Trần Văn Biên – Phòng Nghiên cứu Tư pháp Dân sự, Viện Nhà nước và pháp luật
Sau gần 10 năm thi hành, các quy định của
 Bộ luật Dân sự (BLDS) đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập 
hành lang pháp lý cho các ứng xử của các chủ thể khi tham gia vào các 
giao dịch dân sự, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, 
bên cạnh những mặt tích cực đó, BLDS 1995 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập 
đòi hỏi cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung. Bài viết dưới đây xin đóng
 góp một số ý kiến về chế định hợp đồng vay tài sản (HĐVTS) trong Dự 
thảo BLDS (sửa đổi), dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp đầu 
tiên của năm 2005
Trong BLDS 1995, chế định HĐVTS được quy định tại 
Phần thứ ba, chương II, Mục 4, từ Điều 467 đến Điều 475. So với BLDS 
hiện hành, các quy định về HĐVTS trong Dự thảo BLDS (sửa đổi) có sự sửa 
đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi các điều: Điều 467- Hợp đồng vay tài sản, 
Điều 470- Nghĩa vụ của bên cho vay, Điều 471- Nghĩa vụ trả nợ của bên 
vay, Điều 472- Sử dụng tài sản vay, Điều 473- Lãi suất, Điều 474- Thực 
hiện hợp đồng vay không kỳ hạn, Điều 475- Thực hiện hợp đồng vay có kỳ 
hạn;
- Huỷ bỏ hai điều: Điều 468- Hình thức của hợp đồng vay tài sản, Điều 469- Quyền sở hữu đối với tài sản vay;
- Bổ sung mới một điều: Điều 475a- Chơi hụi, họ.
1. Hợp đồng vay tài sản
Đối chiếu với BLDS hiện hành, Điều 467 Dự thảo BLDS (sửa đổi) đã thay câu “chỉ phải trả lãi, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định” bằng “trả lãi theo thoả thuận”.
———————————————————————————————————
Điều 467 của Dự thảo BLDS (sửa đổi) quy định: “Hợp
 đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên cho vay giao
 cho bên vay một khoản tiền hoặc vật; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn
 trả tiền lãi hoặc vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và trả 
lãi theo thoả thuận”.
———————————————————————————————————
Trong HĐVTS, điều khoản về đối tượng là một trong 
những điều khoản chủ yếu, nó là căn cứ để thực hiện các điều khoản khác.
 Theo Điều 476, đối tượng của HĐVTS có thể là tiền hoặc vật (thực tiễn 
xét xử thường là tiền). Theo định nghĩa tiền tệ của Luật Ngân hàng nhà 
nước thì  tiền bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá 
trị như tiền (1). Như vậy, bên cạnh đối tượng vay phổ biến là đồng nội 
tệ (VND) thì ngân phiếu, cổ phiếu, trái phiếu… cũng có thể là đối tượng 
của HĐVTS. Và có một vấn đề đặt ra, ngoại tệ có được xem là đối tượng 
của HĐVTS?
Khoản 2, Điều 1, Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối quy định: “Tại
 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi hoạt động ngoại hối của tổ
 chức, cá nhân phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các quy 
định khác có liên quan của pháp luật. Ngoại hối chỉ được lưu hành qua hệ
 thống ngân hàng, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại hối”.
 Và tại Thông tư số 01/1999/TT- NHNN, ngày 16/04/1999 của Ngân hàng nhà 
nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định 63 nêu rõ: “Trên lãnh thổ
 Việt Nam, nghiêm cấm người cư trú, người không cư trú là tổ chức, cá 
nhân mua bán, thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ và niêm yết giá
 hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trừ trường hợp được phép quy định trong
 Thông tư này”.
Theo Nghị định về quản lý ngoại hối, cá nhân, tổ chức
 không được tự do mua bán, thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ 
trừ trường hợp… đến khi các bên có tranh chấp và kiện nhau ra Toà án, 
lúc đó hợp đồng mới bị tuyên là vô hiệu. Theo chúng tôi, việc Nhà nước 
ban hành những quy định nhằm hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trong các 
giao dịch, nhưng thực tế nó vẫn diễn ra và diễn ra khá phổ biến, thì 
chúng ta nên thừa nhận việc sử dụng đó. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập 
kinh tế quốc tế, việc quy định khá chặt chẽ như vậy sẽ làm giảm phần nào
 sức mua bán, tiêu dùng và các giao dịch khác trong đời sống xã hội. Còn
 nếu vì một lý do nào đó (đảm bảo quản lý nhà nước về ngoại hối, ổn định
 thị trường tiền tệ, tránh tình trạng đôla hay euro hoá thị trường tiền 
tệ…) mà vẫn cần giữ quy định này, thì chúng ta cần cụ thể hoá vào trong 
Dự thảo BLDS (sửa đổi) để nó phát huy hơn nữa hiệu quả điều chỉnh. Bởi ở
 nước ta, người dân ít tiếp xúc với văn bản luật, nếu có tiếp xúc thì 
thường là các bộ luật, luật, còn các văn bản dưới luật (văn bản hướng 
dẫn thi hành luật) thì ít ai biết đến.
Mặt khác, yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung BLDS lần 
này theo hướng là Bộ luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội 
được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự 
chịu trách nhiệm. Do vậy, BLDS cần quy định các nguyên tắc chung nhất về
 hợp đồng. Các quy định về HĐVTS cần phải bao quát cả đến các quan hệ 
cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng, mà theo pháp luật ngân
 hàng, tổ chức tín dụng là tổ chức được phép hoạt động ngoại hối. Vì 
thế, việc bổ sung thêm đối tượng là ngoại tệ vào Điều 467 là cần thiết.
Bên cạnh đó, Điều 467 của Dự thảo BLDS (sửa đổi) cũng
 cần quy định cụ thể và tách bạch các đối tượng là vàng, kim khí quý, đá
 quý, không nên để nó bao gồm trong đối tượng là vật. Bởi vàng, kim khí 
quý, đá quý là những tài sản có giá trị đặc biệt, đối với vàng tiêu 
chuẩn quốc tế theo quy định của pháp luật ngân hàng nó còn là ngoại hối 
và được quản lý theo quy chế giống như là ngoại tệ mà chúng tôi đã đề 
cập ở trên. Việc quy định tách bạch như vậy còn nhằm giải quyết vấn đề 
lãi suất trong các HĐVTS có đối tượng là vàng – một vấn đề mà BLDS và 
pháp luật hiện hành vẫn còn bỏ ngỏ (2), nhưng cũng chưa được Dự thảo 
BLDS (sửa đổi) quy định.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đề nghị Điều 467 của Dự thảo BLDS (sửa đổi) nên được viết lại như sau:
1. Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các
 bên theo đó bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền là nội tệ hoặc 
ngoại tệ, các giấy tờ có giá như tiền, vàng, kim khí quý, đá quý hoặc 
vật; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả tiền lãi hoặc vật cùng loại 
theo đúng số lượng, chất lượng và trả lãi theo thoả thuận;
2. Đối với những hợp đồng vay tài sản có đối 
tượng là ngoại tệ khi giao kết phải tuân theo quy định pháp luật của nhà
 nước về quản lý ngoại hối3.
2. Hình thức của hợp đồng vay tài sản
Thực tế xét xử cho thấy, các HĐVTS giao kết bằng lời 
nói nhiều hơn các hợp đồng giao kết bằng văn bản. Đối với những HĐVTS 
giao kết bằng lời nói nếu không có bên thứ ba làm chứng, đã tạo rất 
nhiều khó khăn cho thẩm phán trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ
 để giải quyết tranh chấp.
—————————————————————————————————–
Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát giải quyết án về HĐVTS năm 1998 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao: “Về
 nội dung của bản kết luận cần phân tích, đánh giá tình tiết của vụ án, 
đặc biệt là chú ý đến nội dung bản hợp đồng vay tài sản (nếu có bản hợp 
đồng). Nếu chỉ là hợp đồng miệng cần chú ý các lời khai của các bên liên
 quan đến việc vay tài sản, từ đó đánh giá những nội dung mà hai bên 
thống nhất (tài sản gốc, lãi). Những trường hợp chỉ một bên khai hoặc 
tuy hai bên có khai nhưng có mâu thuẫn, thì thông thường lời khai của bị
 đơn (bên vay) là có cơ sở. Trường hợp bên cho vay có khai cho bên vay 
nhiều khoản tài sản, nhưng có những khoản tài sản Toà án chưa hỏi bên 
cho vay thì yêu cầu làm rõ trước khi kết luận vụ án. Trường hợp đối 
tượng tài sản mà nhà nước cấm giao dịch thì trong kết luận cần căn cứ 
Điều 137 BLDS để yêu cầu Toà án xử huỷ bỏ hợp đồng vì vô hiệu và tịch 
thu tài sản giao dịch sung quỹ nhà nước hoặc chuyển cho cơ quan có thẩm 
quyền giải quyết”.
———————————————————————————————
Nhìn ra một số nước, pháp luật về hợp đồng của họ quy
 định với tài sản vay có giá trị là bao nhiêu thì hợp đồng vay phải giao
 kết dưới hình thức văn bản. Ví dụ, Điều 653, Bộ Dân sự và Thương mại 
Thái Lan quy định nếu vay quá 50 bạt thì phải thành lập văn bản. Còn ở 
Trung Quốc, theo Điều 197 Luật Hợp đồng, thì việc vay tiền dùng hình 
thức văn bản, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, thường là đối 
với những hợp đồng có giá trị tiền vay nhỏ.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Dự thảo BLDS (sửa đổi) 
không nên huỷ bỏ điều này, mà cần quy định chi tiết hơn về hình thức của
 HĐVTS để tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có cơ sở pháp lý để giải 
quyết tranh chấp phát sinh từ HĐVTS; đồng thời đảm bảo được quyền lợi 
hợp pháp của các bên, bên vay không còn lý do để từ chối việc vay mượn 
của mình, còn bên cho vay không thể ép buộc bên vay hoặc lợi dụng giấy 
tờ vay nợ không rõ ràng để đi đòi nợ; theo hướng: với giá trị tài sản 
bao nhiêu thì HĐVTS phải được lập thành văn bản, chẳng hạn như:
Điều 468- Hình thức hợp đồng vay tài sản
1. Hợp đồng vay tài sản có thể được giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản;
2. Nếu tài sản trong hợp đồng vay có giá trị từ 1.000.000 đồng trở lên thì hợp đồng phải được lập thành văn bản.
3. Nghĩa vụ của bên cho vay
So với BLDS hiện hành, Điều 470 trong Dự thảo BLDS 
(sửa đổi) không quy định nghĩa vụ của bên cho vay một cách chung chung 
mà quy định nghĩa vụ của bên cho vay đối với từng trường hợp tài sản 
trong hợp đồng vay là tiền hay vật, vay vật có lãi và vay vật không có 
lãi. Tuy nhiên, trong điều luật này cần bổ sung thêm một khoản quy định 
nghĩa vụ của bên cho vay không được nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi vào thời gian tiếp theo nhằm
 bảo vệ người vay- bên yếu thế về kinh tế. Trong dân luật truyền thống, 
việc chủ nợ lợi dụng sự khó khăn của con nợ bắt con nợ làm lại văn tự và
 “đập lãi thành vốn” để tăng thêm số tiền cho vốn vay mà vẫn có thể tiếp tục thu lãi được gọi là hình thức cho vay phúc lợi.
 ở nước ta, dưới triều Lê, hình thức cho vay này bị nghiêm cấm. Nếu chủ 
nợ tính gồm lãi vào gốc, rồi bắt làm văn tự lại, thì họ phải chịu hình 
phạt nặng hơn sự lạm thu tiền lãi trái phép một bậc4. Thiết nghĩ, đây là
 một giá trị của cổ luật mà chúng ta nên kế thừa khi sửa đổi BLDS lần 
này. Việc Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 của Toà án nhân 
dân tối cao, Viên kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính về
 hướng dẫn xét xử và thi hành án về tài sản đã chấp nhận để các bên có 
thể nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi vào thời gian tiếp theo là không phù
 hợp với tinh thần của Điều 4, Điều 135 của BLDS hiện hành, cũng như 
không phù hợp với truyền thống và bản chất nhân đạo trong pháp luật của 
Nhà nước ta.
Do đó, Điều 470 của Dự thảo BLDS (sửa đổi) nên quy định như sau:
Điều 470- Nghĩa vụ của bên cho vay
Bên cho vay có các nghĩa vụ sau đây:
1. Trong trường hợp cho vay tài sản là tiền hoặc 
các giấy tờ có giá như tiền, thì phải giao tiền cho bên vay đầy đủ, đúng
 thời hạn đã thoả thuận;
2. Trong trường hợp tài sản cho vay là vàng, kim 
khí quý, đá quý hoặc vật, thì phải giao tài sản đúng số lượng, chất 
lượng, thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận, nếu:
a. Vay không có lãi mà tài sản vay không bảo đảm 
chất lượng do có khuyết tật, nếu bên cho vay ngay tình không biết về 
khuyết tật của tài sản, thì bên cho vay không có nghĩa vụ đổi lại tài 
sản vay; trong trường hợp bên cho vay biết tài sản có khuyết tật mà vẫn 
cho vay, thì phải đổi lại tài sản;
b. Vay có lãi mà tài sản không đảm bảo chất lượng, thì bên cho vay có nghĩa vụ đổi lại tài sản vay và bồi thường thiệt hại.
3. Đối với hợp đồng vay tài sản có lãi, khi đến 
hạn trả nợ mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ, thì bên cho vay không 
được thoả thuận với bên vay nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi vào thời 
gian tiếp theo.
4. Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 475 của Bộ luật này.
4. Nghĩa vụ của bên vay
Dự thảo BLDS (sửa đổi) cũng quy định tách bạch nghĩa vụ của người vay trong trường hợp vay tài sản là tiền và vật.
Khoản 5, Điều 471 của Dự thảo BLDS (sửa đổi) tương ứng với khoản 4, Điều 471 của BLDS hiện hành quy định: “Trong
 trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc 
trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả 
t-ơng ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ trừ trường hợp có 
thoả thuận khác”.
ở đây, Dự thảo BLDS (sửa đổi) không quy định lãi suất
 đối với khoản nợ chậm trả đó là bao nhiêu, trong BLDS hiện hành lãi 
suất đối với khoản nợ chậm trả này được tính theo lãi suất tiết kiệm có 
kỳ hạn của Ngân hàng nhà nước. Nếu quy định không rõ ràng như thế, khi 
các bên có tranh chấp, Toà án sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết. 
Tôi cho rằng, Dự thảo BLDS (sửa đổi) cần quy định lãi suất trong trường 
hợp này được tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Do
 đó, Điều 471 Dự thảo BLDS (sửa đổi) nên viết lại là:
Điều 471- Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền, thì phải trả đủ tiền hoặc các giấy tờ có giá như tiền khi đến hạn;
2. Trong trường hợp vay tài sản là vàng, kim khí 
quý, đá quý hoặc vật, thì phải trả tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
 chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
3. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật 
hoặc các tài sản khác không phải là tiền, thì có thể trả bằng tiền theo 
theo giá trị của vật hoặc tài sản đã vay tại địa điểm và thời điểm trả 
nợ, nếu được bên cho vay đồng ý;
4. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
5. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến 
hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi
 đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước 
công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, trừ trường
 hợp các bên có thoả thuận khác;
6. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên
 vay không trả hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi trên nợ 
gốc tương đương với thời hạn vay và thời hạn chậm trả (5) tại thời điểm trả nợ, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
5. Lãi suất
Lãi suất trong HĐVTS là tỷ lệ nhất định mà bên vay 
phải trả thêm vào số tài sản đã vay trên một đơn vị thời gian, nếu các 
bên có thoả thuận về việc trả lãi hoặc pháp luật quy định về việc trả 
lãi. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả
 thuận hoặc pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất, số lượng tài sản 
vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một khoản lãi thường là bằng 
tiền, nhưng cũng có trường hợp các bên thoả thuận với nhau trả lãi bằng 
tài sản quy đổi, ví dụ như vay gỗ trả lãi bằng phân đạm.
Quy định về lãi suất tại Điều 473 của BLDS hiện hành 
có nhiều điểm không phù hợp, vừa thiếu, vừa mâu thuẫn với các quy định 
khác trong hệ thống pháp luật, gây nhiều khó khăn trong quá trình giải 
quyết tranh chấp (6).
Thứ nhất, mức lãi suất: nếu quy 
định cách tính lãi suất theo lãi suất cho vay cao nhất của ngân hàng 
th-ơng mại đối với loại cho vay t-ơng ứng và lãi suất tiền gửi tiết kiệm
 có kỳ hạn trung bình do các ngân hàng thương mại ấn định, sẽ làm mất 
nhiều thời gian của Toà án khi giải quyết các tranh chấp về HĐVTS. Hiện 
nay ở nước ta, nếu kể tên tất cả các ngân hàng thương mại thuộc hai loại
 hình: ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng th-ơng mại cổ phần, 
thì con số này lên tới trên 40. Khoản 1, Điều 473 của Dự thảo BLDS (sửa 
đổi) chỉ quy định chung chung như vậy, khi xét xử, Toà án sẽ không biết 
chọn mức lãi suất của ngân hàng thương mại nào và tất nhiên dẫn đến việc
 áp dụng pháp luật thiếu thống nhất. Theo khoản 2, nếu các bên có thoả 
thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất, thẩm phán sẽ 
mất rất nhiều thời gian tìm hiểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm của từng 
ngân hàng thương mại rồi cộng lại chia trung bình ra mức lãi suất áp 
dụng cho vụ án. Hiện nay đối với từng thời điểm nhất định, Ngân hàng nhà
 nước thường công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất 
cho vay th-ơng mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín 
dụng được lựa chọn, để các tổ chức tín dụng tham khảo và định hướng lãi 
suất thị trường. Dự thảo BLDS (sửa đổi) nên lấy mức lãi suất cơ bản này 
làm tiêu chuẩn để quy định cách tính lãi suất tại Điều 473.
Thứ hai, việc tính lãi đối
 với hợp đồng vay tài sản là vàng vẫn đang bị bỏ ngỏ. Theo điểm 5, mục 
I, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 của Toà án nhân dân tối
 cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính Vè việc 
hướng dẫn xét xử và thi hành án về tài sản: “Trong trường hợp đối tượng HĐVTS là vàng, thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng nhà nước có quy định”.
 Tuy nhiên, thực tế chưa có văn bản nào của Ngân hàng nhà nước quy định 
về vấn đề này dẫn đến việc xét xử tranh chấp về hợp đồng vay vàng có lãi
 suất gặp nhiều vướng mắc, mặc dù các bên có thoả thuận trên cơ sở bình 
đẳng và tự nguyện. Đề nghị Ban soạn thảo phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
 để có quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ ba, giới hạn thu lãi: trong cổ luật nước ta, để 
bảo vệ bên vay, ngoài việc quy định chủ nợ không được thu quá lãi suất 
tối đa do luật định, nhà làm luật còn ấn định một giới hạn tối đa về 
tiền lãi: “…bất luận thời hạn vay dài bao nhiêu năm, cũng không được tính tiền lãi quá một gốc mỗi lãi”(7) hay “…chủ nợ chỉ có thể đòi tiền vốn và một số tiền lãi ngang với tiền vốn”(8). Dự thảo BLDS (sửa đổi) nên tham khảo kế thừa giá trị của cổ luật vào Điều 473.
6. Hợp đồng vay không kỳ hạn và có kỳ hạn
Để thống nhất về mặt khái niệm, Dự thảo BLDS (sửa đổi) cần sửa đổi các cụm từ “hợp đồng vay không kỳ hạn” và “hợp đồng vay có kỳ hạn” thành “hợp đồng vay không xác định thời hạn” và “hợp đồng vay có xác định thời hạn”.
 Liên hệ với pháp luật ngân hàng khi quy định về hợp đồng cho vay tín 
dụng – một hợp đồng gần gũi vớiHĐVTS trong BLDS ta sẽ thấy rõ điều này.
“Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi
 khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi
 vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín 
dụng và khách hàng”(9). Còn “kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời 
gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và 
khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một 
phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng” (10).
Như vậy, theo cách định nghĩa trên, thời hạn cho vay 
và kỳ hạn trả nợ có điểm giống nhau: đều là căn cứ xác định thời điểm để
 bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Tuy nhiên, giữa chúng có 
điểm khác nhau:
- Nếu thời hạn cho vay là một khoảng thời gian, thì kỳ hạn là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay;
- Hết thời hạn cho vay, bên vay có nghĩa vụ trả hết 
nợ gốc và lãi cho bên cho vay; còn đến kỳ hạn bên vay chỉ có nghĩa vụ 
trả một phần trong toàn bộ tài sản vay.
Tuy nhiên, có trường hợp các bên không có thoả thuận 
về kỳ hạn trả nợ, khi hết thời hạn cho vay thì đồng thời cũng đến kỳ hạn
 trả nợ. Trong trường hợp này, thời hạn cho vay trùng với kỳ hạn trả nợ 
bên vay có nghĩa vụ phải trả hết nợ gốc và lãi. Nếu hiểu theo cách này, 
thì việc đồng nhất khái niệm thời hạn cho vay và kỳ hạn như trong BLDS 
hiện hành cũng như trong Dự thảo BLDS (sửa đổi) là không chính xác./.
=================================================================
1. Khoản 1, Điều 9 của Luật Ngân hàng nhà nước năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003) 
2 .Xem Trần Văn Biên, Một số vuớng mắc trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản liên quan đến
trả lãi và lãi suất, Tạp chí Nhà n-ớc và Pháp luật, số 11/2001.
3. Nếu việc hạn chế sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch đ-ợc sửa đổi theo h-ớng thông thoáng, thì có thể bỏ đoạn
này.
trả lãi và lãi suất, Tạp chí Nhà n-ớc và Pháp luật, số 11/2001.
3. Nếu việc hạn chế sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch đ-ợc sửa đổi theo h-ớng thông thoáng, thì có thể bỏ đoạn
này.
4. Đoạn cuối của Điều 587, Bộ luật Hồng Đức.
5. Khoản 6 Điều 471 Dự thảo BLDS (sửa đổi) cần bổ sung thêm đoạn được kẻ dưới “và thời hạn chậm trả” để đảm
bảo quyền lợi của bên cho vay, cũng như nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
6. Cụ thể hơn xem: Trần Văn Biên, Một số vướng mắc trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản
liên quan đến trả lãi và lãi suất, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2001.
7. Điều 587 Bộ luật Hồng Đức.
8. Điều 134 Bộ luật Gia Long.
9. Khoản 2, Điều 3 của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN, ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước).
10.  Khoản 3, Điều 3 của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN, ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước).
————————————————————————————————————
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 9/2004



 1:37 PM
1:37 PM
 Hoàng Phong Nhã
Hoàng Phong Nhã 
 
 Posted in:
 Posted in:  
0 comments:
Post a Comment