HUY HOÀNG
Tranh chấp đất đai do
ngành Tòa án giải quyết ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức
tạp. Mặc dù các văn bản hướng dẫn trong lĩnh vực này rất đồ sộ nhưng
thực tiễn cho thấy nhiều quy định còn vênh, thậm chí trái ngược nhau…
Không thể xác định tài sản riêng – chung
Đây là một khó khăn nổi cộm của ngành Tòa án bởi lẽ
các quy định về vấn đề tài sản chung – riêng của vợ chồng qua các thời
kỳ là hoàn toàn khác nhau. Theo Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1959
thì “vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau
đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Tuy nhiên, đến Luật Hôn nhân
gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đã có sự thay đổi:
“vợ hoặc chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng gồm
tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người đó có quyền nhập
hay không nhập vào tài sản chung vợ chồng”.
Vấn đề là ở chỗ các cặp vợ chồng kết hôn khi Luật Hôn
nhân và gia đình năm năm 1959 đang có hiệu lực, nhưng họ ly hôn sau
ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực thì có xác định tài
sản riêng của vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn là tài sản chung của
vợ, chồng hay không. Thực tiễn này, mỗi tòa án áp dụng một cách khác
nhau.
Chờ hòa giải xong thì …hết thời hiệu.
Theo quy định tại điều 135 khoản 2 Luật Đất đai:
“Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi
đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.
UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên mặt trận, các tổ chức khác để
hòa giải tranh chấp đất đai. Thời hạn hòa giải là 30 ngày làm việc kể từ
ngày UBND cấp xã nhận được đơn”;
Còn theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai:
tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các
bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau: tranh chấp về
quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử đụng dất hoặc
có một trong các loại giấy tờ quy định tại cách khoản 1, 2, 5 của luật
này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết…”;
Khoản 2 Điều 166 BLTTDS xác định “ngày khởi kiện được tính từ ngày đương
sự nộp đơn tại Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi”.
Như vậy, giai đoạn UBND cấp xã thực hiện hòa giải
không được tính vào thời hiệu khởi kiện, dẫn đến nhiều trường hợp được
hòa giải xong gửi đơn đến Tòa án thì đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy
định của pháp luật, làm thiệt hai quyền lợi chính đáng của đương sự.
Để bảo đảm quyền lợi của đương sự, TANDTC đề nghị:
cần quy định đối với trường hợp đã gần hết thời hiệu khởi kiện nhưng
chưa tiến hành thủ tục hòa giải tại xã, phường, thị trấn theo quy định
của Luật Đất đai, thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết, trong quá trình giải
quyết, Tòa án sẽ yêu cầu đương sự gửi đơn đề nghị UBND cấp xã tiến hành
thủ tục hòa giải.
Hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính
Điều 46 Luật khiếu nại tố cáo (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) cho phép người khiếu nại được quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại hoặc khiếu nại không
được giải quyết. Trong khi đó, Điều 138 Luật đất đai năm 2003 quy định:
trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà
tiếp tục khiếu nại thì quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng. Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính cũng không quy định cho đương sự được quyền
khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định giải quyết khiếu nại lần
thứ hai.
Theo TANDTC, việc quy định của Luật đất đai và Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nói trên đã làm hạn chế
quyền khởi kiện vụ án hành chính của công dân, làm phát sinh khiếu nại
bức xúc.
Giải quyết vấn đề này, TANDTC cho rằng cần phải sửa
đổi quy định của Luật đất đai năm 2003 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính cho phù hợp với Luật khiếu nại, tố cáo.
Theo quy định của Luật đất đai và BLTTDS, giai đoạn Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện hòa giải không được tính vào thời hiệu khởi kiện, dẫn đến nhiều trường hợp được hòa giải xong gửi đơn đến Tòa án thì đã hết thời hiệu.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment