MINH HUỆ
Mặc dù đứng thứ 2 thế
giới về xuất khẩu gạo, song theo nhận định của nhiều chuyên gia, trong
thời gian tới Việt Nam vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đe doạ sự mất ổn định an
ninh lương thực (ANLT). Để hướng tới đảm bảo vững chắc ANLT với dân số
ổn định ở mức 120 – 130 triệu dân, có ý kiến cho rằng cần phải sửa đổi
Luật Đất đai năm 2003.
Trưng dụng ồ ạt đất lúa
Trong một cuộc họp mới đây, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và PTNT Cao Đức Phát cho rằng, việc mất ANLT quốc gia hoàn toàn có thể
xảy ra nếu mức độ trưng dụng và chuyển đổi đất lúa diễn ra ồ ạt như
những năm qua và không được điều chỉnh kịp thời. Từ năm 2000 đến năm
2007, diện tích đất trồng lúa đã giảm 361.935ha, bình quân giảm gần
51.705ha/năm. Với diện tích bị giảm như vậy, sản lượng thóc bị thâm hụt
khoảng 400.000 – 500.000 tấn/năm. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới
đời sống và việc làm của ít nhất 100.000 hộ nông dân/năm.
Nếu kiểu trưng dụng đất lúa ồ ạt như trên không được
kìm chế, dự báo đến năm 2020, quỹ đất lúa nước ta chỉ còn khoảng 3,4
triệu hecta. Ngay cả tính đến phương án khai thác thêm 100.000ha đất nhờ
đầu tư thuỷ lợi vào vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và một số vùng
khác thì quỹ đất lúa cũng chỉ đạt 3,5 triệu hecta. Điều đáng nói là
nguy cơ giảm diện tích đất trồng lúa tại ĐBSCL và một số vùng ven biển
rất cao khi phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng do biến đổi khí
hậu. Theo tính toán của các nhà khoa học, chỉ cần nước biển dâng khoảng
1m, sẽ có tới 70 – 80% diện tích đất lúa bị ngập mặn.
Trong khi đó, theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, để đáp ứng
nhu cầu lương thực của 130 triệu người vào năm 2035, chúng ta cần tới
36 triệu tấn thóc. Và muốn đạt được sản lượng thóc này cần duy trì tối
thiểu 3 triệu hecta đất chuyên trồng lúa 2 vụ để có 6 triệu hecta gieo
trồng/năm.
Nhằm đảm bảo ANLT quốc gia, hướng tới xuất khẩu trong
điều kiện đất đai ngày càng thu hẹp, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình
Chính phủ đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến
2030, với mục tiêu chấm dứt tình trạng thiếu đói cục bộ vào năm 2012,
nâng cao mức độ ANLT cho các nhóm có nguy cơ thiếu đói lương thực, cải
thiện chế độ dinh dưỡng hàng ngày cho người dân, giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ dưới 5 tuổi đến năm 2020 còn dưới 5%… Để đạt được những con số
này, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề ra mục tiêu duy trì diện tích trồng lúa
tối thiểu là 3,5 triệu hecta đến năm 2020 (trong đó có 3,1 triệu hecta
chuyên trồng lúa) và mức này sẽ duy trì lâu dài. Nhiều ý kiến cho rằng,
để quỹ đất lúa được bảo vệ, phải sửa đổi Luật Đất đai hiện hành.
Hạn chế quyền tự quyết của địa phương
Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ
Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, để giữ được đất lúa và hoàn thành mục
tiêu Đề án đảm bảo ANLT, chúng ta cần sửa đổi Luật Đất đai theo hướng
hạn chế quyền tự quyết của các địa phương đối với việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất lúa.
Trong tờ trình Thủ tướng Chính phủ về Đề án ANLT quốc
gia đến năm 2020, Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng đề nghị sửa đổi một số
nội dung của Luật Đất đai năm 2003. Theo đó, quy định rõ trách nhiệm và
quyền hạn của chính quyền các cấp trong việc quản lý đất nông nghiệp,
đặc biệt là đất trồng lúa theo quy định; điều chỉnh, khuyến khích phát
triển công nghiệp, đô thị, hạ tầng trên đất không phải là đất lúa, nhất
là lúa hai vụ; nâng mức hạn điền, kéo dài thời gian giao đất, cho thuê
đối với người sử dụng đất lúa để khuyến khích tích tụ ruộng đất, hướng
tới sản xuất lúa hàng hoá.
Ông Lê Huy Ngọ, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT cũng cho rằng, chúng ta cần thay đổi thái độ đối với việc thu hồi
đất đai của nông dân, bởi khi bị thu hồi đất, nông dân không được bàn
bạc, thảo luận mà chỉ được thông báo là thu hồi. Do vậy, bà con thường
phải chịu thiệt thòi về giá đền bù. Đất đai là sở hữu của Nhà nước, song
nó vẫn là hàng hóa, vì vậy phải ứng xử sòng phẳng, công bằng khi giải
quyết việc thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng cho mục đích khác. Bên
cạnh đó, ai cũng khẳng định một điều là muốn đời sống người dân ổn định
thì phải giao đất lâu dài bà con mới yên tâm canh tác.
Được biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã có đề
xuất bỏ cơ chế chủ đầu tư tự thoả thuận với người sử dụng đất đối với
các dự án có mục đích phát triển kinh tế. Muốn thế Nhà nước phải kiện
toàn và tạo cơ chế vốn để các trung tâm khai thác và phát triển quỹ đất
trở thành đơn vị sự nghiệp có thu. Nhà nước sẽ giao đất cho các trung
tâm này để tạo quỹ đất sạch, sau đó tổ chức đấu giá đất và chuyển lại
phần lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước sử dụng cho phát triển hạ tầng,
lợi ích công cộng…
Theo Luật Đất đai năm 2003, thời hạn giao đất nông
nghiệp trồng cây lâu năm không quá 50 năm, đất nông nghiệp trồng cây
hàng năm là 20 năm. Đa số các ý kiến đều cho rằng, không nên quy định
thời hạn sử dụng đất, đặc biệt là với hộ gia đình và nên nới rộng hạn
điền. Hạn mức giao đất hiện nay (mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 3ha
cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố Trung ương thuộc khu vực
Đông Nam Bộ và ĐBSCL; không quá 2ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khác; đất trồng cây lâu năm: không quá
10ha đối với khu vực đồng bằng, không quá 30ha đối với khu vực trung du,
miền núi) đang làm khó cho những hộ gia đình, cá nhân muốn đầu tư làm
ăn lớn. Trong khi ở khu vực ĐBSCL, người nông dân muốn có cuộc sống ổn
định và hướng tới làm giàu từ nông nghiệp thì phải có ít nhất 2ha.
Ông Vũ Công Kích, chuyên viên Vụ Chính sách đất đai
(Tổng cục Quản lý đất đai – Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, qua
thực tiễn tại các địa phương, Luật Đất đai 2003 đang bộc lộ khá nhiều
bất cập, vướng mắc, làm cản trở sự phát triển; có 8 điểm cần sửa đổi,
trong đó giá đất và thời hạn sử dụng đất là những vấn đề nóng. Hiện Bộ
này đã thống nhất sẽ xem xét vấn đề bỏ thời hạn sử dụng đất để tạo điều
kiện cho nông dân mở rộng sản xuất.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, bức xúc lớn nhất
hiện nay là vấn đề định giá đất. Thực tế, địa phương nào định giá mức
cao nhất cũng chỉ bằng 60% so với khung giá của Chính phủ. Giá các loại
đất Nhà nước thu hồi để làm đường, bệnh viện, trường học không gây quá
nhiều bức xúc mà chủ yếu “nóng” ở việc lấy đất nông nghiệp chuyển sang
làm đất đô thị, phi nông nghiệp do lợi nhuận khi đền bù và sau khi
chuyển đổi mục đích sử dụng quá lớn. Vì vậy, ông Phạm Khôi Nguyên, Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định, cơ sở để xác định từng
loại giá đất tới đây sẽ được tổ chức theo hệ thống thống nhất, từ cấp Bộ
đến các sở Tài nguyên và Môi trường. Mặt khác, việc xác định giá đất sẽ
tính ở giá trị đang sử dụng chứ không tính giá trị tới đây sẽ sử dụng
như thế nào để làm căn cứ xây dựng mức giá. Nếu trước đây phải đền bù
cho dân khoảng 200.000 đồng/m2 nhưng sau khi xây dựng đô thị, giá tăng
gấp hàng trăm lần thì tới đây, “bàn tay” của Nhà nước sẽ phải điều chỉnh
sự chênh lệch này.
Bộ, ngành phải tham gia lập quy hoạch sử dụng đất
Trong một buổi làm việc lấy ý kiến các địa phương về
việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường
xác nhận, từ trước đến nay ở cấp Trung ương, việc lập quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất đều do Bộ này đơn phương thực hiện. Điều này đã nảy
sinh những bất cập cũng như điểm yếu trong công tác quy hoạch, dẫn đến
tình trạng khi các ngành khác có kế hoạch sử dụng đất thì quy hoạch
trước đó sẽ phải điều chỉnh, sau nhiều lần đương nhiên sẽ làm vỡ quy
hoạch.
Nhiều ý kiến cho rằng, thời gian tới, nhất thiết phải
gắn kết các bộ ngành trong việc lập quy hoạch và quản lý sử dụng đất.
Trong đó, các bộ như Nông nghiệp và PTNT, Quốc phòng, Giao thông Vận
tải… sẽ có trách nhiệm đưa ra nhu cầu sử dụng đất của bộ mình, căn cứ
vào đó, Nhà nước sẽ đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Riêng Bộ
Nông nghiệp và PTNT-lĩnh vực có nhu cầu sử dụng đất lớn – phải cung cấp
kế hoạch, nhu cầu các loại hình đất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản…
cho công tác quy hoạch, từ đó góp phần bảo vệ nghiêm ngặt đất nông
nghiệp để đảm bảo ANLT.
Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên khẳng định, tới đây, cùng
với đất quốc phòng, đất rừng phòng hộ, đất nông nghiệp sẽ được chốt thật
chặt. Quá trình này sẽ được thực hiện bằng cách vạch chỉ đỏ trên từng
thửa đất chứ không thể chung chung như hiện nay. Nhưng muốn làm được
điều đó, không những phải nâng cao năng lực cho cán bộ ngành tài nguyên
và môi trường và các bộ, ngành liên quan từ cấp tỉnh đến cấp xã (nhất là
kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng thẩm định đất đai) mà còn phải có sự
tham gia, đóng góp ý kiến của người dân vào việc quy hoạch sử dụng đất.
SOURCE: BÁO KINH TẾ NÔNG THÔN
0 comments:
Post a Comment