VỤ PHỔ BIẾN, TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT – BỘ TƯ PHÁP
Khiếu nại, tố cáo là
một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận: "Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định cụ thể hơn trong Luật Khiếu nại – tố cáo.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật
quy định là cơ sở pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm
chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong
sạch bộ máy nhà nước đồng thời cũng qua đó phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ, trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp
phần ổn định tình hình chính trị xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ
trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị
quyết, văn bản pháp luật quy định về vấn đề này, trong đó có Pháp lệnh
Khiếu nại – tố cáo của công dân năm 1991, Luật Khiếu nại – tố cáo năm
1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại – tố cáo năm
2004 và năm 2005; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2006). Như vậy, với việc ban hành
các văn bản pháp luật nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo
điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; làm
cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu
tố.
Khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai là một hiện
tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt khi nước ta chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng
việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì tranh chấp đất đai phát
sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức
tạp về mặt nội dung. Tuy nhiên, tranh chấp đất đai kéo dài với số lượng
ngày càng đông người dân tham gia thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm
tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh để đề ra các biện pháp giải quyết phù hợp
nhằm “tháo ngòi nổ” xung đột không để phát sinh trở thành “điểm nóng”
gây mất ổn định chính trị, tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức
tạp của tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài không chỉ bắt nguồn từ
những xung đột gay gắt về lợi ích kinh tế, từ hệ quả của sự quản lý
thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ
của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai…mà còn do những nguyên nhân
có tính lịch sử trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài dưới khía
cạnh những nguyên nhân có tính lịch sử là rất cần thiết không những giúp
Nhà nước trong nỗ lực xác lập cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai một
cách có hiệu quả mà còn góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Chuyên đề này nhằm cung cấp cho đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên và cán bộ, nhân dân một số hiểu biết cơ bản về thực
trạng tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành, qua đó tạo điều
kiện tốt hơn cho việc tuyên truyền, phổ biến và vận động cán bộ, nhân
dân chấp hành pháp luật về lĩnh vực này.
Phần thứ nhất
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI TRONG THỜI GIAN GIAN QUA
I. TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Từ nhiều năm nay, tình hình khiếu nại, tố cáo luôn là
vấn đề bức bách được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Đảng và
Nhà nước đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về vấn đề này. Các văn bản đó
đã và đang được triển khai thực hiện, có tác động tích cực đến tình hình
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhờ vậy, nhiều “điểm
nóng”, nhiều vụ việc phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân, thời gian gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo của
công dân diễn ra không bình thường, số lượng gia tăng, tính chất phức
tạp, trong đó khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chiếm số lượng
lớn, khoảng 80% so với các khiếu nại, tố cáo trong cả nước, có những
tỉnh, thành phố riêng về đất đai chiếm số lượng rất lớn như: thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Tây, Thái Bình, Cần Thơ, Hải
Dương, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Đồng
Tháp, An Giang, Sóc Trăng…
Tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp của công dân
trong lĩnh vực đất đai diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa
phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng. Số lượng đơn
vượt cấp gửi đến các cơ quan ở Trung ương nhiều, nội dung thể hiện tính
bức xúc gay gắt, không chấp nhận với cách giải quyết của chính quyền địa
phương. Số lượng công dân đến khiếu nại trực tiếp tại phòng tiếp công
dân của các địa phương, các cơ quan ở Trung ương hàng năm cao. Nhiều vụ
việc công dân tụ tập thành đoàn, đi xe, căng cờ, biểu ngữ… kéo đến các
cơ quan chính quyền, Đảng,… nhằm gây áp lực đòi được giải quyết quyền
lợi theo yêu cầu. Số lượng công dân tập trung đông chủ yếu ở các kỳ họp
Hội đồng nhân dân, Quốc hội, Đại hội đảng, có nơi công dân tập trung huy
động thương binh, phụ nữ, người già, trẻ em bao vây trụ sở chính quyền
xã, huyện, tỉnh, doanh nghiệp gây mất trật tự, an toàn xã hội.
Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại
liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội,
như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ,
bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất
đai, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện
chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức… Về nội dung tố cáo,
chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham
nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực
hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm
trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng
năm Bộ nhận được gần 10.000 lượt đơn tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc
lĩnh vực tài nguyên và môi trường của công dân 63/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, trong đó đơn thuộc lĩnh vực đất đai chiếm 98,6%
tổng số đơn. Các địa phương có nhiều đơn gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi
trường là thành phố Hồ Chí Minh,
An Giang, Cần Thơ, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp,
Bến Tre, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang và Tây Ninh (bình quân mỗi địa
phương có gần 500 lượt đơn thư/năm).
Tình hình trên nếu không được xử lý kịp thời sẽ rất
phức tạp, gây tâm lý hoang mang, thiếu tin tưởng vào chính quyền, ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích quốc gia.
* Tình hình đơn thư tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai của công dân gửi đến Bộ Tài nguyên và Môi trường từ năm 2003
đến năm 2008:
- Tổng số đơn Bộ nhận được từ năm 2003-2008 là 47.652
lượt (bình quân gần 8.000 lượt/năm và riêng năm 2008 là 7.005), đơn thư
Bộ nhận được có ở cả 63 tỉnh, thành phố. Kết quả phân tích đơn thư như
sau:
+ Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ: 985 vụ việc (chiếm tỷ lệ 2,1% số đơn thư Bộ nhận được).
+ Đơn do Thủ tướng Chính phủ giao: 139 vụ việc (chiếm tỷ lệ 0,3%).
+ Đơn đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: 7.551 vụ việc (chiếm tỷ lệ 15,8%).
+ Đơn tố cáo: 1.125 vụ việc (chiếm tỷ lệ 2,4%).
+ Đơn vượt cấp: 13.812 vụ việc (chiếm tỷ lệ 29%).
+ Đơn trùng và đơn không đủ điều kiện: 24.088 lượt đơn (chiếm tỷ lệ 50,4%).
- Các vụ việc thuộc thẩm quyền của Bộ tập trung nhiều
vào các năm 2003 và 2004 với tổng số 682 vụ (chiếm 69,2% số vụ việc
thuộc thẩm quyền), do Luật Đất đai năm 2003 chưa có hiệu lực nên các vụ
việc liên quan đến công tác thu hồi đất và bồi thường vẫn thuộc thẩm
quyền giải quyết của Bộ. Sau khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực, thẩm
quyền của Bộ tập trung chủ yếu vào công tác giải quyết các vụ việc
tranh chấp đất đai có yếu tố tổ chức.
* Trong 6 tháng đầu năm 2009, các đơn vị trực
thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được tổng số đơn khiếu nại, tố
cáo thuộc lĩnh vực đất đai là: 3.470 lượt đơn.
Trong số lượng đơn, thư nhận được số lượng đơn thư về
đất đai vẫn chiếm phần lớn với 3.470 đơn (chiếm 98,6%) trong đó có
1.747 đơn trùng, không đủ điều kiện; 1.723 đơn còn lại chiếm 49,65% liên
quan đến những vấn đề sau: Tranh chấp đất giữa cá nhân và cá nhân: 280
đơn, chiếm 16,25%; Khiếu nại về giá bồi thường khi thu hồi đất: 508 đơn,
chiếm 29,48%; Khiếu nại cấp, thu hồi Giấy chứng nhận: 214 đơn, chiếm
12,42%.
Trong tổng số đơn, thư đã nhận có 06 đơn do Thủ tướng giao và 05 đơn thuộc thẩm quyền Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đối với 06 vụ việc được Thủ tướng Chính phủ giao đã
xử lý như sau: 01 vụ việc đã thẩm tra và làm việc với Ủy ban nhân dân
tỉnh để thống nhất giải quyết và báo cáo Thủ tướng Chính phủ; 04 vụ việc
đang thẩm tra; 01 vụ việc mới tiếp nhận.
Đối với 05 đơn thuộc thẩm quyền: 03 đơn đã có văn bản
thống nhất với Quyết định giải quyết của tỉnh; 02 đơn đang thẩm tra,
xác minh. Còn lại các đơn không thuộc thẩm quyền đều đã được chuyển đến
các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2009, số lượng đơn
thư Bộ nhận được giảm khá nhiều so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2008. Tuy
nhiên, tình trạng đơn thư tập thể và khiếu kiện vượt cấp vẫn còn nhiều
gây khó khăn và mất nhiều thời gian cho công tác giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của Bộ.
* Tình hình khiếu nại đông người trong lĩnh vực đất đai trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009
Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được 84 đơn khiếu
nại đông người (giảm 24% so với năm 2006 và bằng cả năm 2007), trong đó
các tỉnh, thành phố phía Nam có nhiều vụ việc nhất chiếm 85,6% tổng số
vụ việc. Một số địa phương phía Nam có đơn thư tập thể là: Thành phố Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ, Long An, Đồng Nai, Cà Mau, An Giang, Bến
Tre, Đồng Tháp, Bà Rịa – Vũng Tàu và Kiên Giang.
Một số vụ việc khiếu nại nổi cộm, mang tính bức xúc
mà Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được trong thời gian qua như: Việc
một số hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số Khmer ở 2 huyện Tri Tôn và Tịnh
Biên (tỉnh An Giang) đòi lại đất trước đây của các hộ do chiến tranh
biên giới nên phải di dời nay người khác sử dụng; các hộ dân ở thành phố
Hồ Chí Minh khiếu nại liên quan đến việc thu hồi đất và sử dụng đất tại
dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm; khiếu nại của các hộ dân ở thành phố
Cần Thơ liên quan đến quy hoạch tại khu vực Cồn Cái Khế; việc một số hộ
dân đòi lại đất hiện do Cty Cao su Tân Biên, Nhà máy đường Nước Trong
(tỉnh Tây Ninh) đang sử dụng; việc thu hồi đất trồng cao su của các hộ
dân tại xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương ….
Một số vụ việc đông người, phức tạp Thủ tướng Chính
phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm tra, xác minh đề xuất giải
quyết như: Vụ việc của một số công dân ở phường Phước Thới, quận Ô Môn,
thành phố Cần Thơ khiếu nại việc thu hồi đất để xây dựng trung tâm điện
lực Ô Môn; vụ việc một số doanh nghiệp và hộ dân khiếu nại việc thu hồi
đất để xây dựng khu công nghiệp Tân Phú Trung, thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng phối hợp với Văn phòng
Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban nhân dân một số tỉnh để xem xét,
giải quyết các vụ việc đông người, phức tạp như: Khiếu nại của các hộ
dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến việc thu hồi đất để thực
hiện dự án Khu công nghệ cao; khiếu nại của 684 hộ dân liên quan đến
việc thu hồi đất để thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ 1A, dự án đuờng cao
tốc Trung Lương, dự án khu công nghiệp Tân Hương và dự án đường dây 500
KV Nhà Bè – Ô Môn (tỉnh Tiền Giang).
2. Nội dung tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Nội dung khiếu tố tập trung vào việc bồi thường giải
phóng mặt bằng, bố trí tái định cư, đòi lại đất cũ và tranh chấp quyền
sử dụng đất… Nhiều vụ việc khiếu nại nổi cộm, mang tính bức xúc như:
việc thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đà Nẵng, công dân tụ tập
bao vây cơ quan, nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, kéo lên Trung
ương, lưu lại nhiều ngày ở Hà Nội và liên kết với các hộ dân ở Long An,
An Giang, Lâm Đồng để gây sức ép đòi được giải quyết quyền lợi.
Nội dung khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
a) Bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư:
Khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường không thoả
đáng, không làm đúng các thủ tục theo quy định của pháp luật như ở Thái
Nguyên, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… thành các đoàn đông người, thường
xuyên kéo đến trụ sở các cơ quan ở Trung ương…
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường
gay gắt, công dân tụ tập đông người, xảy ra tập trung ở những nơi thu
hồi diện tích đất lớn để bố trí phát triển các dự án, người có đất bị
thu hồi khiếu nại về thực hiện không đúng quy hoạch, không đúng diện
tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống…
Ngoài ra, còn một số khiếu nại: đòi thực hiện chính
sách bồi thường về đất đai do trước đây chưa được thực hiện trong việc
trưng dụng, thu hồi đất; giải toả hành lang an toàn giao thông.
- Thời gian qua, các địa phương tiến hành xây dựng
các khu công nghiệp thu hồi chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, trong
khi đó giá đền bù thấp, quỹ đất sản xuất nông nghiệp còn ít hoặc không
còn để giao; nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, giao cho
các Công ty để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, người dân
không chấp nhận dẫn đến tình trạng các hộ dân chống đối, không thực hiện
các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã có nhiều hành
vi ngăn cản, đập phá phương tiện và chống người thi hành công vụ như ở
Hà Nội .v.v..
b) Đòi lại đất cũ:
- Đòi lại đất trước đây đưa vào Hợp tác xã nông
nghiệp hay Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đã giao khoán cho các hộ khác
sử dụng, khi Hợp tác xã, Tập đoàn sản xuất tan rã có tình trạng ruộng
đất của ai, người đó lấy lại sử dụng, nhưng một bộ phận nông dân không
lấy lại được ruộng đất vì người khác đang sử dụng hoặc chính quyền đã sử
dụng vào mục đích khác.
- Đòi lại đất khi Nhà nước thực hiện chính sách
“nhường cơm, sẻ áo”; đất cho người khác thuê, mượn để sản xuất, làm nhà ở
hoặc nhờ người trông coi trước năm 1987, nay những người này đang sử
dụng.
- Đòi lại đất chính quyền chế độ cũ lấy để sử dụng,
sau giải phóng, Nhà nước tiếp quản hoặc giao cho người khác sử dụng, như
ở Tiền Giang, Bến Tre… gây nhiều bức xúc. Thủ tướng Chính phủ đã có
Quyết định số 815/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2001 phê duyệt phương án
giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai của một số hộ nông dân ở tỉnh
Bến Tre nhưng đến nay vẫn còn nhiều trường hợp tiếp tục khiếu nại gay
gắt.
- Đòi lại đất có nhà ở khu vực đô thị trong quá trình
cải tạo công thương nghiệp Nhà nước đã quản lý nhưng không làm đầy đủ
thủ tục.
- Đòi lại đất tôn giáo đã hiến, cho, cho mượn hoặc chính quyền đã sử dụng làm nhà trẻ, trường học, mẫu giáo, nhà văn hoá…
- Đòi đất cũ khi chiến tranh biên giới xảy ra, người
có đất đi sơ tán sau quay lại đã có người sử dụng hoặc Nhà nước đã giao
cho người khác sử dụng.
c) Tranh chấp quyền sử dụng đất:
- Tranh chấp đất hương hoả, dòng tộc, đòi chia thừa kế.
- Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc ở địa phương với dân di cư.
- Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nhân dân ở các
địa phương với các đơn vị được Nhà nước giao đất an ninh, quốc phòng và
các nông, lâm trường.
- Tranh chấp đất giữa cá nhân với cá nhân, hộ gia
đình về diện tích, ranh giới sử dụng đất, chuyển nhượng quyền sử dụng
đất .v.v..
d) Tố cáo cán bộ thực hiện sai quy định của Nhà nước về đất đai:
Các tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:
- Tố cáo việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi
trong việc thu hồi đất, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất để đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà ở; lợi dụng chính sách thu hồi
đất của nông dân để chia cho cán bộ.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao chiếm ruộng đất, lập trang trại; khai tăng diện tích, sai vị trí đất để tham ô.
- Tố cáo chính quyền địa phương (chủ yếu là cấp xã)
giao đất trái thẩm quyền, giao đất không đúng diện tích được phê duyệt
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giao sai vị trí,
diện tích, không đúng quy hoạch, thu tiền đất vượt nhiều lần so với quy
định của Nhà nước, sử dụng tiền thu từ đất không đúng chế độ tài chính.
- Tố cáo chính quyền địa phương quản lý, sử dụng quỹ
đất công ích (5%) sai mục đích, sai quy định của pháp luật, cho thuê,
đấu thầu lâu năm thu tiền chi tiêu riêng, để diện tích đất công ích vượt
quá 5%.
- Ngoài ra, có nhiều đơn tố cáo cán bộ nhũng nhiễu, đòi hối lộ trong việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
đ) Một số nội dung khác:
- Có trường hợp khiếu kiện đã được các cấp, ngành ở
địa phương, Trung ương giải quyết phù hợp với quy định của pháp luật, có
lý, có tình nhưng công dân vẫn cố tình khiếu kiện, đeo bám các cơ quan ở
Trung ương, ở Hà Nội trong thời gian vài ba năm .v.v..
- Hiện nay đã bắt đầu xuất hiện loại khiếu kiện mới
liên quan đến việc giao đất nông nghiệp theo Nghị định số 64/CP ngày 27
tháng 9 năm 1993 của Chính phủ. Người sử dụng đất nông nghiệp khi bị thu
hồi đã khiếu nại đòi quyền lợi đối với thời gian còn lại của thời hạn
được giao 20 năm.
3. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian qua
Do chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước
thực hiện chính sách mới về quản lý đất đai. Đất đai trở thành một tư
liệu sản xuất quan trọng và là một tài sản có giá đối với với mọi người
dân.
Kết hợp với nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc
số lượng khiếu kiện khiếu nại của người dân liên quan đến ruộng đất trở
nên đông đảo và phức tạp số vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai
ngày càng đông chiếm tới hơn 90%. Lỗi là do chính quyền một số
địa phương đã “chưa làm đúng pháp luật", chưa công khai, minh bạch,
dân chủ. Điều này thể hiện năng lực, trách nhiệm của chính quyền các
cấp trong việc giải quyết khiếu kiện.
Có nhiều nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại về đất đai nói chung, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào các nguyên nhân sau đây:
a) Có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất
Chiến tranh khốc liệt trong 30 năm, tiếp theo đó là
chiến tranh biên giới gây nên sự xáo trộn lớn về nơi cư trú cùng với
những chính sách đất đai theo yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng đã dẫn
đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù pháp luật về đất đai
(Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003) không thừa nhận việc
đòi lại đất đã giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng
trong quá trình thực hiện chính sách đất đai nhưng nhiều người vẫn tranh
chấp hoặc khiếu nại để đòi đất cũ của mình.
b) Sự bất cập của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai
- Hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian dài đã
tránh né việc giải quyết một số quan hệ về đất đai, dẫn tới tồn đọng số
vụ việc cần giải quyết và gây ra sự vận dụng khác nhau giữa các địa
phương khi giải quyết những vấn đề giống nhau.
- Từ chỗ pháp luật công nhận nhiều hình thức sở hữu
đất đai chuyển sang quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến sau này
quy định cho người sử dụng đất có đầy đủ các quyền, do vậy, việc nắm bắt
kịp thời các quy định pháp luật của cán bộ và người dân hạn chế, việc
hiểu các quy định pháp luật cũng không đầy đủ và quan niệm về chế độ sở
hữu tư nhân về đất đai trong nhân dân vẫn còn tồn tại. Việc ban hành văn
bản pháp luật về đất đai theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của
đất nước nên thiếu đồng bộ và còn chồng chéo, thiếu công bằng, người
hưởng chính sách sau được lợi hơn người hưởng chính sách trước (có một
số trường hợp những người chây ì, không chấp hành pháp luật được lợi hơn
người chấp hành nghiêm pháp luật), từ đó dẫn đến so bì, khiếu kiện.
- Những năm 1980, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất
nông nghiệp ở miền Nam được hình thành, sau đó giải thể nhưng Nhà nước
chưa có chính sách xử lý kịp thời, tình trạng tự phát lấy lại ruộng đất
và biện pháp giải quyết của các địa phương không thống nhất trong việc
phân bổ lại đất đai khi các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất giải thể, đã
dẫn đến nhiều khiếu kiện.
c) Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà
nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của
người sử dụng đất đã được pháp luật công nhận, dẫn tới nhấn mạnh quyền
thu hồi đất của Nhà nước, nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất mà chưa quan
tâm đầy đủ lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, đặc biệt là trong
việc định giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan giữa giá đất thu hồi
với giá đất tái định cư (thu hồi theo giá Nhà nước quy định quá thấp,
giao đất tái định cư lại theo giá gần sát giá thị trường).
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích của xã
hội với lợi ích của những người có đất bị thu hồi, thường chỉ nhấn mạnh
đến tính cấp thiết của việc giải phóng mặt bằng để có được dự án, chưa
chú ý những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất, dẫn tới không
bảo đảm điều kiện tái định cư, không có phương án tích cực về giải quyết
việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông dân không
còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như nơi
ở cũ.
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà
đầu tư cần sử dụng đất với người có đất bị thu hồi, thường nhấn mạnh
đến môi trường đầu tư, nóng vội giải phóng mặt bằng để giao đất, cho
thuê đất. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực tới việc
khuyến khích nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ứng gay gắt của
những người có đất bị thu hồi.
- Việc chưa điều chỉnh kịp thời giá đất để tính bồi
thường khi Nhà nước thực hiện dự án có liên quan đến nhiều tỉnh hoặc
việc cho người có nhu cầu sử dụng đất phát triển các dự án tự thoả thuận
bồi thường với người dân đang sử dụng đất, người được giao đất muốn
giải phóng mặt bằng nhanh đã chấp nhận giá bồi thường cao hơn quy định
của Nhà nước làm cho mức đền bù chênh lệch trên cùng một khu vực, từ đó
phát sinh khiếu nại.
- Quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp để giao cho các
nông trường, lâm trường, các dự án đầu tư phát triển công nghiệp, dịch
vụ, xây dựng hạ tầng trong nhiều trường hợp chưa được nghiên cứu kỹ
lưỡng, tính khả thi thấp dẫn tới tình trạng thu hồi đất nhưng không sử
dụng, sử dụng không có hiệu quả trong khi nông dân thiếu đất hoặc không
còn đất sản xuất, đời sống khó khăn.
- Không chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về
trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra
thông báo giải phóng mặt bằng mà không có quyết định thu hồi đất, không
thông báo trước về kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người có đất bị
thu hồi, cưỡng chế giải phóng mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái
định cư, quyết định thu hồi đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích trái quy hoạch đã được xét duyệt.
- Đối với một số dự án còn có tình trạng áp dụng pháp luật thiếu công bằng giữa những trường hợp có điều kiện tương tự.
- Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ việc quy
hoạch phát triển đô thị và các khu công nghiệp nhiều nơi chưa cân nhắc,
tính toán đồng bộ toàn diện dẫn đến trường hợp người dân bị thu hồi gần
hết hoặc hết đất sản xuất, được đền bù bằng tiền (không có đất khác để
giao), giá trị thấp, việc chuyển đổi nghề nghiệp là rất khó khăn do
trình độ hạn chế dẫn đến thất nghiệp, đời sống gặp nhiều khó khăn, phát
sinh các tệ nạn xã hội và phát sinh ra khiếu kiện. Điển hình như trường
hợp khiếu kiện đông người về dự án Cụm công nghiệp xã Lai Vu, huyện Kim
Thành, tỉnh Hải Dương: thu hồi trên 200ha chiếm 80% đất nông nghiệp của
toàn xã với tổng số trên 1.000 hộ dân tương ứng với 5.000 nhân khẩu
(trong độ tuổi lao động gần 2.600 người), hiện nay đất nông nghiệp của
toàn xã chỉ còn trên 20ha, nhưng bước đầu dự án mới thu hút được 100 lao
động đi đào tạo nghề và 35 lao động đi học nghề may, số còn lại người
dân chưa có công ăn việc làm, trong khi đó họ chỉ là những lao động
thuần nông.
Nguyên nhân sâu xa của những biểu hiện nêu trên là
chưa quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng về đất đai. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã
nêu rõ phải giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, nhà
đầu tư và người sử dụng đất, nơi tái định cư phải có điều kiện bằng
hoặc tốt hơn nơi ở cũ, nhưng trong thực tế triển khai đã chưa thể hiện
đúng và đầy đủ quan điểm đó.
d) Sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai
- Việc áp dụng pháp luật về đất đai của các địa
phương còn nhiều bất cập, nhất là trong việc thu hồi đất như đã nêu
trên. Sau khi có Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, nhiều địa phương chưa kịp thời ban hành đủ các văn bản quy phạm
pháp luật cụ thể hoá thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh để triển khai; nhiều
địa phương vẫn chưa nắm chắc những đổi mới, những quy định mới của pháp
luật về đất đai nên vẫn còn áp dụng những quy định cũ đã bị huỷ bỏ hoặc
thay thế, nhiều trường hợp áp dụng sai quy định. Những bất cập này đã
tạo nên những vụ việc khiếu kiện mới về đất đai.
- Việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà
nước trước đây ở một số nơi không nghiêm, chưa triệt để và chưa hợp lý,
đã dẫn đến tình trạng xáo canh, cào bằng. Những năm 1980, hợp tác xã
(HTX) và tập đoàn sản xuất (TĐSX) nông nghiệp được hình thành nhưng việc
quản lý các HTX, TĐSX đã có những yếu kém dẫn đến tan rã, nhưng Nhà
nước chưa có chính sách xử lý kịp thời, tình trạng tự phát lấy lại ruộng
đất và biện pháp giải quyết của các địa phương không thống nhất trong
việc phân bổ lại đất đai khi các HTX, TĐSX tan rã, đã dẫn đến nhiều
khiếu kiện.
- Công tác quản lý đất đai cũng còn nhiều bất cập, hồ
sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở
cho việc quản lý đất đai. Công tác quy hoạch sử dụng đất chậm, việc
chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi, cập nhật thường xuyên
dẫn đến việc tham mưu không đầy đủ, thiếu chính xác trong việc quy
hoạch, thu hồi đất và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất
đai.
- Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất chi tiết, dẫn tới tuỳ tiện trong giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Đa số các địa phương chưa đầu tư kinh phí thoả đáng
để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, bảo đảm quản lý chặt chẽ đối với
từng thửa đất. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm và
trong một số trường hợp không chính xác.
- Công tác kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm
đúng mức, trong đó công tác hậu kiểm đối với các dự án, công trình sau
khi được giao đất, cho thuê đất ít được các địa phương chú ý. Tình trạng
sử dụng đất không đúng mục đích, không đúng tiến độ, không đầu tư theo
dự án mà chỉ chờ chuyển nhượng kiếm chênh lệch giá đã ít được phát hiện
và xử lý kịp thời. Việc kiểm tra, thanh tra thực hiện chế độ công vụ và
xử lý những vi phạm của cán bộ, công chức trong công tác quản lý và sử
dụng đất đai chưa được đặt ra một cách cụ thể, tích cực.
- Nguyên nhân từ việc quản lý thiếu chặt chẽ, còn sai
sót của cơ quan nhà nước: đo đạc không chính xác diện tích, nhầm lẫn
địa danh, thu hồi đất không có quyết định, không làm đầy đủ các thủ tục
pháp lý, giao đất, cho thuê đất, đấu thầu đất, bồi thường giải toả và sử
dụng những khoản tiền thu được không công khai gây ngờ vực cho nhân
dân.
- Việc giao đất trái thẩm quyền, không đúng đối
tượng, giao sai diện tích, vị trí, sử dụng tiền thu từ đất sai quy định
của pháp luật hoặc người sử dụng đất đã làm đủ các nghĩa vụ theo quy
định nhưng không được hợp thức quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là những nguyên nhân tạo thành khiếu kiện đông người,
thành các đoàn khiếu kiện đến các cơ quan Trung ương
Sự yếu kém, bất cập trong công tác quản lý đất đai
cùng với một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có những hành vi vụ lợi
trong quản lý, sử dụng đất đai, nhũng nhiễu, thiếu công tâm là nguyên
nhân trực tiếp làm phát sinh những khiếu nại, tranh chấp về đất đai.
e) Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Trong tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, nhiều địa phương chưa làm tốt việc tiếp
dân, nhận đơn, chưa hướng dẫn cụ thể theo pháp luật về việc nộp đơn để
tình trạng người đi khiếu kiện đi hết nơi này đến nơi khác, một nội dung
đơn mà gửi đi rất nhiều cơ quan. Khi phát sinh khiếu kiện, đã không tập
trung chỉ đạo giải quyết kịp thời, thậm chí né tránh, đùn đẩy. Nhiều vụ
việc đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng việc tổ chức thi hành
quyết định không nghiêm, cơ quan ra quyết định thiếu kiểm tra, đôn đốc
kịp thời để giải quyết dứt điểm; một số vụ việc đã có kết luận hoặc
quyết định giải quyết nhưng không có tính khả thi trong tổ chức thi hành
dẫn tới phát sinh những khiếu kiện mới phức tạp hơn.
- Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức
thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để khiếu kiện kéo
dài, gây bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu kiện mới phức tạp
hơn. Một số địa phương sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
cuối cùng cho rằng đã hết trách nhiệm, nhiều trường hợp quyết định giải
quyết khiếu nại cuối cùng có sai sót không được sửa đổi, bổ sung do đó
gây tâm lý ngờ vực về chính quyền địa phương giải quyết không đúng chính
sách pháp luật và người dân tiếp tục khiếu nại.
- Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh
nhiều khiếu kiện, nhưng tổ chức và cơ chế giải quyết khiếu kiện thiếu ổn
định và nhìn chung bất cập so với yêu cầu thực tế. Giải quyết một vụ
khiếu nại đòi hỏi phải có các bước điều tra, nghiên cứu, kết luận và thi
hành kết luận (tương tự như một vụ án hành chính hoặc vụ án dân sự), do
đó cần một đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên
sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng công tác giải quyết khiếu nại hiện
nay chủ yếu là kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu nảy sinh ở cấp
huyện nhưng bộ máy thụ lý ở cấp này lại không tương ứng. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp là người chủ trì, chịu trách nhiệm chính về quyết định
giải quyết khiếu nại nhưng lại phải lo mọi việc của địa phương nên khó
có điều kiện chuyên tâm về việc này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng giải quyết khiếu nại chậm chạp, thiếu dứt điểm, chất lượng
thấp, tái khiếu nhiều.
- Trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo, nhiều nơi chưa nghiên cứu kỹ các quy định của pháp
luật, nên có những trường hợp áp dụng chưa phù hợp. Nhiều vụ việc tồn
đọng mà nếu giải quyết thì sẽ kéo theo nhiều trường hợp tương
tự khác cũng phải giải quyết, nhưng không giải quyết thì người
khiếu nại không chấp nhận. Nhiều trường hợp đã giải quyết theo
đúng quy định của pháp luật nhưng người dân vẫn tiếp khiếu.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về
đất đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý đất đai, Bộ Tài chính
quản lý chính sách tài chính về đất đai, Bộ Xây dựng quản lý về nhà ở.
Tại các tỉnh, việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân
dân trong việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
không thống nhất, có nơi giao cho Thanh tra tỉnh chủ trì, có nơi giao
cho Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì; ở cấp huyện có nơi giao cho
Thanh tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường, thậm
chí có nơi vừa giao cho Thanh tra vừa giao cho cơ quan Tài nguyên và Môi
trường. Tình trạng này đã gây khó khăn cho công dân và lúng túng trong
việc xác định thẩm quyền tham mưu giải quyết.
- Những tồn tại có tính lịch sử, như việc cho thuê,
cho mượn, cầm cố đất trong nội bộ nhân dân, việc đưa đất, lao động vào
các tập đoàn sản xuất, các nông, lâm trường, không có hoặc không lưu giữ
được các tài liệu, sổ sách khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu
hồi đất không có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã bồi thường nhưng
không lưu giữ hồ sơ, đã gây khó khăn rất lớn cho quá trình giải quyết
các vụ việc. Việc đầu tư cho công tác quản lý đất đai chưa được chú
trọng nên hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách, bản đồ, tư liệu thiếu.
Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt dẫn đến việc xác định nguồn
gốc, quá trình sử dụng đất gặp nhiều khó khăn.
- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu
nại, tố cáo thiếu đồng bộ. Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai có các
quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong
giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa cơ quan hành chính và toà án nhân
dân, giữa Bộ quản lý chuyên ngành và Thanh tra Chính phủ. Thẩm quyền
giải quyết giữa cơ quan hành chính và cơ quan toà án chưa cụ thể, rõ
ràng nên nhiều trường hợp người dân phải đi lại nhiều lần giữa Toà án
nhân dân và Ủy ban nhân dân nhưng vẫn không được tiếp nhận để giải
quyết.
- Văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng, phát triển kinh tế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần,
nhưng còn nhiều vấn đề chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, nhất là xác
định trường hợp được hoặc không được đền bù, xác định loại đất để đền
bù.
- Việc phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu nại về
đất đai giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và thống nhất,
còn đùn đẩy trách nhiệm, có nhiều vụ việc còn có ý kiến khác nhau làm
cho công dân tiếp khiếu dai dẳng. Một số địa phương trước những vấn đề
phức tạp đã không nghiên cứu kỹ chính sách, pháp luật và vận dụng cụ thể
vào tình hình thực tế để giải quyết mà dựa dẫm vào việc xin ý kiến giải
quyết của các cơ quan Trung ương.
- Một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy
định của pháp luật, lại bị kích động nên khiếu kiện gay gắt đối với
những trường hợp đã được giải quyết đúng pháp luật. Một số trường hợp
lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để kéo dài thời gian, không chấp hành
quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật. Nhiều trường hợp cố tình
gây rối, coi thường pháp luật và chống đối người thi hành công vụ nhưng
chưa được xử lý nghiêm minh. Trong khi đó, trên thực tế không có điểm
dừng về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
- Kỷ luật hành chính chưa nghiêm trong thực hiện ý
kiến chỉ đạo giải quyết của Thủ tướng Chính phủ, ý kiến kiến nghị giải
quyết của các Bộ, ngành ở Trung ương, làm người dân bất bình, tiếp khiếu
lên cơ quan cấp trên.
g) Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo
đức của một bộ phận cán bộ, công chức; sự thiếu hiểu biết và thiếu ý
thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân
Một số cán bộ vì lợi ích kinh tế, tranh thủ trong
thời gian đương chức đã cố tình vi phạm chính sách pháp luật đất đai để
trục lợi.
Việc áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp
còn có tình trạng tuỳ tiện, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Rất nhiều
điểm đổi mới của Luật Đất đai năm 2003 vẫn chưa đưa được vào thực tế vì
cán bộ quản lý ở nhiều nơi chưa biết, vẫn quyết định theo quy định của
pháp luật trước đây. Uỷ ban nhân dân các cấp chưa chăm lo nhiều đến công
tác tiếp dân, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của
công dân. Từ đây làm cho dân không tin vào bộ máy hành chính ở địa
phương, không tin vào quyết định hành chính của địa phương, luôn mong
muốn có sự phán quyết của Trung ương.
Đất đai là vấn đề phức tạp, các chính sách đất đai
liên tục thay đổi từ thời chiến sang thời bình, từ cơ chế bao cấp sang
cơ chế thị trường. Để giải quyết cần có một đội ngũ những người am hiểu
pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu, làm việc chuyên trách, có trách
nhiệm cao, biết làm một công bộc của dân.
Đất đai có giá trị đặc biệt, nhưng trong thời gian
dài đã quản lý lỏng lẻo, dẫn tới những sai phạm có tính phổ biến, trong
đó đáng lưu ý là một bộ phận cán bộ, công chức đã lợi dụng chức quyền để
chia chác đất đai hoặc trục lợi từ đất đai, để lại những hậu quả nặng
nề và gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội.
Tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra phổ biến, việc
chuyển nhượng trao tay trong nhân dân không tuân theo quy định của pháp
luật làm phát sinh các khiếu kiện khó giải quyết.
Nhận thức của người dân về chính sách, pháp luật đất
đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhìn chung còn nhiều hạn chế,
trong khi việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan có trách nhiệm
chưa tốt. Nhiều trường hợp người dân mặc dù hiểu rõ các quy định của
pháp luật, song cố tình không chấp hành những quyết định đã giải quyết
đúng pháp luật; một số trường hợp bị kích động hoặc lợi dụng việc khiếu
kiện để kích động khiếu nại đông người, gây sức ép đối với cơ quan Nhà
nước nhưng việc xử lý không nghiêm.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI – KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM.
1. Kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai trong thời gian qua.
Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chỉ thị số
09-CT/TW của Ban Bí thư, các ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó,
công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến
tích cực. Từ năm 2006 đến nay, các cơ quan hành chính Nhà nước đã tiếp
550.107 lượt người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có
1.447 lượt đoàn đông người; tiếp nhận 291.887 đơn thư; giải quyết
113,535/138.099 vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ
82,21%. Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Nhà
nước, cho tập thể, công dân 92.429 triệu đồng; 637,77 ha đất; xử lý hành
chính 1.150 người; chuyển cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự
46 vụ việc với 80 người. Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh công tác thanh
tra trách nhiệm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa
phương để chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời, chủ
động phối hợp với chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo. Qua đó, đã kiến nghị các cơ quan hành
chính nhà nước điều chỉnh nhiều cơ chế chính sách, pháp luật chưa phù
hợp, khắc phục, chấn chỉnh những bất cập trong quản lý nhà nước.
Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn
định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội
trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân
ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc
khiếu kiện vượt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi
khiếu nại, tố cáo, có những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được
pháp luật giải quyết công minh; nhưng cũng có một số người mặc dù về
việc khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng
pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết, hoặc vì cố chấp mà vẫn cố tình
khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu nại, tố cáo có thái độ
gay gắt, cực đoan, có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến trật tự xã
hội ở một số địa bàn.
a) Kết quả triển khai các đoàn giải quyết khiếu nại, tố cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường:
* Từ năm 2003 đến năm 2008
Để giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền và các vụ
việc do Thủ tướng Chính phủ giao nêu trên, Bộ đã tổ chức 62 đoàn công
tác để thẩm tra, xác minh tại 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
kết quả cụ thể:
- Có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ được 112 vụ
việc, còn 27 vụ việc đang được các đoàn công tác của Bộ thẩm tra, xác
minh tại địa phương.
- Có văn bản giải quyết đối với 961 vụ việc thuộc
thẩm quyền, còn 24 vụ việc đang được thẩm tra, xác minh tại địa phương
hoặc đang nghiên cứu hồ sơ để trả lời công dân.
Qua việc xem xét, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm
quyền và Thủ tướng Chính phủ giao thì trong các năm 2003 và 2004 số vụ
việc mà Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải điều chỉnh lại quyết định giải
quyết gần 20%, các năm còn lại tỷ lệ này đã giảm xuống còn hơn 1% (có
nguyên nhân từ số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ giảm).
Đối với các vụ việc vượt cấp và các vụ việc đã có
quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh,
Bộ đã có 11.974 văn bản hướng dẫn, trả lời công dân; đây là công đoạn
hiện chiếm nhiều nhân lực và thời gian nhất trong công tác xử lý đơn thư
tại Bộ.
* Kết quả giải quyết 6 tháng đầu năm 2009
- Đoàn công tác liên ngành giải quyết khiếu nại của
các hộ dân liên quan quan đến thu hồi đất, đền bù giải phòng mặt bằng
khi thực hiện dự án Khu công nghiệp Tân Phú Trung, thành phố Hồ Chí Minh
do Thủ tướng Chính phủ giao. Đoàn đã kết thúc và hoàn thiện văn bản báo
cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Đoàn công tác giải quyết khiếu nại do Thủ tướng
Chính phủ giao tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Sóc Trăng. Đoàn
đang tiếp tục làm việc theo kế hoạch.
- Triển khai Đoàn công thẩm tra xác minh đơn khiếu
nại, tố cáo của công dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ. Đoàn đã kết thúc và hoàn chỉnh báo cáo, kết luận
trình Thủ tướng Chính phủ.
- Kết thúc và hoàn chỉnh báo cáo Đoàn công tác thẩm
tra, xác minh và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân tại tỉnh
Phú Thọ.
- Đoàn kiểm tra khiếu nại của Công ty TNHH Sông Lô Hà
Giang theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay Đoàn đã kết thúc
và đang xây dựng dự thảo Báo cáo kết luận kiểm tra để Bộ trình Thủ tướng
Chính phủ.
* Kết quả thực hiện Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02 tháng 2009 của Thanh tra Chính phủ
Thực hiện Thông báo số 89/TB-VPCP ngày 19 tháng 3 năm
2009 của Văn phòng Chính phủ, Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02
năm 2009 của Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực
hiện các biện pháp:
+ Tiến hành tự rà soát các vụ việc thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm giải quyết còn tồn đọng, kéo dài chưa dứt điểm tại Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
+ Ban hành Văn bản số 1521/BTNMT-TTr ngày 12 tháng 5
năm 2009 đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương rà soát, tổng hợp, báo cáo tình hình đơn thư tranh chấp, khiếu nại
về đất đai (từ năm 2003 đến nay).
+ Triển khai các đoàn công tác để phối hợp với địa
phương giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, kéo dài. Hiện nay, Bộ
Tài nguyên và Môi trường đã cử Đoàn công tác để giải quyết 16 vụ việc
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đến nay tại Bộ Tài nguyên và Môi trường có 118 vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai tồn đọng, bức xúc, kéo dài, cụ thể:
+ Các trường hợp cần chấm dứt việc xem xét, giải
quyết: Gồm có 09 vụ việc đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét,
giải quyết đúng chính sách, pháp luật và đã được rà soát nhiều lần không
có tình tiết mới khác nhưng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại.
+ Các vụ việc cần kiểm tra, đôn đốc giải quyết: Gồm
có 53 vụ việc sau khi Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo hoặc Bộ Tài
nguyên và Môi trường có văn bản đề nghị giải quyết nhưng địa phương chưa
giải quyết dứt điểm.
+ Các vụ việc cần phối hợp với địa phương để tiếp tục
xem xét, giải quyết: Gồm có 41 vụ việc đã được địa phương giải quyết
theo nội dung đã thống nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng công
dẫn vẫn tiếp tục khiếu nại hoặc những vụ việc đã thống nhất giải quyết
nhưng trong quá trình thực hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố báo cáo
có khó khăn, vướng mắc, đề xuất khác.
+ Các vụ việc phải giải quyết trong thời gian tới: Gồm có 15 vụ việc do Thủ tướng Chính phủ giao và thuộc thẩm quyền của Bộ.
b) Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của các Sở Tài nguyên và Môi trường:
Đến ngày 29 tháng 6 năm 2009, theo tổng hợp của Bộ
Tài nguyên và Môi trường đã nhận được báo cáo sơ kết công tác thanh tra,
kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo 6 tháng đầu năm 2009 của 55/63
Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
kết quả tổng hợp như sau:
+ Trong 6 tháng đầu năm 2009 các Sở Tài nguyên và Môi
trường đã triển khai tổng cộng 480 Đoàn thanh tra, kiểm tra đối với
1.751 đơn vị, trong đó:
- 213 Đoàn theo Kế hoạch
- 267 Đoàn đột xuất.
Riêng đối với lĩnh vực đất đai: 166 Đoàn chiếm 34,6%.
Các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh cũng đã tiến hành thu hồi đất
đai của 40 đơn vị với diện tích là 241,2 ha.
c) Đánh giá kết quả thực hiện
- Phần lớn các vụ khiếu nại thuộc lĩnh vực đất đai,
có vụ việc trải qua nhiều thời kỳ thực hiện chính sách đất đai, hồ sơ
tài liệu phân tán, hiện trạng đất thay đổi nên khó xác định nguồn gốc;
trong khi đó hệ thống pháp luật chưa đồng bộ dẫn đến việc áp dụng thiếu
nhất quán. Biên chế lực lượng làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
có hạn nên không thể giải quyết tất cả các vụ việc theo thời hạn luật
định, do đó vẫn còn những vụ việc tồn đọng, kéo dài.
- Một số nơi giải quyết khiếu nại lần đầu chưa bảo
đảm về trình tự thủ tục. Các biện pháp chế tài để triển khai thực hiện
các kết luận, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa đủ mạnh, làm cho
kết luận, quyết định giải quyết chưa được thực hiện nghiêm.
- Công tác thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại
tố cáo đôi khi còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Một số vụ việc giải
quyết còn đơn giản, chủ quan, thiếu thực tế; vận dụng pháp luật trong
giải quyết khiếu nại tố cáo đôi lúc chưa thống nhất.
- Việc tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật nói
chung, luật khiếu nại, tố cáo nói riêng trên các phương tiện thông tin
đại chúng, trong cộng đồng dân cư chưa thường xuyên nên nhận thức của
một bộ phận nhân dân về pháp luật còn mơ hồ, cũng dẫn đến phát sinh các
khiếu kiện.
* Những mặt được
- Nhiều địa phương đã đặt công tác giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác
quản lý đất đai; một số địa phương đã đổi mới công tác tiếp công dân,
kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp
công dân và giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
- Việc đùn đẩy trách nhiệm giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo đã giảm. Kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo đã góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội tại
địa phương.
* Những tồn tại trong giải quyết khiếu nại tố cáo và tranh chấp về đất đai:
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền tỉnh, hệ thống các cơ quan Thanh
tra trên toàn quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, tranh chấp về đất đai của công dân, giải quyết được khối lượng
lớn đơn thư khiếu tố của công dân, góp phần ổn định tình hình chính trị,
giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tuy vậy, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn những hạn chế:
- Về lãnh đạo, chỉ đạo:
Cấp uỷ, chính quyền đôi lúc còn coi nhẹ công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chưa huy động được vai trò của
các tổ chức quần chúng, chưa phát hiện giải quyết kịp thời, có nơi có
biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm, thiếu thống nhất, tập trung, chú trọng
vào vấn đề phát triển kinh tế của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến
vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề thu hồi đất như: tái định cư, đời
sống, việc làm, nghề nghiệp…
Việc thực hiện không đúng các quy định của chính sách
pháp luật về đất đai và giải quyết chưa phù hợp với chính sách pháp
luật các tranh chấp, khiếu nại về đất đai thời gian qua vẫn còn chiếm số
lượng nhiều ở các cấp là 54%, cấp tỉnh giải quyết chưa phù hợp với
chính sách pháp luật khoảng 20%. Các quyết định giải quyết đã có hiệu
lực pháp luật nhưng chậm được thi hành.
Công tác hòa giải ở cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng
mức, nhiều địa phương không bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất,
kinh nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải đạt hiệu quả chưa
cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai còn yếu kém về năng lực.
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
đất đai còn mang nặng về mệnh lệnh hành chính, nhiều quyết định giải
quyết chưa thấu tình đạt lý.
Việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết đã có
hiệu lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không được giải
quyết dứt điểm, khiếu kiện kéo dài
Hình thức văn bản giải quyết một số vụ việc chưa bảo
đảm theo quy định của pháp luật như việc ban hành công văn, thông báo…
để thay thế quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai.
- Về phân công trách nhiệm quản lý và tham mưu giải quyết:
Lực lượng trực tiếp giúp cấp có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa được phân công nhiệm vụ
rành mạch. Việc phân công thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân
dân các cấp giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về đất đai cũng không
thống nhất: ở cấp tỉnh có vụ việc giao cho Thanh tra tỉnh, có vụ việc
giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường; ở cấp huyện có nơi giao cho Thanh
tra huyện, có nơi giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường.
Hiện nay, việc thẩm tra, xác minh kết luận, kiến nghị
việc giải quyết các khiếu nại về đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp không giao cho ngành Tài nguyên và
Môi trường.
Tình trạng nêu trên đã tăng thêm khó khăn trong việc
giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai của công dân và lúng túng
trong việc xác định thẩm quyền tham mưu giải quyết.
- Về công tác quản lý đất đai:
Những tồn tại do lịch sử để lại như trưng dụng, trưng
thu, trưng mua, thu hồi đất chưa có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã
bồi thường nhưng không còn lưu hồ sơ chứng cứ. Công tác kiểm kê trước
khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất không được thực hiện
hoặc được thực hiện thì cũng sơ sài, không còn lưu sổ sách.
Việc thực hiện không triệt để các quy định của pháp
luật đất đai ở các cấp làm cho hồ sơ địa chính không đồng bộ, sổ sách,
bản đồ, tư liệu thiếu; trước đây, việc ban hành các văn bản về quy hoạch
đất đai chậm, thiếu các văn bản về hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, xử lý
vi phạm dẫn đến công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp về đất đai gặp nhiều khó khăn.
Công tác lưu trữ tư liệu địa chính chưa tốt nên việc tra cứu gặp nhiều khó khăn.
Công tác quản lý đất đai ở một số nơi chưa được quan
tâm đúng mức, đối với cấp huyện, xã là nơi trực tiếp với người dân thì
trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế, cơ cấu, tổ chức hay bị thay đổi.
- Về chính sách, pháp luật:
+ Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998
của Chính phủ quy định về việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để
phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, khi thực hiện đã gặp nhiều
khó khăn như:
Điều 6 quy định điều kiện được đền bù về đất, Điều 7
quy định người không được đền bù thiệt hại về đất. Việc liệt kê các
trường hợp được đền bù tại Điều 6 chưa đầy đủ và việc quy định thế nào
là sử dụng ổn định chưa rõ ràng cho nên dẫn đến tình trạng cơ quan nhà
nước thì áp dụng Điều 7 để giải quyết (chỉ hỗ trợ, không đền bù) còn
người dân thì theo Điều 6 để đòi được đền bù.
Việc quy định đền bù thiệt hại đối với đất ở thuộc
khu vực nông thôn quy định: “người bị thu hồi đất được đền bù bằng đất
có cùng mục đích sử dụng, trường hợp không có đất để đền bù thì đền bù
bằng tiền”. Thực tế nhiều nơi quỹ đất công ích không có, do vậy các địa
phương không giao đất khác mà đền bù bằng tiền, khung giá của Nhà nước
thấp hơn so với thực tế, vì vậy mà người dân không đủ điều kiện để tái
tạo lại cuộc sống. Nhiều nơi quy hoạch khu tái định cư thu hồi đất, sau
đó đầu tư cơ sở hạ tầng bán với giá cao, nhiều người không đủ tiền mua
lại nhà hoặc nền nhà.
+ Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 quy định quyết định
giải quyết khiếu nại cuối cùng là quyết định có hiệu lực thi hành và
người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp (nhưng lại quy định Thủ
tướng Chính phủ có thẩm quyền xem xét lại khi có vi phạm pháp luật).
Nghị định số 67/1999/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo quy
định quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng được xem xét lại trong
hoạt động kiểm tra, thanh tra thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Nghị
định số 62/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
67/1999/NĐ-CP, đến Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 2005
thay thế Nghị định số 67/1999/NĐ-CP và Nghị định số 62/2002/NĐ-CP quy
định việc xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng mở rộng
hơn. Như vậy, từ quy định khi có quyết định giải quyết khiếu nại cuối
cùng người khiếu nại không được quyền khiếu nại, đến việc khi có quyết
định giải quyết khiếu nại cuối cùng người khiếu nại vẫn được quyền khiếu
nại dẫn đến việc tuy đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng
nhưng người dân vẫn tiếp khiếu vì không thoả mãn, yêu cầu với hy vọng
được tiếp tục xem xét giải quyết, tạo nên tình trạng khiếu nại “không có
điểm dừng”. Các cơ quan đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
cuối cùng cũng không dám tổ chức thi hành. Thực tế hàng năm các cơ quan ở
Trung ương nhận được hàng nghìn lượt đơn đã có quyết định giải quyết
khiếu nại cuối cùng. Riêng Bộ Tài nguyên và Môi trường số đơn có quyết
định giải quyết khiếu nại cuối cùng chiếm đến 2/3 số đơn khiếu tố nhận
được.
+ Việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay có hai con đường: một là cơ quan
hành chính giải quyết, hai là Toà án (Toà Dân sự hoặc Toà Hành chính),
tuy nhiên về bản chất đều phải xem xét về quyền sử dụng đất, nhưng việc
áp dụng pháp luật để giải quyết cũng có khác nhau trong việc giải quyết
cùng một vụ việc giữa cơ quan hành chính và Toà án (Công văn số
169/2002/KHXX ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn Toà án nhân dân các cấp về đường lối giải quyết các khiếu
kiện, tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng). Việc hướng
dẫn thẩm quyền giải quyết giữa cơ quan hành chính và Toà án còn chưa cụ
thể, chưa rõ ràng dẫn đến tình trạng đùn đẩy giải quyết giữa Toà án và
cơ quan hành chính.
- Về phía người đi khiếu kiện:
+ Nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai mặc dù các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương đã nỗ lực cố
gắng vận dụng chính sách giải quyết có lý, có tình, phù hợp với tình
hình thực tế và đúng với quy định của pháp luật, đã được đối thoại trực
tiếp nhiều lần nhưng do nhiều động cơ khác nhau người khiếu nại vẫn cố
tình đeo bám, khiếu kiện và làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn.
+ Một số đối tượng đi khiếu nại có hành vi vượt quá
giới hạn, vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo đã có hành
vi quá khích gây mất trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng đến công tác
và hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước và tình trạng người
khiếu nại gửi đơn tràn lan, vượt cấp đến nơi không có thẩm quyền giải
quyết vẫn diễn ra phổ biến.
2. Một số kinh nghiệm rút ra từ việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai thời gian qua.
2.1. Kinh nghiệm chung
a) Tập trung xử lý số đơn thư tồn đọng
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại
Thông báo số 89/TB-VPCP ngày 19 tháng 3 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ
và Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20 tháng 02 năm 2009 của Thanh tra
Chính phủ về rà soát các vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai tồn đọng,
bức xúc, kéo dài, các cơ quan giải quyết khiếu nại về đất đai cần:
- Cơ quan Thanh tra và cơ quan Tài nguyên và Môi
trường ở từng cấp phối hợp rà soát các đơn thư hiện có, tập trung giải
quyết dứt điểm những đơn thư chưa giải quyết và những đơn thư đã giải
quyết nhưng chưa phù hợp với pháp luật và tình hình thực tế. Bảo đảm
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, nhất là về thẩm quyền và thời hạn giải quyết. Khắc phục có hiệu quả
tình trạng cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết nhưng đã
không giải quyết, dẫn tới khiếu nại vượt cấp. Những cơ quan, địa phương
có nhiều đơn, thư tồn đọng hoặc có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo cần
được xem xét, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
- Đối với đơn thư thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án, kể cả khiếu nại về bản án, đề nghị Toà án giải quyết dứt điểm theo
quy định. Sớm ban hành Thông tư liên tịch giữa Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tài nguyên và Môi trường về giải
quyết tranh chấp đất đai nhằm phân định rõ ranh giới giải quyết giữa hệ
thống hành chính và hệ thống toà án, quy định trình tự, thủ tục khi
người khiếu nại, tố cáo chuyển thủ tục của mình từ hệ thống hành chính
sang hệ thống toà án (Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chuẩn bị dự thảo từ
lâu nhưng các cơ quan có liên quan chậm có ý kiến cuối cùng để ký ban
hành).
- Những đơn thư đã được các cơ quan hành chính hoặc
tòa án giải quyết đúng pháp luật và đã vận dụng pháp luật phù hợp với
thực tế mà người khiếu nại vẫn không đồng ý thì tổ chức đối thoại để
thuyết phục người khiếu nại chấp hành. Trường hợp người khiếu nại vẫn cố
tình không chấp hành và có hành động kích động, gây rối thì cần áp dụng
các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
b) Hạn chế phát sinh đơn thư mới
Hạn chế phát sinh đơn thư mới phải được đặt thành một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý đất
đai. Nhiệm vụ này có liên quan chặt chẽ đến việc tổ chức thi hành và
chấp hành pháp luật đất đai. Các địa phương tăng cường hơn nữa sự lãnh
đạo, chỉ đạo công tác quản lý và sử dụng đất đai, thường xuyên kiểm tra,
thanh tra, phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, xử lý nghiêm, kịp thời,
đúng pháp luật các trường hợp vi phạm; tập trung kiểm tra, thanh tra,
chấn chỉnh vào các công việc sau:
- Việc thực hiện các quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án;
- Việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Việc sử dụng đất của các dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
- Việc thi hành chế độ công vụ của cán bộ, công chức,
nhất là những người có thẩm quyền và trách nhiệm trực tiếp giải quyết
các thủ tục hành chính về đất đai.
c) Đổi mới tổ chức, cơ chế giải quyết khiếu nại
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Bộ Chính trị
tại Công văn số 5077-CV/VPTW ngày 22 tháng 5 năm 2008 và của Thủ tướng
Chính phủ tại Văn bản số 5748/VPCP-KNTC ngày 01 tháng 9 năm 2008, Thanh
tra Chính phủ đang phối hợp với các bộ, ngành xây dựng mô hình thí điểm
cơ quan tài phán hành chính trong lĩnh vực đất đai lồng ghép trong Đề án
tài phán hành chính. Đề án này có mục đích đổi mới cơ chế giải quyết
khiếu nại hành chính bằng tài phán hành chính nói chung và trong giải
quyết khiếu nại về đất đai nói riêng.
d) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử
Sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố bảo đảm thắng
lợi trong mọi lĩnh vực công tác. Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo đang là khâu yếu, bức xúc, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ
đạo sâu sát, quyết liệt và có hiệu quả của các cấp uỷ đảng.
Mặt khác, đề nghị Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
tăng cường giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai và pháp luật về
khiếu nại, tố cáo, bảo đảm pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu
nại, tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh.
e) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra
Các cơ quan Thanh tra về Tài nguyên và Môi trường cần
tập trung thanh tra trách nhiệm quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi
trường tại các địa phương nhằm phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, xử
lý nghiêm, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm.
2.2. Kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long
Người dân ở đây chủ yếu sống bằng canh tác nông, lâm,
ngư nghiệp nên đất đai không những vừa là tư liệu sản xuất chính mà còn
là tài sản có giá trị nhất của họ.
Những năm gần đây, trước áp lực tăng trưởng kinh tế
của vùng và chỉ tiêu phần trăm tăng trưởng kinh tế hàng năm của từng địa
phương, buộc các địa phương phải đưa ra các chiến lược chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong cơ cấu
tổng sản phẩm của từng địa phương. Các chính sách thu hút đầu tư mở
rộng các khu công nghiệp, khu kinh tế, các dự án sản xuất nuôi trồng
thủy sản, lâm sản được các địa phương đặc biệt quan tâm. Đi liền với sự
phát triển này, thì thách thức đặt ra đối với các địa phương là việc thu
hồi đất, đền bù, giải toả, hỗ trợ tái định cư… Đây cũng là một trong
những lĩnh vực có tỷ lệ đơn khiếu nại cao hiện nay đối với các địa
phương trong khu vực nói chung và Đồng Tháp nói riêng.
Nhìn lại những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,
tình hình tranh chấp, khiếu kiện diễn biến rất phức tạp nhất là ở lĩnh
vực đất đai; công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện còn nhiều bất
cập, tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm còn xảy ra ở nơi này, nơi
khác, nhiều đơn thư để tồn đọng quá hạn, một số Quyết định giải quyết
tranh chấp đã có hiệu lực pháp luật từ nhiều năm nhưng chưa được thi
hành; kết quả giải quyết chỉ đạt 60 – 70%. Đến khi có Nghị định số 89/CP
ngày 07/8/1997 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế tổ chức tiếp công
dân và Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, tình hình tranh chấp, khiếu
kiện có phần giảm về mặt số lượng nhưng về tính chất và mức độ vẫn còn
gay gắt, phức tạp; kết quả giải quyết có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lượng
đơn thư tồn đọng vẫn còn ở mức cao, tình trạng khiếu kiện đông người,
vượt cấp đến các cơ quan Trung ương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và nhà riêng của
các đồng chí lãnh đạo tuy có giảm, song vẫn còn xảy ra; kỷ cương, kỷ
luật hành chính trong công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện đôi khi
chưa nghiêm, có nơi, có lúc còn buông lỏng.
Năm 2008, tình hình khiếu nại về đất đai ở các tỉnh
Nam bộ diễn ra khá gay gắt, tình trạng khiếu nại vượt cấp kéo đông người
về các cơ quan Trung ương khá phổ biến ở nhiều địa phương trong khu
vực. Trong đó chủ yếu là khiếu nại đòi lại đất trước đây đưa vào các tập
đoàn, hợp tác xã; đất có nguồn gốc chưa đảm bảo tính pháp lý (đã được
cấp nhưng chưa làm đầy đủ các thủ tục theo quy định) nay thu hồi lại;
khiếu nại giá đất, loại đất, bồi thường, tái định cư chưa thoả đáng khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng… Riêng ở Đồng Tháp thời gian qua cũng
phát sinh một số vụ việc khiếu nại bức xúc phức tạp, đông người, kéo
dài, điển hình như: vụ tranh chấp đất tràm ở vườn Quốc gia Tràm Chim,
huyện Tam Nông; vụ tranh chấp đất tràm ở nông trường Gáo Giồng, huyện
Cao Lãnh, vụ tranh chấp ở Cồn Tân Long, huyện Thanh Bình, vụ tranh chấp ở
Khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước, huyện Hồng Ngự…
Nguyên nhân chính của việc khiếu kiện, tái khiếu,
khiếu tố vượt cấp, đông người là do các địa phương khi thu hồi đất chỉ
chú trọng đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi hỗ trợ một
phần để đào tạo, chuyển đổi việc làm cho người bị thu hồi đất, chứ chưa
quan tâm đầy đủ đến các chính sách chăm lo đời sống cho người dân sau
khi bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, do vai trò trách nhiệm Thủ trưởng các
cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết
tranh chấp, khiếu kiện có những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu
cầu; việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai nhất là ở cơ
sở còn nhiều thiếu sót, bất cập; các yếu kém về tổ chức bộ máy, năng lực
cán bộ, công chức, quan điểm vận dụng pháp luật còn máy móc, thiếu thực
tiễn; giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện đôi khi không kịp thời,
chưa chú trọng đến quyền lợi chính đáng của người dân, gây bức xúc cho
nhân dân dẫn đến khiếu kiện. Thủ tục hành chính còn rườm rà, chồng chéo,
bất cập, thiếu đồng bộ, vấn đề xung đột thẩm quyền đối với những tranh
chấp khiếu kiện về đất đai đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trước 15/10/1993…Ngoài ra do công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật còn nhiều hạn chế. Do vậy, nhận thức và hiểu biết pháp luật
của công dân về quan hệ sở hữu đất đai còn sai lệch nên dễ bị kích động,
lôi kéo, xúi giục khiếu kiện.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Tháp
đã ban hành Chỉ thị số 03 CT/TU ngày 08/3/2001 về việc tăng cường giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đồng thời tổ chức quán triệt và
thực hiện một số văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo. UBND tỉnh cũng ban hành các Chỉ thị nhằm chấn chỉnh
và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và các văn bản
quy phạm pháp luật khác làm cơ sở để giải quyết các khiếu nại về đất
đai (như khung giá đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…)
Từ việc tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ đạo nói
trên, vai trò trách nhiệm của Thủ trưởng các ngành, các cấp và ý thức
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo đã được nâng lên, giải quyết kịp thời các khiếu kiện phát
sinh trong thời gian luật định, nhất là đối với các vụ khiếu kiện bức
xúc, phức tạp, đông người, kéo dài. Các cơ quan, tổ chức ngày càng xác
định rõ hơn trách nhiệm của mình thể hiện qua việc xây dựng quy chế, quy
ước phối hợp giải quyết tranh chấp, khiếu kiện theo thẩm quyền. Công
tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được tăng cường, xác định
kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thành nhiệm vụ. Đến nay công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cơ bản đã
đi vào nề nếp, tỷ lệ giải quyết hàng năm luôn đạt trên 80%, số đơn tồn
đọng cũng giảm đến mức thấp nhất, từ đó đã góp phần ổn định tình hình an
ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, góp phần
thúc đẩy kinh tế địa phương ngày càng phát triển.
Từ thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại ở Đồng
Tháp trong thời gian qua, có thể nêu lên một số kinh nghiệm trong giải
quyết khiếu nại đông người như sau:
- Khi có khiếu kiện đông người lên Trung ương thì Chủ
tịch UBND các địa phương phải trực tiếp chỉ đạo, nếu vì lý do bất khả
kháng thì cần bố trí người có trách nhiệm để trực tiếp đối thoại với
công dân, trong các trường hợp cần thiết thì phối hợp với cơ quan có
thẩm quyền sở tại có biện pháp hành chính để buộc công dân phải chấp
hành và trở về địa phương, chấm dứt tình trạng phó mặc cho các cơ quan
Trung ương và trụ sở tiếp công dân. Việc giải quyết khiếu nại phải đảm
bảo trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Đối với các vụ việc còn tồn đọng, hiện đang khiếu vượt cấp,
đông người, Uỷ ban nhân dân các địa phương phải nhanh chóng tổ chức
thống kê lại trên cơ sở đó phối hợp với các ngành của tỉnh, với các bộ,
ngành chức năng của Trung ương đề ra biện pháp giải quyết tổng thể phù
hợp với thực tế tại địa phương mình kể cả các biện pháp cần sự hỗ trợ
của Chính phủ thì trình Chính phủ có ý kiến cho phép địa phương thực
hiện (như tạo quỹ đất, điều tiết đất của các nông lâm trường, đất đang
sử dụng không hiệu quả, đất cấp, cho thuê, cho mượn có nguồn gốc không
hợp pháp…v.v). Trong quá trình giải quyết nếu có khó khăn thì phối hợp
với các bộ, ngành Trung ương thống nhất biện pháp giải quyết để công dân
chấm dứt khiếu kiện.
- Các địa phương phải công khai, nhất quán các quy
hoạch, tránh mâu thuẫn giữa các quy hoạch tổng thể, quy hoạch xây dựng,
quy hoạch sử dụng. Bên cạnh đó, phải quy định rõ quyền lợi người dân
sống trong vùng quy hoạch nhưng chưa thực hiện quy hoạch để người dân
yên tâm. Trong thực tế nhiều công dân vừa qua trong diện này khiếu nại
vì không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lo lắng không được
bồi thường, không được tái định cư… Có chính sách ưu đãi hơn đối với
những hộ dân bị thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, vận dụng linh hoạt các chính sách
về giá, hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ tạo công ăn việc làm để các hộ dân an
tâm ổn định đời sống. Khuyến khích nhà đầu tư đào tạo nghề, thu hút lao
động, ưu tiên cho những người lao động bị thu hồi đất. Đối với các dự
án phát triển kinh tế, nên có tổ chức tư vấn cho người dân trong đàm
phán với các nhà đầu tư, về giá trị tài sản giao dịch, nên khuyến khích
các nhà đầu tư thoả thuận cho người dân góp vốn cổ phần đối với tài sản,
đất đai (hoặc thuê) để người dân được trực tiếp tham gia vào dự án. Như
vậy, Nhà nước vừa giảm được chi phí đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho
người dân, vừa giúp người dân sử dụng nguồn vốn của mình có hiệu quả và
cộng đồng trách nhiệm với các nhà đầu tư, xoá bỏ phân biệt đối xử và
rút ngắn chênh lệch giàu nghèo và ổn định đời sống cho người dân bị thu
hồi đất.
- Hàng năm, các địa phương cần ban hành quyết định
quy định giá đất tại địa phương sát đúng với giá thị trường để người dân
thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế sử dụng đất. Trước đấy chúng ta
thường có chính sách nhẹ thu đối với người dân nên khi định giá đất để
thu thuế sử dụng đất không sát đúng, thường thấp hơn giá trị thực tế, do
vậy nhà nước không những bị thất thu về thuế, mà người dân bị thu hồi
đất lại khiếu nại về việc giá đền bù thấp, không đúng giá thực tế gây
khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng giao đất cho các dự án.
Có thể thấy, các vụ khiếu kiện đông người xẩy ra
trong thực tế của các địa phương thường gặp là các khiếu kiện liên quan
đến vấn đề quy hoạch, đền bù, giải toả khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ
cho các công trình công cộng, lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng v.v.
Tuy nhiên, không phải vụ khiếu kiện đông người nào các cá nhân trong
đoàn khiếu kiện cũng đồng nhất về những đòi hỏi phải được giải quyết,
hoặc quyền lợi mà họ được thụ hưởng do việc giải quyết của các cơ quan
có thẩm quyền đem lại. Bởi khi có phương án thu hồi đất của Nhà nước thì
các cá nhân có đất bị thu hồi trong phạm vi dự án không có cùng diện
tích, loại đất, hạng đất giống nhau, tài sản trên đất cũng khác nhau,
nên quyền lợi của họ khi được bồi thường sẽ khác nhau. Việc liên kết với
nhau để khiếu kiện đông người khi việc đền bù của Nhà nước không thoả
mãn đòi hỏi của họ là nhằm gây áp lực với các cơ quan chức năng, và
chính quyền địa phương để được sớm giải quyết, mối liên kết này chỉ mang
tính nhất thời. Trong số này có người đòi hỏi về giá, có người yêu cầu
chính sách tái định cư, có người yêu cầu về đo đếm số lượng tài sản trên
đất, loại đất .v.v. Do vậy, việc giải quyết các khiếu kiện đông người
không nên thực hiện theo hình thức yêu cầu cử người đại diện của đoàn
khiếu kiện đông người tiếp xúc và làm việc với các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết như trước đây nhiều địa phương đã thực hiện. Bởi vì, trên
thực tế quyền lợi và sự đòi hỏi giải quyết của các thành viên trong đoàn
khiếu kiện là khác nhau, không loại trừ lý do người đại diện lúc nào
cũng đặt lợi ích của họ lên trên tất cả trong quá trình thương thuyết
giải quyết vụ việc. Nên mặc dù các cơ quan có thẩm quyền giải quyết có
thể thương lượng được đối với người đại diện ở một mức độ nào đó nhưng
khi tập thể đoàn khiếu kiện không thống nhất thì lại phải thương lượng
lại từ đầu. Làm như vậy vừa mất thời gian lại không giải quyết được hết
các yêu cầu khiếu nại, vì một số người không trực tiếp đề đạt được yêu
cầu của họ, nên càng bức xúc gây mất trật tự, thậm chí quá khích gây
rối, làm cho khiếu kiện có thể trở thành “điểm nóng”… Do đó, mọi khiếu
kiện đều phải được giải quyết theo các quy định của pháp luật, với cách
thức và biện pháp thích hợp. Vấn đề ở đây là việc các cán bộ trực tiếp
thụ lý giải quyết phải vận dụng linh hoạt phương pháp giải quyết thích
hợp với từng loại đối tượng khiếu kiện và nội dung khiếu kiện. Ngay khi
có vụ việc khiếu kiện đông người phát sinh, các cơ quan chức năng, có
thẩm quyền nhanh chóng phối hợp với chính quyền địa phương nơi xẩy ra
khiếu kiện đông người tiến hành tiếp xúc với từng cá nhân và yêu cầu họ
thực hiện đơn khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật để thụ lý
giải quyết thành vụ việc riêng lẻ. Khi cán bộ thụ lý đã tiếp nhận đơn
khiếu nại của từng thành viên trong đoàn kiếu kiện, thì họ sẽ yên tâm
chờ được xem xét, giải quyết. Sau khi tiếp xúc, phân tích nội dung yêu
cầu trong các khiếu nại của từng thành viên trong đoàn khiếu kiện đông
người, cán bộ thụ lý phân loại các khiếu nại có cùng nội dung thành từng
nhóm để tiến hành tiếp xúc, xác minh, từng trường hợp cụ thể đối chiếu
với các văn bản quy định của Nhà nước để đề xuất giải quyết đúng chính
sách, pháp luật nhằm chấm dứt khiếu kiện. Người giải quyết khiếu kiện
phải làm tốt công tác tiếp xúc để công tác giải quyết được thuận lợi,
đạt hiệu quả cao, hạn chế khiếu kiện tiếp theo. Việc giải quyết của các
cơ quan chức năng, của các cấp chính quyền phải đảm bảo tính thống nhất
trong việc áp dụng các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp luật làm
căn cứ giải quyết. Không nên vận dụng để giải quyết một vài trường hợp
cá biệt gây bất bình trong đám đông và làm phát sinh những khiếu kiện
khác đối với các trường hợp đã giải quyết trước đó.
Ngoài ra, để hạn chế khiếu nại kéo dài, phức tạp,
vượt cấp, đông người chúng ta cũng cần phải thực hiện nghiêm túc các yêu
cầu sau:
Một là, phải tăng cường công tác tiếp dân, đối
thoại với công dân để khi giải quyết đảm bảo chính xác, khách quan có
tình, có lý và có tính thuyết phục cao. Đối với những trường hợp đã giải
quyết thoả đáng, đúng chính sách, đúng pháp luật, thì các cơ quan chức
năng, có thẩm quyền phải phối hợp với các cơ quan, đoàn thể và nhân dân
địa phương giải thích, động viên, thuyết phục họ thực hiện và chấm dứt
khiếu nại. Đối với những người có vai trò chủ chốt trong các đoàn khiếu
kiện đông người nếu cố tình lợi dụng khiếu nại để kích động, lôi kéo
khiếu nại trái pháp luật thì phải kiên quyết xử lý theo quy định.
Hai là, phải nắm chắc tình hình tranh chấp,
khiếu kiện trong phạm vi quản lý của ngành, địa phương mình để kịp thời
giải quyết, nhất là những vụ khiếu kiện đông người; việc giải quyết phải
được thực hiện ngay từ cơ sở, hạn chế khiếu nại vượt cấp; không để vụ
việc diễn biến phức tạp trở thành khiếu kiện đông người.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối
với thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc chấp hành pháp luật về
khiếu nại, tố cáo. Kiên quyết xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền thiếu trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân và những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích
động, lôi kéo gây rối làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho công
dân để họ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật;
hạn chế khiếu kiện không đúng cơ quan thẩm quyền giải quyết khiếu kiện
đông người, vượt cấp trái với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo nhằm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Phần thứ hai
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
I. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1. Chủ trương, chính sách của Đảng về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được
quy định trong Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và
lợi ích của mình khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh
việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực
hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà
còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông qua
giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn,
sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó
có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu
quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp
phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức
và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc hơn trong giải quyết khiếu nại,
tố cáo, Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Luật
này đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005. Để phát huy và nâng
cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống
chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/TW
ngày 6-3-2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.
Tranh chấp, khiếu kiện đất đai đang là một thách thức
đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm,
có hiệu quả vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì sự
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cả nước và ở từng địa
phương. Muốn vậy việc tìm hiểu nhận dạng các nguyên nhân phát sinh
(trong đó có những nguyên nhân có tính lịch sử) tranh chấp, khiếu kiện
đất đai kéo dài là rất cần thiết trong nỗ lực tìm kiếm, xác lập cơ chế
thích hợp để giải quyết dứt điểm, triệt để loại tranh chấp này;
Đổi mới công tác giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Tiếp nhận ý kiến phản hồi từ tổ
chức, cá nhân để hoàn thiện và xây dựng hệ thống quản lý đất đai (thể
chế, bộ máy tổ chức).
2. Các văn bản, quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
a) Văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
- Bộ Luật Dân sự ngày 14 tháng 6 năm 2005;
- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15
tháng 06 năm 2004 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo
ngày 29 tháng 11 năm 2005.
- Luật Tố tụng dân sự ngày 24 tháng 6 năm 2004;
- Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
- Luật Thanh tra ngày 15 tháng 06 năm 2004;
- Luật Nhà ở ngày 09 tháng 12 năm 2005;
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21 tháng 5 năm 1996;
- Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ngày 05 tháng 4 năm 2006;
- Nghị quyết số 755/2008/NQ-UBTVQH ngày 02 tháng 04
năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với
một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày
01 tháng 7 năm 1991;
- Nghị quyết số 30/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004
của Quốc hội về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
quản lý hành chính nhà nước;
b) Văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành
- Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 07 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo;
- Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 04 năm
2005 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu
nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung mội số điều
của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15 tháng 06 năm 2004;
- Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Khiếu nại, tố cáo;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về việc thi hành Luật Đất đai;
- Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm
2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất.
- Nghị định số 12/2002/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ về hoạt động đo đạc và bản đồ;
- Nghị định số 30/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đo đạc và bản đồ;
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm
2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai;
- Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm
của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
b) Văn bản do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành
- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 7 năm
2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về trình
tự thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất;
- Thông tư số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày
03 tháng 01 năm 2002 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao Tổng cục Địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của toà án nhân dân
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
3. Những ưu điểm, nhược điểm, hạn chế của các quy
định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai
- Hệ thống pháp luật quy định về giải quyết khiếu
nại, tố cáo thiếu đồng bộ. Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai có các
quy định không thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân. Cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong
giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa cơ quan hành chính và toà án nhân
dân, giữa Bộ quản lý chuyên ngành và Thanh tra Chính phủ. Thẩm quyền
giải quyết giữa cơ quan hành chính và cơ quan toà án chưa cụ thể, rõ
ràng nên nhiều trường hợp người dân phải đi lại nhiều lần giữa Toà án
nhân dân và Ủy ban nhân dân nhưng vẫn không được tiếp nhận để giải
quyết.
- Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tổ cáo
về đất đai chính là tính chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn nhiều điểm có
xung đột trong toàn hệ thống pháp luật nước ta. Riêng quy định về trình
tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai cũng có nhiều
điểm khác nhau giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố
cáo. Về việc thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng, có sự khác nhau
giữa Luật Xây dựng và Luật Đất đai. Về tính hợp luật của các loại hợp
đồng, giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai năm 2003
có hiệu lực thi hành, có sự khác nhau giữa pháp luật về đất đai và pháp
luật về dân sự. Tình trạng pháp luật như vậy đã dẫn đến cách hiểu khác
nhau trong áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính cũng như các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
- Cơ chế chuyển phần lớn việc giải quyết khiếu nại về
địa phương có ưu điểm là tăng cường trách nhiệm giải quyết của cấp có
thẩm quyền quản lý đất đai nhưng lại có nhược điểm là không đáp ứng được
nguyện vọng của người có đơn khiếu nại là muốn được cấp có thẩm quyền ở
Trung ương ra quyết định cuối cùng để bảo đảm tính khách quan. Đây cũng
chính là nguyên nhân gây nên tình trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung
ương ngày càng tăng.
- Cơ chế chuyển toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai có
giấy tờ sang toà án nhân dân, khuyến khích chuyển khiếu nại về quyết
định hành chính, hành vi hành chính sang khởi kiện lên toà án hành chính
có ưu điểm là nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền nhưng lại bất
cập ngay với thực tế giải quyết của toà án nhân dân do trình độ chưa
cao, thiếu nhân lực và toà án nhân dân chưa thực sự độc lập với cơ quan
hành chính cùng cấp.
- Luật Khiếu nại, tố cáo là luật chung và quy định
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại các quyết định hành chính và hành
vi hành chính cho tất cả các lĩnh vực thuộc quản lý hành chính. Tuy
nhiên, theo Luật Đất đai năm 2003, các khiếu nại về quyết định hành
chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được giải quyết theo
một cơ chế riêng, không theo trình tự được quy định trong Luật Khiếu
nại, tố cáo. Điều này có vẻ như nghịch lý, song đây là một thực tế bất
cập hiện nay.
Luật Đất đai năm 2003 ra đời vào thời điểm Luật Khiếu
nại, tố cáo năm 1998 chưa được sửa đổi, bổ sung. Ngay từ khi mới ra
đời, dù có một số quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai mâu thuẫn với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo nhưng vẫn còn có
thể “chấp nhận được”. Tuy nhiên, sau khi sửa đổi Luật Khiếu nại, tố cáo
(vào các năm 2004 và 2005), nhiều quy định về trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại về đất đai trong Luật Đất đai đã trở thành lạc hậu, đòi
hỏi phải được sửa đổi, bổ sung. Nội dung đầu tiên cần phải sửa đổi là
quy định liên quan đến “quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng”. Điều
2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày
29/11/2005 đã bãi bỏ Khoản 15 Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo về việc giải
thích rằng: Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là quyết định có
hiệu lực thi hành và người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp. Ở
lần sửa đổi này, cụm từ “quyết định này là quyết định giải quyết khiếu
nại cuối cùng” tại đoạn 2 Điều 54 của Luật Khiếu nại, tố cáo cũng được
thay bằng cụm từ “quyết định này là quyết định có hiệu lực thi hành”.
Như vậy, trong giải quyết khiếu nại hiện nay không còn tồn tại khái niệm
“giải quyết khiếu nại cuối cùng”.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo
hiện hành thì khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại dù là
quyết định giải quyết lần nào, người khởi kiện đều được quyền khởi kiện
ra Tòa. Đây là quy định mới, rộng mở hơn để người dân có thể yêu cầu cơ
quan tư pháp đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
khi đó, Điểm a Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại quy định: “Trường hợp
khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai
do Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết
lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có
quyền khởi kiện tại TAND hoặc tiếp tục khiếu nại đến chủ tịch UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp khiếu nại đến
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối
cùng”. Quy định này làm hạn chế quyền khởi kiện của người khiếu nại.
Một sự khác biệt lớn giữa hai luật này là sự khác
nhau giữa các quy định về thời hiệu. Theo Điều 31 Luật Khiếu nại, tố
cáo, thời hiệu khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành
chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau,
thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở
ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu
nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào
thời hiệu khiếu nại. Tuy nhiên, Điểm b Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại
quy định thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính về quản lý đất đai
là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có
hành vi hành chính đó.
Trên đây là những mâu thuẫn lớn nhất cần sớm được
khắc phục giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai hiện nay. Để thống
nhất các quy định về giải quyết khiếu nại trên từng lĩnh vực, nên
chăng, Luật Đất đai cũng như các văn bản pháp luật khác khi ban hành chỉ
cần quy định rằng việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện
theo Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Một số quy định của pháp luật đất đai về tranh chấp
mà trong thực tế rất khó áp dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả trong giải
quyết tranh chấp đất đai trong tình hình hiện nay, và giảm tính pháp chế
trong thực thi pháp luật.
+ Luật Đất đai năm 2003 quy định hòa giải tranh chấp
đất đai là trình tự thủ tục bắt buộc, quan trọng trong quá trình giải
quyết các vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng (QSDĐ) (Luật Đất đai năm
1993 chỉ khuyến khích hòa giải tranh chấp đất đai). Trong những năm qua,
UBND cấp xã với trách nhiệm theo qui định đã chủ trì, phối hợp với Mặt
trận Tổ quốc và các thành viên, các tổ chức xã hội khác đã thực hiện hòa
giải thành công nhiều vụ việc tranh chấp đất đai, chấm dứt vụ việc từ
cơ sở. Tuy nhiên, qui định của pháp luật về đất đai chưa chặt chẽ, nên
phần nào giảm đi tính hiệu quả của công tác này. Cụ thể: Luật Đất đai
năm 2003 không qui định biên bản hòa giải tranh chấp đất đai được các
bên tranh chấp thống nhất có hiệu lực pháp luật hay không? Thực tế diễn
ra cho thấy, nhiều vụ việc tranh chấp đất đai sau khi đã được chính
quyền cơ sở sử dụng nhiều phương pháp và thời gian hòa giải thành công,
nhưng sau đó một trong các bên tranh chấp lại gửi đơn yêu cầu giải quyết
và các cấp chính quyền phải tiếp tục hòa giải, giải quyết lại vụ việc
(pháp luật không qui định thời hiệu đề nghị giải quyết tranh chấp đất
đai), ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước nói chung.
+ Tranh chấp đất đai về bản chất là một dạng tranh
chấp dân sự và nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận tự nguyện (không trái
pháp luật) phải được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2003
không qui định tính hiệu lực pháp luật của các vụ việc tranh chấp đã
được hòa giải thành là không phù hợp với nguyên tắc nêu trên cả về tính
khoa học và pháp lý. Trong khi đó, quyết định giải quyết tranh chấp đất
đai cuối cùng là quyết định hành chính và có hiệu lực pháp luật (tính tự
nguyện thỏa thuận có giá trị thấp hơn tính hành chính trong quan hệ dân
sự). Vì vậy, Luật Đất đai năm 2003 phải qui định: Biên bản hòa giải
thành các vụ việc tranh chấp đất đai có hiệu lực pháp luật và các cơ
quan có thẩm quyền không thụ lý các đơn thư đề nghị giải quyết tranh
chấp đất đai đã được hòa giải thành công.
+ Điều 161 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai đã qui định 6 căn cứ
giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không
có giấy tờ về QSDĐ: Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do
các bên tranh chấp đưa ra; ý kiến của Hội đồng tư vấn giải quyết tranh
chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn thành lập; thực tế diện tích
đất mà các bên tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu
tại địa phương; sự phù hợp với hiện trạng sử dụng đất đang có tranh chấp
với quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt; chính sách ưu đãi
người có công của Nhà nước; qui định của pháp luật về giao đất, cho
thuê đất.
+ Tranh chấp QSDĐ là một dạng tranh chấp đặc thù,
liên quan đến các chính sách, pháp luật theo từng giai đoạn khác nhau và
tính chất, đặc điểm của từng vụ việc, quan hệ tranh chấp đất đai tại
các vùng, miền khác nhau. Do đó, việc giải quyết tranh chấp về QSDĐ còn
phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và luôn bảo đảm tính khả thi
trong thực tế. Qua thực tiễn giải quyết các vụ việc tranh chấp về QSDĐ
cho thấy: Hầu như các căn cứ giải quyết thứ 3, 4, 5 qui định tại Điều
161 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP không được áp dụng trong quá trình giải
quyết, vì nó không chứa đựng tính pháp lý rõ ràng và không đủ tính định
lượng để phục vụ cho việc xem xét, đánh giá khách quan, chính xác khi
giải quyết các tranh chấp về QSDĐ.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, luôn luôn gắn
liền với chủ thể quản lý, sử dụng nhất định và cần phải tôn trọng quá
trình quản lý, sử dụng. Trên tinh thần đó, theo chúng tôi việc giải
quyết các vụ việc tranh chấp về quyền sử dụng đối với trường hợp không
có giấy tờ về QSDĐ cần qui định nguyên tắc chung: Bảo đảm tôn trọng hiện
trạng, quá trình sử dụng đất ổn định.
Pháp luật về đất đai không nên và không thể qui định
các căn cứ để giải quyết, vì các căn cứ đã nêu không bảo đảm để giải
quyết đúng, đầy đủ một vụ việc tranh chấp QSDĐ. Hơn thế nữa, hạn chế sự
chủ động, tư duy của các cơ quan có trách nhiệm thẩm tra, xác minh khi
buộc phải tuân thủ theo tiêu chí cứng nhắc đã định sẵn.
+ Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai qui định: Tranh chấp
về QSDĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc có một trong các loại
giấy tờ qui định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, nhiều vụ việc tranh chấp
QSDĐ nhưng các cơ quan Tòa án khi tiếp nhận vụ việc thuộc thẩm quyền đã
hướng dẫn cho công dân khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc trong việc ban hành
các giấy tờ qui định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
năm 2003 (vụ việc tranh chấp dân sự chuyển sang khiếu nại hành chính).
Trong khi đó, các cơ quan hành chính khi tiếp nhận
cho rằng: Vụ việc về bản chất là tranh chấp và thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND. Như vậy, qui định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết
tưởng rằng đã rõ ràng, nhưng trong thực tế áp dụng lại nảy sinh nhiều
bất cập, còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau của các cơ quan có
thẩm quyền khi tiếp nhận xử lý đơn thư. Từ đó công dân, tổ chức phải đi
lại nhiều lần và ít nhiều gây bức xúc, giảm niềm tin của nhân dân và cơ
quan Nhà nước.
Do đó, thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh chấp
đất đai cần phải qui định một cách rõ ràng hơn, để khi các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết áp dụng không có “cơ sở, căn cứ” để đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau, tạo hiệu ứng không tốt trong việc vận hành bộ máy Nhà
nước.
Nói chung, giải quyết tốt, có kết quả một vụ việc
tranh chấp QSDĐ là sự hội tụ đầy đủ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.
Trong nhiều yếu tố đó, chính sách, pháp luật qui định về giải quyết
tranh chấp đất đai nằm trong hệ thống thượng tầng là rất quan trọng, cần
phải được sửa đổi kịp thời, đầy đủ. Như thế, mới góp phần giải quyết
tốt một trong những quan hệ đất đai đang dược xem là nhạy cảm trong thời
điểm hiện nay.
4. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Trước thực trạng và nguyên nhân trên đây, để lập lại
trật tự, kỷ cương trong việc khiếu nại, tố cáo và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp, khiếu nại trên lĩnh vực đất đai cần thực hiện tốt các
giải pháp sau:
a) Quán triệt những nguyên tắc chung
Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phải quán triệt các nguyên tắc sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nứơc thống
nhất quản lý; Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có
quyền thu hồi đất và người sử dụng đất được đền bù theo quy định của
pháp luật.
- Trong quá trình Cách mạng, theo tình hình cụ thể mà
Đảng và Nhà nước có các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp. Vì vậy
giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phải căn cứ vào thời điểm phát
sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của thời kỳ đó.
- Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp đất đai trên
cơ sở tôn trọng quá trình sử dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, không
giũ rối, kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng và lợi ích của người sử
dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy hoạch sử dụng đất của chính quyền
địa phương.
- Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai nếu phát sinh những vấn đề về kinh tế, lợi ích vật chất … cần phải
đảm bảo lợi ích Nhà nước và quan tâm thích đáng lợi ích của người sử
dụng đất .
b) Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Cơ chế giải quyết khiếu nại có liên quan đến đất đai
hiện nay, theo Luật Đất đai quy định trường hợp quyết định của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định cuối cùng thì chấm dứt khiếu nại
và Luật Khiếu nại, tố cáo quy định chỉ xem xét quyết định cuối cùng của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật. Do quy định không rõ ràng, nên để phát hiện được quyết định cuối
cùng có dấu hiệu vi phạm pháp luật và để được xem xét quyết định đó theo
quy định của pháp luật là một việc không dễ dàng. Vừa qua không ít
trường hợp quyết định cuối cùng sai không được phát hiện và xử lý kịp
thời, có trường hợp nhờ dân lên Trung ương "kêu oan" mới phát hiện được
quyết định cuối cùng sai. Luật quy định quyết định cuối cùng có hiệu lực
thi hành, có trường hợp khi phát hiện quyết định cuối cùng sai, thì
việc đã rồi, như nhà bị đập, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và đã bán, thậm chí có người đã vào tù. Luật Khiếu nại, tố cáo
quy định Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường là người có thẩm quyền xem
xét, giải quyết các khiếu nại liên quan đến lĩnh vực đất đai mà Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc
UBND cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Do đó, người
khiếu nại lên Bộ Tài nguyên – Môi trường để tiếp khiếu. Theo thống kê từ
năm 1999 đến năm 2004, Bộ Tài nguyên – Môi trường nhận 21.632 đơn, số
đơn thuộc thẩm quyền xem xét là 4.279 đơn. Bộ phải mất nhiều thời gian
xử lý, không đủ sức đáp ứng yêu cầu, làm phức tạp tình hình. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình, gọi là "khiếu kiện vượt cấp"
lên Trung ương. Vì thế giải quyết khiếu nại hành chính không có điểm
dừng.
Việc mở rộng thẩm quyền để Toà án xét xử khiếu nại
hành chính là đúng. Luật Đất đai năm 2003 tại Điều 138 quy định: Trường
hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết lần đầu, người khiếu
nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện ra Toà
án hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà người
khiếu nại không đồng ý có quyền khởi kiện ra Toà án. Nhưng người khiếu
nại chọn con đường tiếp khiếu đến cơ quan hành chính cấp trên hơn việc
khởi kiện ra Toà án, vì ra Toà phải chịu án phí, đủ thủ tục và qua các
cấp của Toà xét xử nếu có kháng án. Do đó, hầu hết người khiếu nại quyết
định hành chính tiếp khiếu lên cơ quan hành chính có thẩm quyền của cấp
trên, hết cấp tỉnh lên cấp Trung ương.
Tình hình trên đang đặt ra sự cần thiết phải đổi mới
cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Phải thể chế hoá
đúng đường lối giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan
đến đất đai mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá IX đã nêu:
"Việc giải quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hoà giải, nếu
hoà giải không thành thì đưa ra Toà án giải quyết. Nhà nước quy định
thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại không để kéo dài, Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối
cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm vi thẩm quyền của các cấp ở địa
phương; trường hợp các đương sự không nhất trí với quyết định của Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì đưa ra Toà án
giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo pháp luật tố cáo".
Với cơ chế giải quyết trên sẽ đảm bảo giải quyết được
khách quan, người giải quyết độc lập với người ra quyết định hành
chính, tránh được tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi", nó càng mở rộng
dân chủ hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
trước pháp luật, người khiếu nại chịu trách nhiệm trước pháp luật khi
thực thi quyền khiếu nại, đồng thời buộc cơ quan hành chính và cá nhân
có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của
chính mình mà phải nâng cao chất lượng khi ban hành các quyết định hành
chính.
Việc nghiên cứu thiết lập một cơ chế nào để giải
quyết bước tiếp theo trước khi chuyển sang Toà án cũng cần tham khảo
thêm kinh nghiệm nước ngoài, xem nên tổ chức thế nào để vừa có hiệu lực,
hiệu quả, vừa phù hợp với đặc điểm của nước ta.
Kinh nghiệm cho thấy, việc giải quyết tranh chấp,
khiếu nại về đất đai thời gian qua hiệu quả nhất là hoà giải, không chỉ
chú trọng hoà giải khi phát sinh tranh chấp, mà khi giải quyết khiếu nại
tiếp tục hoà giải cũng đạt nhiều kết quả, và cả trong trường hợp Toà án
xét xử có nơi hoà giải thành cũng đạt tỷ lệ cao; hoà giải thành càng
nhiều càng tốt vì giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai ngoài việc
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo sự ổn định, còn
phải tăng cường sự đoàn kết giữa Nhà nước với dân, trong nội bộ nông
dân, giữa dân với dân và trong thân tộc
Do đó, khi phát sinh khiếu nại quyết định hành chính
của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cần có bước hoà giải tiếp theo, nhưng ở
một trình độ tổ chức cao hơn. Hiện nay, trước mắt có thể dựa vào tổ chức
ở địa phương đang có chức năng, nhiệm vụ phù hợp với việc hoà giải giữa
người khiếu nại và người ban hành quyết định là Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, thực hiện chức năng giám sát việc giải quyết
tranh chấp, khiếu nại của Uỷ ban nhân dân, nếu Thường trực Hội đồng nhân
dân chủ trì, có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, ban ngành
hữu quan thì hiệu quả hoà giải sẽ rất tốt. Việc tiếp dân khiếu nại
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cũng nên
giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân chủ trì, để thực hiện việc hoà
giải; trường hợp Uỷ ban nhân dân giải quyết sai thì yêu cầu xem xét lại;
trường hợp giải quyết đúng thì có trách nhiệm giải thích và yêu cầu
người khiếu nại thi hành quyết định, qua đó mà đưa rất ít vụ việc sang
Toà án giải quyết. Mọi việc đều được giải quyết có hiệu quả ngay tại cơ
sở và địa phương là phương án tối ưu trong tình hình hiện nay, có thể ta
làm thử một số loại hình tổ chức hoà giải ở một số địa phương để rút
kinh nghiệm, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính đạt hiệu
quả cao.
Đi đôi với đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp,
khiếu nại về đất đai, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật đất
đai được đầy đủ, hệ thống và đồng bộ; rà soát những quy định chưa phù
hợp hoặc những vấn đề mới phát sinh, để kịp thời sửa đổi, bổ sung, tháo
gỡ các vướng mắc, chú ý các quy định và ngôn ngữ của luật, văn bản dưới
luật phải được thể hiện hoặc giải thích đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất
là đối với các vấn đề có liên quan đến tranh chấp, khiếu nại; hướng dẫn
để thống nhất nội dung giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai; và
có tư vấn về pháp luật nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp cận với pháp
luật đất đai hiểu biết, đồng thuận giữa người ra quyết định, người khiếu
nại và người giải quyết khiếu nại.
Việc đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính
có liên quan lĩnh vực đất đai, không những nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại hành chính, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, cải cách
tư pháp trong nước, mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, trong tiến
trình hội nhập của nước ta hiện nay.
Ngoài ra, có thể thấy cần thực hiện 4 giải pháp đổi
mới sau đây để giải quyết tốt vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai:
Giải pháp thứ nhất: Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết
về áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai để tránh đi tất cả mọi kẽ hở, xung đột, thiếu đồng bộ
trong mọi pháp luật hiện nay có liên quan đến đất đai và giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Giải pháp thứ hai: Cần thiết phải thành lập hệ thống
cơ quan tài phán hành chính về đất đai, cơ quan tài phán ở Trung ương
trực thuộc Chính phủ, bộ máy tổ chức theo ngành dọc, lực lượng cán bộ có
tài và có tâm. Cơ quan tài phán hành chính có trách nhiệm đưa ra quyết
định cuối cùng sau khi các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đã ban
hành quyết định giải quyết lần đầu nhưng người có đơn không đồng ý với
quyết định đó.
Giải pháp thứ ba: Kiện toàn hơn nữa bộ máy hành chính
ở cấp huyện và cấp xã sao cho cán bộ quản lý hiểu được mình chỉ là công
bộc của dân, cơ quan hành chính có trách nhiệm trước hết là phục vụ nhu
cầu của người dân. Bộ máy hành chính ở địa phương phải hiểu rất rõ pháp
luật về đất đai của từng thời kỳ, áp dụng đúng pháp luật hiện hành. Cơ
quan hành chính cấp trên thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra về đất
đai để xử lý triệt để những trường hợp gây tham nhũng, lãng phí trong
quản lý.
Giải pháp thứ tư: Áp dụng nghiêm pháp luật về đất
đai, đặc biệt là các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm
ngăn chặn những phát sinh mới về tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai theo hướng giảm đầu vào và kiên quyết giải quyết hết các trường hợp
tồn đọng.
II. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ ĐẤT ĐAI
1. Trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo về đất đai
Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành,
một vụ việc khiếu nại có thể được giải quyết hai lần ở cơ quan hành
chính và người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ việc ra toà án bất kể lần
một hoặc lần hai khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
của người có thẩm quyền của cơ quan hành chính.
Tuy nhiên, điểm a Khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai lại
quy định: quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 là quyết định giải quyết
khiếu nại cuối cùng và người khiếu nại không có quyền khởi kiện ra toà.
Đồng thời điểm b khoản 2 Luật Đất đai, khoản 3 Điều 64 Nghị định số
84/2007/NĐ-CP cũng quy định: Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại
không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án
nhân dân. Có thể thấy rằng trong trường hợp này, người khiếu nại chỉ có
một lựa chọn là khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra toà án nhưng nếu theo quy định tại
khoản 3 Điều 25 của Luật Khiếu nại, tố cáo thì người khiếu nại có quyền
lựa chọn hoặc khởi kiện ra toà, hoặc khiếu nại tiếp lên Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường, đồng thời trong trường hợp không đồng ý với
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, người khiếu nại
vẫn có quyền khởi kiện tiếp ra Toà án.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 và khoản 17 Điều 11 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định: Cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền khởi kiện để tòa án giải quyết khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp
hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng
đất trong hai trường hợp: thứ nhất, người khiếu nại không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh; thứ hai, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, quy
định của Luật Đất đai và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính đều quy định theo hướng: trong giải quyết khiếu nại về quản lý đất
đai, người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện ra tòa án trong trường hợp
đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết
định đó và không tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên. Vấn
đề khởi kiện ra tòa trong trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu
nại lần 2 không được đặt ra.
Như vậy, Luật Khiếu nại, tố cáo tạo ra những cơ chế
cho người dân thực hiện quyền khiếu nại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền. Tuy nhiên những quy định như trên của Luật Đất đai và
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính lại hạn chế quyền này
của người khiếu nại.
2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến đất đai.
a) Tranh chấp và giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai
* Tranh chấp về đất đai
Theo quy định tại khoản 26 Điều 1 Luật Đất đai năm
2003 thì tranh chấp về đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ.
* Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai
Quá trình sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân được
Nhà nước giao quyền quản lý và sử dụng không tránh khỏi những tranh
chấp. Vì vậy, Nhà nước đã có những cơ chế để giải quyết khi tranh chấp
phát sinh mà các tổ chức, cá nhân không tự giải quyết được. Theo quy
định của Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, thì việc
giải quyết tranh chấp về đất đai được thực hiện theo hai cách: giải
quyết tại Tòa án và giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nước. Cụ
thể là:
- Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà các đương sự có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các giấy tờ sau:
những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993
(tức là trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành) do cơ quan
có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ lâm thời cộng hòa miền nam
Việt Nam và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc
có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; giấy tờ hợp pháp thừa
kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ
giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, mua, bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15 tháng 10 năm
1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử
dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở
gắn liền với đất theo quy định của pháp luật; giấy tờ do cơ quan có
thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất. Hộ gia đình và cá
nhân đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ nói trên mà trên giấy tờ
có ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất
có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật Đất đai
năm 1993 có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp. Hộ gia đình, cá
nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành
(khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 50 Luật Đất đai) và tranh chấp về tài
sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết.
- Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính
Tranh chấp về thẩm quyền sử dụng mà đương sự không có
giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy
tờ quy định như nói ở trên thì được giải quyết như sau: trường hợp Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần
đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải
quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương giải quyết. Khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương giải quyết thì quyết định này là quyết
định giải quyết cuối cùng. Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các
bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu
nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quyết định giải quyết
khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải
quyết cuối cùng.
* Giải quyết tranh chấp đất đai
- Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
+ Điều kiện khởi kiện vụ án tranh chấp đất đai tại Tòa án
Những tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án. Theo quy định của Điều 136 Luật Đất đai và Điều 160 của Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP thì trước khi những tranh chấp đất đai được giải
quyết tại Tòa án, các bên phải tiến hành việc giải quyết tranh chấp
thông qua hòa giải, nếu hòa giải không thành thì tranh chấp đất đai sẽ
do Tòa án giải quyết với hai điều kiện sau:
Thứ nhất là: đương sự có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Theo quy định của Điều 4, Luật Đất đai thì giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất.
Thứ hai là: đương sự tuy không có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2
và 5 Điều 50 của Luật Đất đai như đã nói ở phần trên.
+ Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
Việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án được
thực hiện theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự, cụ thể là khi có
tranh chấp đất đai phát sinh thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tranh
chấp về đất đai tại Toà án có thẩm quyền. Điểm c khoản 1 Điều 35 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định đất đai là một loại bất động sản nên Toà án
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp bất động sản là Toà án nơi có bất
động sản. Khi làm đơn khởi kiện, người khởi kiện phải chấp hành quy định
tại Điều 164 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Người khởi kiện vụ án gửi đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm quyền bằng
một trong các phương thức sau: nộp trực tiếp tại Toà án; gửi đến Toà án
qua đường bưu điện. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn
tại Toà án hoặc ngày có dấu của Bưu điện nơi gửi. Trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng
án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và Toà án sẽ thụ lý
vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án
phí.
Trường hợp đơn khởi kiện không đủ các nội dung trên
thì Toà án sẽ thông báo cho người khởi kiện biết và người khởi kiện phải
sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do Toà án quy định. Nếu không sửa đổi,
bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án sẽ trả lại đơn khởi kiện.
Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền
khiếu nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện. Người khởi kiện
phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trường hợp đủ điều kiện thì thụ lý để giải quyết. Kể
từ ngày thụ lý vụ án có một khoảng thời gian chuẩn bị xét xử là 4 tháng,
trong thời gian này, Toà án nhân dân tiến hành hoà giải để các đương sự
tiến hành thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Đây là giai
đoạn bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và việc hoà giải
này cũng khác với việc hoà giải trước khi khởi kiện. Hoà giải trong giai
đoạn này do Toà án nhân dân chủ trì và tiến hành.
Việc hoà giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau
đây: tôn trọng sự thoả thuận tự nguyện của các đương sự, không được dùng
vũ lực hoặc đe doạ dung vũ lực bắt buộc các đương sự phải thoả thuận
không theo ý chí của mình; nội dung thoả thuận giữa các đương sự không
trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Nếu các đương sự thoả thuận được
với nhau thì Toà án lập biên bản hoà giải thành và hết thời gian bảy
ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào
thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải
hoặc một thẩm phán được Chánh án phân công ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự. Nếu hoà giải không thành thì Toà án quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Ngay trong quá trình xét xử, các đương sự vẫn
có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp
này, Toà án quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu
lực pháp luật. Nếu không đồng ý với bản án thì trong thời hạn 15 ngày,
các bên đương sự có thể kháng cáo theo trình tự phúc thẩm. Việc giám đốc
thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án về tranh chấp đất đai cũng được thực hiện theo quy định của
pháp luật về Tố tụng dân sự.
Giải quyết tranh chấp đất đai tại các cơ quan hành chính nhà nước
Theo quy định, các cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp mà đương sự không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và cũng không có một trong các loại giấy tờ sau
đây:
Những giấy tờ về quyền sử dụng đất trước ngày 15
tháng 10 năm 1993 do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong quá
trình thực hiện chính sách nhà đất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam và Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam;
Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất,
sổ địa chính; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất
hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với
đất;
Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua, bán nhà
ở gắn liền với đất trước ngày 15/10/1993; giấy tờ thanh lý, hoá giá nhà
ở gắn liền với đất theo quy định của pháp luật;
Giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
Bản án hoặc Quyết định của Toà án, Quyết định thi
hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về quyền sử dụng đất.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh giải quyết đối với tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
thì có quyền gửi đơn xin giải quyết tranh chấp đất đai đến Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quyết định giải
quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
là quyết định giải quyết tranh chấp cuối cùng.
Đối với tranh chấp giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài với nhau hoặc giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sẽ do Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết. Trường
hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải
quyết lần đầu mà một trong các bên đương sự không đồng ý thì có quyền
đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu giải quyết. Quyết định
giải quyết cảu Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải
quyết tranh chấp cuối cùng.
Như vậy, có thể tóm tắt việc giải quyết tranh chấp
đất đai như sau: khi có tranh chấp đất đai phát sinh, trước hết các bên
tiến hành hoà giải (tự hoà giải hoặc thông qua hoà giải ở cơ sở, hoà
giải ở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn). Nếu hoà giải không thành
và đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy
tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì Toà án
nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sư. Trường
hợp đương sự không có các loại giấy tờ nói trên thì thẩm quyền giải
quyết thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh. Quyết định
giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.
Đối với việc giải quyết tranh chấp liên quan đến địa
giới hành chính thì giải quyết theo quy định tại Điều 137 Luật Đất đai.
Theo đó, tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các
đơn vị hành chính do Uỷ ban nhân dân của đơn vị hành chính đó cùng phối
hợp giải quyết. Trong trường hợp không đạt được sự nhất trí hoặc việc
giải quyết làm thay đổi địa giới hành chính thì thẩm quyền giải quyết
được quy định như sau:
- Tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh có trách nhiệm cung cấp các tài liệu cần thiết và phối hợp
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp đất đai liên
quan đến địa giới hành chính.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường, cơ quan quản lý đất
đai của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh có trách nhiệm cung cấp các tài liệu cần thiết
và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp
đất đai liên quan đến địa giới hành chính.
b) Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai
* Khiếu nại về đất đai
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại, tố
cáo thì công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại đến cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính,
hành vi hành chính xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
khiếu nại (Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai):
- Quyết định hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại bao gồm:
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
+ Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;
+ Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất;
- Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu
nại là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc
thuộc phạm vi quy định như nói ở trên.
* Thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và
các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm
2004, 2005 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định như sau:
Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND
cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp
tương đương, Giám đốc Sở và cấp tương đương của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch
UBND cấp tỉnh, thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ,
thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
đối với quyết định hành chính hành vi hành chính của mình, của người có
trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
Ngoài ra, Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu
nại mà Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện đã
giải quyết nhưng còn khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải
quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu
nại; giải quyết khiếu nại mà Giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc
UBND cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng
cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ
đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại, giải quyết khiếu nại có nội
dung thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình mà Chủ tịch UBND
cấp tỉnh, giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc UBND cấp tỉnh đã giải
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại.
Tổng thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu
nại; giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp trong việc tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại
đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác
giải quyết khiếu nại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, UBND các cấp; xử lý các kiến nghị của Tổng thanh tra theo quy định.
Tuy nhiên Luật Đất đai quy định thẩm quyền giải quyết
khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh. Cụ thể tại
khoản 2 Điều 138 quy định như sau:
- Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi
hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân
hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trong trường hợp
khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh thì quyết định của Chủ tịch UBND
cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng;
- Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi
hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với
quyết định đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân.
Bên cạnh đó, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ
quy định bổ sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai
cũng chỉ đề cập đến thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài hai trường hợp nêu trên, việc giải quyết
khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực đất đai được dẫn chiếu áp dụng theo quy định của pháp luật về khiếu
nại, tố cáo.
Trường hợp người khiếu nại khởi kiện vụ án hành chính
tại Toà án thì Toà án có thẩm quyền giải quyết 22 loại việc theo như
quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 2006, cụ thể:
- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
- Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật
kiến trúc kiên cố khác;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất,
kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề
hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan
đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến việc chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế,
dịch vụ và cung ứng dịch vụ;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; tiền sử dụng đất;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi
thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chưc vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống;
- Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh
giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen
thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư;
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc;
- Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
* Thủ tục giải quyết khiếu nại
Theo quy định của Điều 30, 39, 46 Luật Khiếu nại, tố
cáo hiện hành thì người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người ra
quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành
chính mà người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định hành chính đó,
hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải
quyết quy định tại Điều 36 Luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính
tại Toà án theo quy định của pháp luật; đối với vùng sâu, vùng xa, đi
lại khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45
ngày. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì có
quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân cấp tỉnh, trừ
trường hợp luật có quy định khác. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết
thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 43 Luật Khiếu nại, tố
cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền
khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án; đối với vùng sâu, vùng xa, đi lại
khó khăn thì thời hạn nói trên có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.
Tuy nhiên, điểm a khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm
2003 lại quy định: Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định
giải quyết khiếu nại cuối cùng và người khiếu nại có quyền khởi kiện ra
toà. Đồng thời điểm b khoản 2 Luật Đất đai, khoản 3 Điều 6 Nghị định số
84/2007/NĐ-CP cũng quy định: trường hợp khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND cấp tỉnh
giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân. Có thể thấy
rằng trường hợp này, người khiếu nại chỉ có một lựa chọn là khởi kiện
Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra
toà án nhưng nếu theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Khiếu nại, tố
cáo thì người khiếu nại có quyền lựa chọn hoặc khởi kiện ra toà hoặc
khiếu nại trực tiếp lên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, đồng thời
trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường, người khiếu nại vẫn có quyền khởi kiện tiếp ra Toà
án.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 và khoản 17 Điều 11 Pháp
lệnh giải quyết các vụ án hành chính cũng quy định: cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khởi kiện để toà án giải quyết khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp:
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
- Bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Gia hạn thời hạn sử dụng đất trong trường hợp người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của
Chủ tịch UBND cấp huyện và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND
cấp tỉnh hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Như vậy, Luật Đất đai và Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính đều quy định việc giải quyết khiếu nại về đất đai
theo hướng: người khiếu nại chỉ có quyền khởi kiện ra toà án trong
trường hợp đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý
với quyết định đó và không tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính
cấp trên. Vấn đề khởi kiện ra toà trong trường hợp đã có quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai không được đặt ra.
3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định như sau:
Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám đốc sở và cấp tương đương của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp. Ngoài ra, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại; giải quyết khiếu nại mà Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại, giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại.
Tổng Thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại; giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; xử lý các kiến nghị của Tổng Thanh tra quy định.
Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2003 quy định Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh mới có thẩm quyền cấp đất, vì vậy Luật Đất đai chỉ quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cụ thể tại khoản 2 Điều 138 như sau:
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu kiện tới Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong trường hợp khiếu nại lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì quyết định cuả Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu kiện tới Toà án nhân dân.
Bên cạnh đó, Nghị định số 84/2007/NĐ – CP của Chính phủ quy định bổ sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai cũng chỉ đề cập đến thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài 2 trường hợp nêu trên, việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được dẫn chiếu áp dụng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Thẩm quyền, giải quyết khiếu nại tố cáo – quy định của pháp luật và thực tế áp dụng Ngoài việc kế thừa các văn bản pháp luật trước đó, Luật Khiếu nại tố cáo (KNTC) năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005) đã phát triển nhiều nội dung phù hợp với quá trình đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng tại các địa phương, đặc biệt là ở cấp huyện, xã cho thấy vẫn còn có nhiều bất cập mà chủ yếu là do sự vận dụng thiếu thống nhất một số quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Điều 34, Nghị định số 136/2006/NĐ-CP quy định Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức thì việc quản lý trực tiếp có nhiều nội dung (cơ quan quản lý hồ sơ, quản lý ngạch công chức, cơ quan quản lý cán bộ, cơ quan sử dụng cán bộ…). Với cấp huyện, Chủ tịch huyện là người ra quyết định bổ nhiệm, điều động từ trưởng phòng, ban trở xuống (cả cán bộ không chuyên trách và các chức danh công chức ở cấp xã) và theo quy định trên thì người trực tiếp quản lý cán bộ công chức lại là thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp xã nhưng thủ trưởng cơ quan chuyên môn lại không có thẩm quyền giải quyết tố cáo, do đó thuật ngữ “những người do mình quản lý trực tiếp" (nêu tại Điều 34) rất trìu tượng và do đó rất khó xác định đối tượng nào để áp dụng. Chính vì vậy mà trong thực tế mỗi địa phương sẽ có hướng vận dụng theo cách hiểu của mình.
Điều 43, 44 và 45 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP đều sử dụng cụm từ “kết luận" – Người được giao xác minh cũng phải có kết luận bằng văn bản, người giải quyết tố cáo cũng phải có kết luận rõ ràng và gửi văn bản kết luận vụ việc tố cáo cho các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan Thanh tra, cơ quan nhà nước cấp trên). Tuy nhiên, trên thực tế quy định như vậy, vô tình làm khó cho các cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết một vụ việc. Bởi các công đoạn, quy trình xem xét giải quyết đều phải có "kết luận" song không có quy định nào nêu rõ kết luận nào là cuối cùng, văn bản kết luận nào là văn bản gửi các đối tượng có liên quan – văn bản của cơ quan được giao xác minh, hay người có thẩm quyền giải quyết? Do đó, các quy định trên sẽ thiếu tính khả thi trên thực tế, dễ dẫn đến sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền do nhiều “kết luận" gây nên.
Theo quy định tại khoản 5, Điều 2, Luật Khiếu nại, tố cáo thì công dân có quyền tố cáo. Có thể thấy, Luật Khiếu nại, tố cáo đã cá thể hoá trách nhiệm của người tố cáo để họ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi (tố cáo) và nếu tố cáo sai thì cũng dễ dàng, thuận tiện cho việc xác định hành vi, khẳng định chủ thể của tố cáo chỉ có thể là công dân – khác với chủ thể khiếu nại là công dân (hoặc cán bộ, công chức), cơ quan, tổ chức. Song, trong thực tế nhiều trường hợp tố cáo, cùng lúc (cùng trong 1 đơn) có nhiều người cùng ký và tố cáo cũng chỉ một nội dung hoặc một vấn đề; nếu thực hiện theo đúng quy định của pháp luật trước khi xem xét giải quyết cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu mỗi cá nhân viết đơn tố cáo riêng (mặc dù cùng một nội dung). Song quy định như trên thiếu tính khả thi trong thực tế bởi trong quá trình xử lý hình sự nếu có tố cáo sai (có hành vi vu khống đến mức phải xử lý hình sự), các cơ quan tố tụng có thể xem xét cả khía cạnh hành vi có tổ chức, đồng phạm…, còn nếu tố cáo đúng thì chứng tỏ hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đã được nhiều người biết và mong muốn báo tin để các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết, vấn đề còn lại là: đơn phải được gửi đến đúng cơ quan (người) có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy, trong trường hợp này việc cá thể hoá trách nhiệm (quy định chủ thể của tố cáo) chỉ là công dân sẽ thiếu tính thuyết phục và ở mức độ nào đó còn có sự rườm rà về thủ tục hành chính không cần thiết.
Một trong các nội dung liên quan đến quá trình giải quyết tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền là việc thực hiện quy định về "giữ bí mật". Tại điểm b khoản 1 Điều 57 – Luật Khiếu nại, tố cáo quy định người tố cáo có quyền yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ bút tích của mình. Điều 72 của Luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo phải giữ bí mật cho người tố cáo, không được tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và các thông tin khác có hại cho người tố cáo. Nếu chỉ đọc nội dung để bổ sung kiến thức thì không thấy có gì khúc mắc hiện hữu, nhưng vấn đề cần phải bàn ở đây là tại sao và trong trường hợp nào phải giữ bí mật? Hiện các văn bản pháp luật có liên quan (đến Luật Khiếu nại, tố cáo) chưa có hướng dẫn cụ thể.
Một vấn đề nữa liên quan đến quá trình xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo cần được làm rõ là thuật ngữ "thụ lý để giải quyết" được nêu trong các văn bản pháp luật khiếu nại, tố cáo (Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ…). Nhưng thực tế đến nay các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết nên sẽ khó tránh khỏi việc vận dụng thiếu thống nhất.
Để bảo đảm cho các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo có tính khả thi, dễ hiểu và dễ vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện, sau mỗi giai đoạn triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo, trong khi chưa thể sửa đổi bổ sung Luật, Nghị định, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Thông tư để hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn vướng mắc, hoặc những quy định mới mà nội dung cần phải có hướng dẫn chi tiết. Bên cạnh đó, cần sớm có hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với các vấn đề đã được nêu trên nhằm đảm bảo được tính linh hoạt, tính khả thi của các quy định trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định như sau:
Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, Giám đốc sở và cấp tương đương của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp. Ngoài ra, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại; giải quyết khiếu nại mà Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại, giải quyết khiếu nại có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại.
Tổng Thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại; giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; xử lý các kiến nghị của Tổng Thanh tra quy định.
Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2003 quy định Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh mới có thẩm quyền cấp đất, vì vậy Luật Đất đai chỉ quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cụ thể tại khoản 2 Điều 138 như sau:
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu kiện tới Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong trường hợp khiếu nại lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì quyết định cuả Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu kiện tới Toà án nhân dân.
Bên cạnh đó, Nghị định số 84/2007/NĐ – CP của Chính phủ quy định bổ sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục, bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai cũng chỉ đề cập đến thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài 2 trường hợp nêu trên, việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được dẫn chiếu áp dụng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Thẩm quyền, giải quyết khiếu nại tố cáo – quy định của pháp luật và thực tế áp dụng Ngoài việc kế thừa các văn bản pháp luật trước đó, Luật Khiếu nại tố cáo (KNTC) năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005) đã phát triển nhiều nội dung phù hợp với quá trình đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng tại các địa phương, đặc biệt là ở cấp huyện, xã cho thấy vẫn còn có nhiều bất cập mà chủ yếu là do sự vận dụng thiếu thống nhất một số quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Điều 34, Nghị định số 136/2006/NĐ-CP quy định Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức thì việc quản lý trực tiếp có nhiều nội dung (cơ quan quản lý hồ sơ, quản lý ngạch công chức, cơ quan quản lý cán bộ, cơ quan sử dụng cán bộ…). Với cấp huyện, Chủ tịch huyện là người ra quyết định bổ nhiệm, điều động từ trưởng phòng, ban trở xuống (cả cán bộ không chuyên trách và các chức danh công chức ở cấp xã) và theo quy định trên thì người trực tiếp quản lý cán bộ công chức lại là thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện và Chủ tịch UBND cấp xã nhưng thủ trưởng cơ quan chuyên môn lại không có thẩm quyền giải quyết tố cáo, do đó thuật ngữ “những người do mình quản lý trực tiếp" (nêu tại Điều 34) rất trìu tượng và do đó rất khó xác định đối tượng nào để áp dụng. Chính vì vậy mà trong thực tế mỗi địa phương sẽ có hướng vận dụng theo cách hiểu của mình.
Điều 43, 44 và 45 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP đều sử dụng cụm từ “kết luận" – Người được giao xác minh cũng phải có kết luận bằng văn bản, người giải quyết tố cáo cũng phải có kết luận rõ ràng và gửi văn bản kết luận vụ việc tố cáo cho các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan Thanh tra, cơ quan nhà nước cấp trên). Tuy nhiên, trên thực tế quy định như vậy, vô tình làm khó cho các cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết một vụ việc. Bởi các công đoạn, quy trình xem xét giải quyết đều phải có "kết luận" song không có quy định nào nêu rõ kết luận nào là cuối cùng, văn bản kết luận nào là văn bản gửi các đối tượng có liên quan – văn bản của cơ quan được giao xác minh, hay người có thẩm quyền giải quyết? Do đó, các quy định trên sẽ thiếu tính khả thi trên thực tế, dễ dẫn đến sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền do nhiều “kết luận" gây nên.
Theo quy định tại khoản 5, Điều 2, Luật Khiếu nại, tố cáo thì công dân có quyền tố cáo. Có thể thấy, Luật Khiếu nại, tố cáo đã cá thể hoá trách nhiệm của người tố cáo để họ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi (tố cáo) và nếu tố cáo sai thì cũng dễ dàng, thuận tiện cho việc xác định hành vi, khẳng định chủ thể của tố cáo chỉ có thể là công dân – khác với chủ thể khiếu nại là công dân (hoặc cán bộ, công chức), cơ quan, tổ chức. Song, trong thực tế nhiều trường hợp tố cáo, cùng lúc (cùng trong 1 đơn) có nhiều người cùng ký và tố cáo cũng chỉ một nội dung hoặc một vấn đề; nếu thực hiện theo đúng quy định của pháp luật trước khi xem xét giải quyết cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu mỗi cá nhân viết đơn tố cáo riêng (mặc dù cùng một nội dung). Song quy định như trên thiếu tính khả thi trong thực tế bởi trong quá trình xử lý hình sự nếu có tố cáo sai (có hành vi vu khống đến mức phải xử lý hình sự), các cơ quan tố tụng có thể xem xét cả khía cạnh hành vi có tổ chức, đồng phạm…, còn nếu tố cáo đúng thì chứng tỏ hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đã được nhiều người biết và mong muốn báo tin để các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết, vấn đề còn lại là: đơn phải được gửi đến đúng cơ quan (người) có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy, trong trường hợp này việc cá thể hoá trách nhiệm (quy định chủ thể của tố cáo) chỉ là công dân sẽ thiếu tính thuyết phục và ở mức độ nào đó còn có sự rườm rà về thủ tục hành chính không cần thiết.
Một trong các nội dung liên quan đến quá trình giải quyết tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền là việc thực hiện quy định về "giữ bí mật". Tại điểm b khoản 1 Điều 57 – Luật Khiếu nại, tố cáo quy định người tố cáo có quyền yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ bút tích của mình. Điều 72 của Luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo phải giữ bí mật cho người tố cáo, không được tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và các thông tin khác có hại cho người tố cáo. Nếu chỉ đọc nội dung để bổ sung kiến thức thì không thấy có gì khúc mắc hiện hữu, nhưng vấn đề cần phải bàn ở đây là tại sao và trong trường hợp nào phải giữ bí mật? Hiện các văn bản pháp luật có liên quan (đến Luật Khiếu nại, tố cáo) chưa có hướng dẫn cụ thể.
Một vấn đề nữa liên quan đến quá trình xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo cần được làm rõ là thuật ngữ "thụ lý để giải quyết" được nêu trong các văn bản pháp luật khiếu nại, tố cáo (Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ…). Nhưng thực tế đến nay các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết nên sẽ khó tránh khỏi việc vận dụng thiếu thống nhất.
Để bảo đảm cho các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo có tính khả thi, dễ hiểu và dễ vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện, sau mỗi giai đoạn triển khai thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo, trong khi chưa thể sửa đổi bổ sung Luật, Nghị định, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Thông tư để hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn vướng mắc, hoặc những quy định mới mà nội dung cần phải có hướng dẫn chi tiết. Bên cạnh đó, cần sớm có hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với các vấn đề đã được nêu trên nhằm đảm bảo được tính linh hoạt, tính khả thi của các quy định trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
0 comments:
Post a Comment