PHÍ THỊ QUỲNH NGA – Bảo Việt Nhân thọ
Xét
trên phương diện lý thuyết, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều
bên, qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí (còn gọi là sự “ưng thuận”)
của các bên với các mong muốn và chủ đích đạt được những hệ quả pháp lý
nhất định là việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ ràng
buộc các bên trong quan hệ hợp đồng. Với vai trò là luật do các bên
trong quan hệ hợp đồng tạo ra, về mặt lý luận, các điều khoản quy định
trong hợp đồng cần phải đảm bảo các tiêu chí: đầy đủ, rõ ràng, thống
nhất, đơn nghĩa, dễ hiểu trong đó tiêu chí “rõ ràng” là quan trọng nhất.
Tuy nhiên, không ít hợp đồng tồn tại trên thực tế không phải lúc nào
cũng đảm bảo được các tiêu chí nói trên dẫn đến việc các bên không có
cách hiểu thống nhất về nội dung hợp đồng và vấn đề giải thích hợp đồng
để giải quyết tranh chấp được đặt ra. Mục đích của việc giải thích hợp
đồng là nhằm làm rõ nghĩa và phạm vi của hợp đồng hay một điều khoản cụ
thể của hợp đồng. Trong phạm vi bài viết này muốn đề cập và trao đổi với
quý độc giả về vấn đề “giải thích hợp đồng bảo hiểm”.
Hợp đồng
bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng được điều
chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo hiểm là một loại hợp đồng gia nhập (còn
gọi là hợp đồng theo mẫu). Đặc điểm này được thể hiện ở chỗ doanh nghiệp
bảo hiểm là bên đưa ra các điều khoản mẫu (do Bộ Tài chính ban hành
hoặc phê duyệt) để khách hàng xem xét trả lời chấp nhận trong một khoảng
thời gian hợp lý; nếu khách hàng đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa
với việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo điều khoản mẫu mà
doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra. Do đó, về nguyên tắc người mua bảo hiểm
không được đàm phán, thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung điều khoản của
hợp đồng bảo hiểm.
Xuất phát
từ sự “yếu thế” nói trên của người mua bảo hiểm, tính phức tạp và khó
hiểu của các điều khoản bảo hiểm đặc biệt là điều khoản bảo hiểm nhân
thọ, và để tránh việc các doanh nghiệp bảo hiểm tìm cách “chèn ép” khách
hàng, dồn họ vào tình thế khó lựa chọn cũng như hạn chế vi phạm nguyên
tắc “tự do khế ước” trong giao dịch, các nhà làm luật đã đưa ra quy định
về nghĩa vụ giải thích hợp đồng bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người mua bảo hiểm như sau:
- Thứ nhất,
“khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm
cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, nghĩa vụ giải
thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm…” (khoản 1, Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm).
- Thứ hai, “trong
trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản
đó được giải thích theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm” (Điều 21
Luật kinh doanh bảo hiểm)”.
Như vậy,
theo các quy định trên thì nghĩa vụ giải thích hợp đồng bảo hiểm trước
hết thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm (thực hiện trực tiếp hoặc thông qua
đại lý) và việc giải thích này phải theo hướng có lợi cho người mua bảo
hiểm nếu điều khoản không rõ ràng. Khi có tranh chấp giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và khách hàng liên quan đến những quy định của điều khoản hợp
đồng, toà án có nghĩa vụ làm sáng tỏ ý nghĩa và nội dung của hợp đồng
bảo hiểm đó và thường sẽ ưu tiên giải thích theo hướng có lợi hơn cho
người mua bảo hiểm và/hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Về vấn đề
này, khoản 2 Điều 406 Bộ luật dân sự năm 1995 và khoản 2 Điều 407 Bộ
luật dân sự năm 2005 cũng quy định “Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu
có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu
bất lợi khi giải thích điều khoản đó”. Đây là quy định hợp lý bởi lẽ
doanh nghiệp bảo hiểm là bên soạn thảo hợp đồng, do đó về nguyên tắc họ
có quyền đồng thời có nghĩa vụ diễn đạt các điều khoản của hợp đồng một
cách rõ ràng, mạch lạc còn người tham gia bảo hiểm hay người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm là bên phải chấp nhận hoặc bác bỏ toàn bộ các điều
khoản đó (không tham gia bảo hiểm) mà không được “mặc cả” bất cứ điều
gì.
Tuy nhiên,
Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ dừng lại ở quy định nguyên tắc giải thích
hợp đồng bảo hiểm mà không nói đến cách thức giải thích hợp đồng này như
thế nào. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải thích hợp đồng bảo
hiểm phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật nếu có, bởi về
nguyên tắc áp dụng luật, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
trước hết sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm. Nếu Luật
kinh doanh bảo hiểm không quy định hoặc dẫn chiếu đến việc áp dụng luật
khác (Bộ luật dân sự và các quy định quy định khác của pháp luật có liên
quan) thì luật khác sẽ được áp dụng (Điều 12 khoản 4 Luật kinh doanh
bảo hiểm). Trong trường hợp này, Điều 408 Bộ luật dân sự năm 1995 có quy
định cách thức giải thích hợp đồng như sau:
1. Khi hợp
đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp
đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều
khoản đó.
2. Khi một
điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải chọn
nghiã nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên.
3. Khi hợp
đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải
thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng.
4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
5. Khi hợp
đồng thiếu một số điều khoản không thuộc nội dung chủ yếu, thì có thể
bổ sung theo tập quán đối với đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao
kết hợp đồng.
6. Các
điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với
nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung
hợp đồng”.
Điều 409
Bộ luật dân sự năm 2005 cũng kế thừa các quy định về cách thức giải
thích hợp đồng tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6 Điều 408 nói trên. Tuy nhiên,
Điều 409 Bộ luật dân sự năm 2005 đã sửa từ “…thiếu một số điều khoản không thuộc nội dung chủ yếu…” của khoản 5 Điều 408 thành “…thiếu một số điều khoản…” và có bổ sung mới hai cách thức giải quyết sau:
7. Trong
trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn ngữ từ
sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được sử dụng để giải
thích hợp đồng.
8. Trong
trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu
thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế”.
Rõ ràng từ
những quy định nói trên, thì việc giải thích hợp đồng bảo hiểm theo
hướng có lợi cho người mua bảo hiểm khi có điều khoản không rõ ràng phải
được đặt trong mối quan hệ với các cách thức giải thích đã được đề cập
tại Bộ luật dân sự hiện hành chứ không được áp dụng một cách tuỳ tiện,
duy ý chí.
Giải thích
hợp đồng không phải là vấn đề mới đối với các nước trên thế giới bởi từ
trước công nguyên, những luật gia thuộc thế hệ đầu tiên của La Mã đã
đặt nền móng cho hoạt động này. Tuy nhiên, không phải luật pháp nước nào
cũng quy định giống nhau về cách thức giải thích hợp đồng. Theo Bộ luật
dân sự Pháp, khi giải thích hợp đồng trong trường hợp các điều khoản
của hợp đồng có điểm không rõ ràng thì phải xem xét ý định đích thực của
các bên ký kết (Điều 1156). Nếu một điều khoản hợp đồng có thể được
giải thích theo hai cách khác nhau, thì phải chọn cách giải thích nào
làm cho điều khoản đó có hiệu lực và loại trừ cách giải thích làm cho
điều khoản vô hiệu (Điều 1157). Trường hợp một điều khoản của hợp đồng
có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau, thì phải giải thích theo
nghĩa phù hợp nhất với nội dung cơ bản của hợp đồng (Điều 1158). Giải
thích hợp đồng dựa vào tập quán, thông lệ (Điều 1159 và 1160). Giải
thích nội dung các điều khoản cụ thể phải dựa vào nội dung của hợp đồng
nói chung, bởi vì nội dung từng điều khoản cụ thể của hợp đồng không thể
mâu thuẫn nhau (Điều 1161) và trong trường hợp có nghi ngờ về nội dung
của một điều khoản hợp đồng, thì phải giải thích hợp đồng điều khoản đó
theo hướng có lợi cho người có nghĩa vụ (Điều 1162).
Theo Công
ước Viên năm 1980, “tuyên bố và cách xử sự khác của một bên được giải
thích theo đúng ý định của họ nếu bên kia biết hoặc không thể biết ý
định ấy. Nếu không đạt được mục đích đó, thì tuyên bố và cách xử sự khác
của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu
người đó được đặt vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn cảch
tương tự cũng sẽ hiểu như thế. Và khi xác định ý muốn của một bên hoặc
theo cách hiểu không thường của một người có lý trí, cần phải tính đến
mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thực tế mà các bên
đã có trong mối quan hệ tương hỗ của họ, các tập quán và hành vi sau đó
của các bên” (Điều 8).
Tại Việt
Nam, xung quanh vấn đề giải thích hợp đồng bảo hiểm, có rất nhiều quan
điểm khác nhau trong đó có không ít những quan điểm xuất phát từ việc
không hiểu hoặc cố tình không hiểu cách thức giải thích hợp đồng nên đưa
ra nhận định chủ quan của mình, xúi giục những người mua bảo hiểm chưa
am hiểu về lĩnh vực pháp luật, khởi kiện doanh nghiệp bảo hiểm gây mất
ổn định xã hội, bản thân người mua bảo hiểm cũng mất nhiều thời gian,
tiền bạc theo đuổi vụ kiện do bị thua kiện. Chúng tôi xin nêu một vụ
kiện sau làm ví dụ điển hình:
Ông Nguyễn
Văn T. và Bà Ngô Thị K. tham gia Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ thời hạn 05
năm cho chính mình với số tiền bảo hiểm (STBH) ghi tại Phụ lục 1- Mục
III của Hợp đồng Bảo hiểm như sau:
+ STBH của Hợp đồng chính (Bảo hiểm và tiết kiệm) | : | 20.000.000 đồng |
+ STBH của Điều khoản riêng I (Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn) | : | 20.000.000 đồng |
+ STBH của Điều khoản riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu thuật) | : | 20.000.000 đồng |
Đến ngày
đáo hạn Hợp đồng bảo hiểm nói trên, Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đã
thanh toán cho Ông T. và Bà K. với STBH của Hợp đồng chính cho mỗi người
là 20.000.000 đồng cộng với lãi chia thêm.
Được sự tư
vấn của Văn phòng Luật sư HV, ông T. và bà K. đã làm đơn yêu cầu Bảo
Việt Nhân thọ PT thanh toán thêm STBH của các điều khoản riêng I, II với
lý do viện dẫn là tại Điều 2 điểm 2.1 điều khoản Hợp đồng chính có ghi:
“Đến ngày đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Công ty sẽ thanh toán cho
người được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 1-
Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm”.
Thực tế,
đề nghị của bà K. với sự viện dẫn như trên là không có cơ sở pháp lý do
đã hiểu điều khoản này một cách quá cứng nhắc, máy móc theo hướng “chẻ
chữ” mà không căn cứ vào các cách thức giải thích hợp đồng đã được quy
định tại Điều 408 Bộ luật dân sự năm 1995 (do tại thời điểm giao kết và
thực hiện hợp đồng bảo hiểm của bà K. và ông T., Bộ luật dân sự 2005
chưa ra đời nên Bảo Việt lấy Bộ luật dân sự 1995 để giải thích). Lý do
như sau:
Thứ nhất,
bản chất của hợp đồng chính và điều khoản riêng I, II mà ông T. và bà K.
đã tham gia là hoàn toàn khác nhau. Hợp đồng chính là loại sản phẩm bảo
hiểm hỗn hợp vừa tiết kiệm vừa bảo hiểm (nghĩa là trong thời hạn có
hiệu lực của hợp đồng nếu người được bảo hiểm (NĐBH) gặp rủi ro thương
tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc bị tử vong thì Công ty bảo hiểm sẽ trả STBH
và nếu khi hợp đồng đáo hạn mà NĐBH còn sống thì sẽ được nhận STBH). Còn
điều khoản riêng I (Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn)
và riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu thuật) đơn thuần là sản phẩm bảo hiểm
rủi ro (nghĩa là chỉ có rủi ro quy định trong các điều khoản riêng này
xảy ra đối với NĐBH thì Công ty bảo hiểm mới trả tiền bảo hiểm theo các
điều khoản riêng này). Điều này được giải thích rõ ngay tại Điều 2 điều
khoản riêng I, II “Số tiền bảo hiểm theo điều khoản này được hiểu là
giới hạn trách nhiệm tối đa của Công ty bảo hiểm đối với hậu quả của
từng rủi ro được bảo hiểm xảy ra đối với Người được bảo hiểm”. Đây cũng
là lý do tại sao số phí bảo hiểm của hợp đồng chính lại gấp rất nhiều
lần số phí bảo hiểm của điều khoản riêng trong khi có cùng STBH .
Thứ hai,
giới hạn trách nhiệm của Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đối với người mua
bảo hiểm, người được bảo hiểm đã được phân định rõ ràng, tách biệt tại
phần quyền lợi bảo hiểm của điều khoản hợp đồng chính và điều khoản
riêng I, II. Theo đó, Công ty bảo hiểm thanh toán STBH cho NĐBH khi hợp
đồng đáo hạn chỉ được đề cập tại Điều 2 của điều khoản hợp đồng chính
còn tại điều khoản riêng I, Công ty bảo hiểm chỉ trả STBH khi “NĐBH bị
thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn” (phần III) và điều khoản riêng
II khi “NĐBH bị phẫu thuật do bệnh tật hoặc tai nạn”(Điều 5 phần II).
Nếu không bị rủi ro, tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm thì khi
đáo hạn, NĐBH không được nhận số tiền theo điều khoản riêng này.
Thứ ba,
việc ký kết Hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ giữa Công ty bảo hiểm PT và ông
T., bà K. trước tiên được dựa trên cơ sở là Giấy yêu cầu bảo hiểm mà
Ông, Bà đã tự kê khai. Ngay tại phần đầu của Giấy yêu cầu bảo hiểm này
đã ghi: “Sau khi tìm hiểu Điều khoản, Biểu phí do Bộ Tài chính ban hành
kèm theo Quyết định số …, tôi đồng ý tham gia bảo hiểm …và làm Giấy yêu
cầu bảo hiểm này kê khai đầy đủ, trung thực các chi
tiết sau đây”. Đồng thời tại Điểm 2 Phần II (Điều kiện bảo hiểm) của
Giấy yêu cầu bảo hiểm Ông, Bà cũng ghi rõ: STBH của hợp đồng chính, STBH
của điều khoản riêng I, STBH của điều khoản riêng II. Như vậy, ngay từ
khi thể hiện nguyện vọng tham gia bảo hiểm, các điều kiện bảo hiểm đã
được Ông, Bà phân định rõ ràng, các điều khoản của Hợp đồng chính và các
điều khoản riêng I, II cũng đã được giải thích chi tiết và cụ thể.
Với những
lý do trên, mặc dù Điều 2 điểm 2.1 của bản điều khoản Hợp đồng chính có
ghi: “Đến ngày đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Công ty sẽ thanh toán cho
người được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 1-
Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm” nhưng vì quy định này chỉ nằm trong điều
khoản hợp đồng chính (chứ không nằm trong điều khoản riêng I, II) nên
“toàn bộ số tiền bảo hiểm” mà ông T. và bà K. viện dẫn phải được hiểu là
toàn bộ và chỉ số tiền của hợp đồng chính (20.000.000 đồng) chứ không
thể bao gồm cả STBH của các điều khoản riêng và cũng không thể coi điều
khoản này là “không rõ ràng”. Việc giải thích hợp đồng nói chung và hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng không chỉ đơn thuần căn cứ vào câu chữ
trong điều khoản, theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm mà phải giải
thích theo nghĩa phù hợp nhất với ý chí đích thực của các bên khi giao
kết hợp đồng, tính chất, toàn bộ nội dung của hợp đồng, và trong mối
liên hệ với các điều khoản khác.
=====================
NGUỒN: WWW.BAOVIET.COM.VN
0 comments:
Post a Comment