn, tạo nên sự lúng túng trong xử lý; ba là
còn nhiều yếu tố chưa có khung điều chỉnh đầy đủ trong văn bản luật, tạo
kẽ hở trong thực thi pháp luật” Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo
Tổng kết 10 năm thi hành Luật đất đai (1993 – 2003), tháng 4/2003, tr.
9.. Chính tình hình này đã làm cho quan hệ PLĐĐ trở nên phức tạp, đẩy
quan hệ đất đai vào tình trạng lộn xộn, thiếu công bằng và công tâm
trong quản lý và sử dụng đất. Sự mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu thống
nhất giữa các văn bản PLĐĐ có nguyên nhân từ sự tràn lan trong thẩm
quyền ban hành văn bản PLĐĐ của các cấp, các ngành.
Hình thức văn bản: bên cạnh các văn bản được ban hành
theo đúng quy định của Luật ban hành VBQPPL cũng còn có không ít các
văn bản được ban hành không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hình
thức mà pháp luật quy định. Ví dụ như: sử dụng công văn, thông báo… để
quy định về chế độ, chính sách đất đai (theo đánh giá, tỷ lệ này ở thành
phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 30%). Thực tế này dẫn đến các bất lợi sau
đây:
Thứ nhất, về phía người dân. Do tồn tại một hệ thống
văn bản đồ sộ, phức tạp như vậy, nên người sử dụng đất không thể tìm
hiểu hết các quyền và nghĩa vụ của họ được quy định ở văn bản pháp luật
nào, liệu văn bản đó có còn hiệu lực pháp luật hay không? Chính do không
hiểu biết cặn kẽ những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ,
người sử dụng đất thường vi phạm pháp luật mà họ không hề hay biết. Chỉ
sau khi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện và xử lý, thì họ mới
nhận biết được hành vi vi phạm của mình hoặc trong quá trình thực hiện
các quyền của người sử dụng đất nảy sinh tranh chấp, người dân phải liên
hệ, khiếu kiện tại nhiều nơi gây lãng phí, tốn kém về thời gian, công
sức và tiền bạc;
Thứ hai, về phía nhà nước. Do lực lượng mỏng và trình
độ cán bộ (đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trình độ còn yếu, kém)
không đồng đều, cộng với việc có quá nhiều văn bản PLĐĐ của các cấp, các
ngành ở trung ương và địa phương ban hành, cho nên cán bộ thừa hành khó
cập nhật kịp thời và hiểu hết nội dung các văn bản hoặc có nắm bắt được
thì lại khó khăn trong quá trình áp dụng, vì tính thống nhất của các
văn bản không cao, có nhiều chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn. Điều này đã
trở thành mảnh đất màu mỡ cho hiện tượng luồn lách, né tránh, phát sinh
tiêu cực, tham nhũng lớn trong quản lý đất đai;
Thứ ba, quy trình ban hành các văn bản pháp quy về
đất đai không tuân theo quy định của Luật ban hành các văn bản QPPL mà
vẫn thực hiện theo một trình tự cũ. Khi Luật Đất đai được ban hành và có
hiệu lực thi hành, các cấp, các ngành không tiến hành triển khai ngay
mà còn trông chờ vào việc Chính phủ và các cơ quan hữu quan ban hành
Nghị định, thông tư hướng dẫn. ở một khía cạnh khác, nhiều địa phương
tồn tại tình trạng cơ quan cấp trung ương ban hành một văn bản pháp luật
về đất đai thì nhất thiết chính quyền cấp tỉnh phải ban hành một văn
bản hướng dẫn; khi đó, chính quyền cấp huyện, cấp xã mới triển khai thi
hành. Quy trình này tạo ra nhiều văn bản có nội dung chồng chéo, mâu
thuẫn và làm cho Luật Đất đai không thể triển khai ngay sau khi có hiệu
lực thi hành;
Nhằm khắc phục tình trạng trên đây, Luật Đất đai năm
2003 ra đời thể hiện sự đổi mới tư duy trong quy trình xây dựng văn bản
QPPL; theo đó, Chính phủ chỉ ban hành các văn bản cụ thể hóa các quy
định mà Luật Đất đai năm 2003 giao cho; các quy định được đề cập chi
tiết trong Luật Đất đai năm 2003 khi có hiệu lực được thi hành ngay mà
không phải chờ Nghị định hướng dẫn thi hành như trước đây… Tuy nhiên,
sau khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, đã có một loạt các đạo luật liên
quan đến lĩnh vực đất đai được ban hành nhưng nội dung một số quy định
của các đạo luật này lại chưa thống nhất với tinh thần của Luật Đất đai
năm 2003, chẳng hạn như Luật Xây dựng, Luật về Nhà ở…
2. Tồn tại sự khụng thống nhất trong một số nội dung cụ thể của hệ thống PLĐĐ
Do có quá nhiều văn bản của nhiều cấp, nhiều ngành
khác nhau ở trung ương và địa phương cùng điều chỉnh một nội dung, nên
thực tế đã không đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật. ở đây
xuất hiện hai xu hướng:
Một là, các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như luật, pháp lệnh, nghị định… do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương ban hành quy định thoáng
hơn các văn bản do cấp dưới ở các địa phương ban hành. Văn bản do cấp
dưới ban hành cứ xuống mỗi cấp lại hạn chế bớt, quy định chặt chẽ hơn.
Ví dụ, về vấn đề cấp GCNQSDĐ; Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992,
Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003
không quy định về điều kiện người sử dụng đất xin cấp GCNQSDĐ phải có hộ
khẩu thường trú tại nơi có đất. Trong khi đó, một số địa phương như Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, để hạn chế số lượng người ngoại tỉnh về
sinh sống, lại ban hành quy định bắt người sử dụng đất phải có hộ khẩu
thường trú thì mới được cấp GCNQSDĐ. Điều này không những gây khó khăn,
phiền hà cho người dân; ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do cư trú
của công dân mà còn gây khó khăn trong công tác quản lý đất đai của các
cơ quan nhà nước;
Hai là, xảy ra tình trạng ngược lại. Văn bản càng
xuống thấp do cơ quan cấp dưới ban hành càng quy định thoáng hơn, càng
bung ra theo cơ chế thị trường, dẫn đến nguy cơ vô hiệu hoá một số quy
định trong pháp luật về đất đai. Ví dụ: Luật Đất đai năm 2003 quy định
quỹ đất công ích 5% chỉ được sử dụng vào mục đích công ích của địa
phương hoặc cho hộ gia đình, cá nhân thuê sử dụng vào mục đích nông
nghiệp, nhưng có một số địa phương, chính quyền tự ý chuyển một phần quỹ
đất này thành đất làm nhà ở hoặc giao cho số nhân khẩu tăng thêm hàng
năm…
3. Tính an toàn pháp lý của hệ thống PLĐĐ chưa cao
Do có quá nhiều văn bản được ban hành bởi các cơ quan
khác nhau, nên mức độ hoàn thiện chưa cao. Vỡ vậy, tớnh an toàn pháp lý
cho người sử dụng đất dường như chưa được bảo đảm một cách chắc chắn.
Trên thực tế, có nhiều văn bản đã hết hiệu lực thi hành và được thay thế
bởi một văn bản pháp luật khác, song để giải quyết các tranh chấp, các
vụ việc về đất đai gắn liền với từng giai đoạn lịch sử nhất định, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền lại viện dẫn các quy định đã hết hiệu lực
pháp luật đó. Khắc phục tình trạng này, Luật Đất đai năm 2003 đã “luật
hoá” các quy định ở các văn bản dưới luật được cuộc sống chấp nhận và
từng bước chi tiết hoá các chế định, đồng thời, hạn chế tối đa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành và hạn chế số lượng các văn bản hướng
dẫn thi hành. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến tình trạng là nghị định
thi hành Luật Đất đai năm 2003 rất đồ sộ và chứa đựng nhiều quy định hơn
cả luật. Việc quán triệt nội dung để triển khai thi hành cũng phải mất
nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm hiểu.
4. Đánh giá chung
Hiện nay, PLĐĐ vẫn bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định liên quan đến các giao dịch về
đất đai nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Đất đai,
BLDS, Luật về Nhà ở, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh BĐS… và vẫn còn
thiếu một số nội dung nhằm xác lập khung pháp lý hoàn chỉnh điều chỉnh
hoạt động của thị trường BĐS của tổ chức (trong đó có thị trường QSDĐ)…
Cụ thể:
- Chưa ban hành Luật về Đăng ký giao dịch BĐS, Luật về Môi giới BĐS;
- Thiếu quy định để xây dựng và điều chỉnh hoạt động
của các tổ chức trung gian có chức năng hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động của
thị trường BĐS như: tổ chức môi giới BĐS; tổ chức định giá BĐS; tổ chức
tư vấn, cung cấp thông tin về BĐS; tổ chức tư vấn dịch vụ pháp lý về
BĐS; tổ chức bảo hiểm hoạt động kinh doanh BĐS …
Thứ hai, PLĐĐ dường như chưa có đủ các quy định cần
thiết nhằm giải quyết tình trạng sử dụng đất nông, lâm nghiệp manh mún
hiện nay ở khu vực nông thôn Bắc bộ, Trung bộ; đồng thời, chưa xác lập
được đầy đủ, đồng bộ về cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy người nông dân
tự nguyện chuyển đổi ruộng đất cho nhau thông qua “dồn điền đổi thửa”
nhằm tích tụ, tập trung đất đai thực hiện CNH, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn;
Thứ ba, các quy định hiện hành về chính sách tài
chính về đất đai còn bất cập, chưa góp phần hỗ trợ đắc lực sự phát triển
của thị trường QSDĐ. Điều này được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Chưa ban hành thuế về BĐS nhằm ngăn chặn tình trạng đầu cơ đất đai;
- Thuế chuyển QSDĐ vẫn dựa vào hành vi chuyển QSDĐ để
xác định mức thuế suất, nên trường hợp chuyển nhượng QSDĐ để giải quyết
nhu cầu về nhà ở và trường hợp chuyển nhượng QSDĐ, “mua bán” nhà đất
lòng vòng nhằm mục đích kiếm lợi đều chịu mức thuế suất như nhau. Điều
này đã không đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hành vi chuyển nhượng
QSDĐ kiếm lời;
- Theo quy định hiện hành mức nộp lệ phí trước bạ
nhà, đất là 1%. Trên thực tế, đa số các trường hợp người nhận chuyển
nhượng QSDĐ là người phải nộp thuế chuyển QSDĐ với mức thuế suất là 2%
(chuyển QSDĐ nông nghiệp); 4% (chuyển QSDĐ phi nông nghiệp). Họ còn phải
nộp thêm 1% lệ phí trước bạ; đồng thời với các quy định đó thì giá đất
được nhà nước điều chỉnh cao hơn cho sát với giá đất trên thị trường
trong điều kiện bình thường, vì thế, số tiền mà người sử dụng đất phải
nộp sẽ lớn hơn rất nhiều so với trước đây. Như vậy, số tiền mà người
nhận chuyển QSDĐ phải nộp là rất lớn (đặc biệt là ở khu vực đô thị, nơi
có giá đất cao) so với thu nhập của người lao động làm công ăn lương.
Điều này đã không khuyến khích người sử dụng đất tự giác thực hiện các
thủ tục đăng ký, xin cấp GCNQSDĐ khi chuyển QSDĐ;
- Hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về thuế thu nhập
từ chuyển QSDĐ theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 nhằm đảm bảo thực
hiện nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong sử dụng đất. Hơn nữa, quy
định của Luật đất đai năm 2003 về việc nhà nước thực hiện quyền điều
tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai mà không do đầu tư của người sử
dụng đất mang lại chưa được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể
hoá bằng các chế độ thu cụ thể, nên các lợi ích kinh tế được tạo ra từ
đất đai do sự đầu tư của nhà nước, của xã hội không được điều tiết vào
ngân sách nhà nước mà lại nằm trong tay một bộ phận dân cư, gây ra sự
bức xúc, bất bình trong dư luận;
- Quy định hiện hành của thuế nhà, đất được xác định
theo mức thuế sử dụng đất nông nghiệp cùng hạng đất là bất hợp lý; vì
trong điều kiện hiện nay, giá đất ở khu vực đô thị cao gấp hàng chục lần
khu vực nông thôn. Mặt khác, việc xác định mức thuế sử dụng đất nông
nghiệp theo hiện vật (tính bằng kg thóc/ một đơn vị diện tích) đã không
còn phù hợp.
Thứ tư, về giải quyết tranh chấp đất đai. PLĐĐ đề
cao việc hoà giải tranh chấp đất đai và coi đó là một trong những biện
pháp cơ bản để giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, thực tế việc
thực hiện chế định hoà giải tranh chấp đất đai gặp rất nhiều khó khăn do
chưa có quy định cụ thể để giải quyết các tình huống sau:
- Trong trường hợp UBND cấp xã gửi giấy mời mà một
trong các bên đương sự không đến thì có coi đó là hoà giải không thành
và bên có đơn đề nghị UBND cấp xã hoà giải có được quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai không?
- Trường hợp hoà giải thành tại UBND cấp xã, sau đó
một trong các bên đương sự lại thay đổi ý kiến của mình thì giải quyết
thế nào?
Mặt khác, việc quy định hai cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai là UBND và Toà án nhân dân (TAND) cũng gây
không ít khó khăn khi giải quyết tranh chấp đất đai trên thực tế. Bởi lẽ, theo quy định hiện hành, một trong
những loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TAND là
tranh chấp về QSDĐ mà đương sự có một trong các loại giấy tờ quy định
tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, do
biến động của công tác quản lý đất đai qua các thời kỳ, nên thực tế có
rất nhiều các loại giấy tờ, sổ sách về đất đai. Do vậy, việc xác định
đâu là những loại giấy tờ về QSDĐ theo quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều
50 của Luật Đất đai năm 2003 để từ đó xác định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai giữa UBND và TAND là việc làm không đơn giản và không
tránh khói tình trạng đùn đẩy thẩm quyền giải quyết giữa các cơ quan
này.
Thứ năm, mặc dù hệ thống cơ quan quản lý tài nguyên
và môi trường nói chung và quản lý đất đai nói riêng được thành lập
nhưng việc quy định tỷ lệ định biên chế cho các cơ quan này vẫn thực
hiện theo cơ chế cũ, mang tính bình quân, cào bằng căn cứ vào từng cấp
đơn vị hành chính mà không căn cứ vào khối lượng công việc đảm nhiệm đã
dẫn đến tình trạng các phòng tài nguyên và môi trường ở khu vực đô thị
luôn ở trong tình trạng quá tải về công việc do không đủ lực lượng cán
bộ và bị giới hạn bởi số lượng biên chế quy định. PLĐĐ vẫn chưa có giải
pháp hữu hiệu nào để giải quyết vấn đề bất cập này;
Thứ sỏu, việc lồng ghép giữa vấn đề đất đai và vấn đề
môi trường trong PLĐĐ chưa toàn diện và đầy đủ. Thiếu các quy định về
quy hoạch đất đai để xây dựng các cơ sở hạ tầng môi trường; vấn đề BVMT
trong quy hoạch đất xây dựng các làng nghề truyền thống dường như chưa
quy định cụ thể và đầy đủ; việc lồng ghép công tác thanh tra đất đai với
thanh tra môi trường chưa được Luật Đất đai năm 2003 đề cập …
III. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống PLĐĐ
Trên cơ sở đánh giá, phân tích những ưu điểm và tồn
tại của hệ thống PLĐĐ hiện hành cho thấy rằng, việc tiếp tục hoàn thiện
hệ thống PLĐĐ là cần thiết. Theo đó, một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn
thiện các quy định của PLĐĐ là:
- Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật về Đăng ký
giao dịch BĐS, Luật về Môi giới BĐS… nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho
việc xác lập và vận hành thị trường BĐS có tổ chức ở nước ta;
- Đổi mới hệ thống pháp luật về thuế về đất đai theo
hướng: (i) ban hành thuế về BĐS; (ii) sửa đổi các quy định về thuế nhà
đất cho phù hợp hơn; (iii) sửa đổi mức thu thuế về chuyển QSDĐ, lệ phí
trước bạ phù hợp với thu nhập của đa số người lao động nhằm khuyến khích
họ tự giác kê khai, đăng ký khi thực hiện chuyển QSDĐ;
- Ban hành quy định cụ thể hoá việc nhà nước thực
hiện quyền điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư
của người sử dụng đất mang lại được đề cập trong Luật Đất đai năm 2003;
- Xây dựng quy chế thành lập và quản lý các tổ chức
trung gian dịch vụ, hỗ trợ hoạt động của thị trường BĐS như tổ chức định
tư vấn giá đất, tổ chức môi giới BĐS, tổ chức tư vấn cung cấp thông tin
về BĐS, tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý về BĐS, tổ chức kinh doanh,
bảo hiểm BĐS …
- Bổ sung cơ chế, chính sách và một số quy định cụ
thể nhằm khuyến khích người nông dân tự nguyện chuyển đổi ruộng đất
thông qua “dồn điền đổi thửa” khắc phục tình trạng manh mún về đất đai
góp phần thực hiện CNH, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn;
- Tiếp tục đẩy mạnh việc lồng ghép giữa vấn đề đất
đai với vấn đề môi trường trong các quy định của PLĐĐ đi đôi với việc
ban hành các nội dung cụ thể về việc phân cấp cho phòng Tài nguyên và
Môi trường cấp huyện trong quản lý đất đai và quản lý môi trường;
- Ban hành quy định nhằm kiện toàn và nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ cho cấp cơ sở để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ quản lý
tài nguyên và môi trường nói chung và quản lý đất đai nói riêng trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 87, THÁNG 11 NĂM 2006
0 comments:
Post a Comment