Nguyễn Văn Bốn
Vụ phó Vụ Bổ trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp
Vụ phó Vụ Bổ trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp
1. Vai trò của việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư
Nghề luật sư là một nghề đặc biệt so với các ngành nghề khác. Nó được thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất,hành nghề luật sư không lấy
điểm xuất phát là vốn và cũng không dựa vào vốn mà mà dựa vào kiến thức
pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư. Chính vì vậy luật sư trước
hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có
những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức pháp
luật, thông thạo kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
- Thứ hai,Luật sư với tư cách là một
ngừơi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp lý nên luật sư
có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng, khách quan của pháp luật. Vì thế các
nước trên thế giới đều cho rằng nghề luật sư là một nghề trong xã hội,
là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý.
- Thứ ba,Nguyên tắc của nghề luật sư
là phải độc lập, liêm chính, nhân đạo và dũng cảm. Nghề luật sư rất chú ý
đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của
nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư. Đây là yêu cầu cần thiết để
luật sư có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
Xuất phát nghề luật sư là một nghề tự do có những đặc thù riêng của nó
nên việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư có vai trò rất quan trọng,
đồng thời việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư cũng có điểm khác
biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc quản lý luật
sư và hành nghề luật sư ở các nước có sự kết hợp giữa quản lý nhà nước
và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Vai trò quản lý của tổ chức
nghề nghiệp đến đâu, còn nhà nước có quản lý hoạt động này như thế nào
là tùy thuộc vào quy định của từng nước.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư thì tổ chức nghề
nghiệp của nó cũng được hình thành và phát triển tương ứng. Tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành trên cơ sở tự nguyện của
các luật sư. Ở những nước mà nghề luật sư đã có từ lâu như Anh, Pháp...
thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở nước đó rất phát triển.
Và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Xuất
phát từ quan điểm luật sư là một nghề tự do nên ở những nước này pháp
luật quy định cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nhiều
chức năng trong việc quản lý đối với hành nghề luật sư.
Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các nước được
hình thành ở 2 cấp là cấp Trung ương và địa phương (đó là tổ chức xã hội
- nghề nghiệp ở cấp tỉnh hoặc ở các Bang, các địa hạt). Riêng ở Pháp
các Đoàn luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, được thành
lập bên cạnh các Tòa án trong cùng quản hạt với Tòa thượng thẩm. Cho dù ở
những nước nghề luật sư thực sự phát triển hay không thì nhiệm vụ của
tổ chức xã hiij - nghề nghiệp sẽ là việc quản lý luật sư và hành nghề
luật sư thông qua các việc như: bảo đảm cho luật sư hành nghề đúng pháp
luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư; tổ chức bồi dưỡng
nghiệp vụ cho luật sư; kiểm tra, giám sát việc hành nghề của luật sư
trong phạm vi lãnh thổ của mình; kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy
tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc hành nghề luật sư; giải quyết các vấn
đề khác có liên quan đến luật sư như cấp chứng chỉ hành nghề hàng năm
cho luật sư, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật luật sư....
Nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư hành nghề độc lập theo quy định
của pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Nhưng nghề luật
sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật, mà
chức năng cơ bản là phụng sự công lý và mục đích cao cả của hoạt động
tư pháp. Do đó, rất cần đến sự quản lý của nhà nước. Chính vì thế mà
việc quản lý nghề luật sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, mà nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý
nghề này nhất là được thể hiện qua khâu đầu vào của nghề này. Các nước
đều quy định cho một cơ quan nhà nước (Tòa án tối cao hoặc Bộ Tư pháp)
chứng nhận tư cách luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý danh
sách luật sư. Sở dĩ Nhà nước cần phải nắm việc chứng nhận tư cách luật
sư là vì nghề luật sư là nghề đặc thù mà các nước đều thấy cần phải được
Nhà nước cho phép thì mới được hành nghề. Ngoài việc cấp phép, ở mỗi
nước đều có những quy định cụ thể về việc quản lý đối với hoạt động luật
sư. Đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc...
thì Bộ Tư pháp quản lý các hoạt động có liên quan đến luật sư và cả Đoàn
luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư không hoàn toàn giao
phó cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất
định, cũng có sự can thiệp của quyền lực nhà nước. Đó là quyền hành pháp
hay quyền tư pháp là phụ thuộc vào phương thức tổ chức quyền lực của
từng Nhà nước cụ thể. Bên cạnh sự quản lý của nhà nước thì các nước đều
rất chú trọng đến vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp luật sư.
Nhưng vấn đề tự quản đối với nghề luật sư đến đâu là do quy định của
từng nước.
2. Quản lý luật sư và hành nghề luật sư theo Luật Luật sư.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản
Việt Nam (Khóa VIII) đã chỉ rõ, cần có cơ chế phát huy tính tự chủ, tự
quản của các luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của họ, đồng thời
tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ luật sư.
Để phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
thì vai trò quản lý của nhà nước cần được tăng cường một bước. Vấn đề
này cần được thể hiện theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước, nhưng vẫn bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các luật sư
trong hành nghề và khuyến khích hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số
lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn
thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên
tòa, đồng thời xác định rõ chế độ, trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước
tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luât
sư; đề cao trách nhiệm của tổ chức luật sư đối với thành viên của mình".
Luật Luật sư ra đời đã thể chế hoá quan điểm của Đảng, khẳng định vai
trò quản lý của nhà nước, quy định rõ ràng vai trò tự quản của Đoàn luật
sư, với tư cách là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
* Theo quy định của Luật Luật sư, quản lý nhà nước đối với luật sư và
hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc Nhà nước thực hiện các nội
dung quản lý như sau:
a) Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định chiến lược và
chính sách phát triển nghề luật sư; Ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về hành nghề luật sư và hướng dẫn thi hành các văn bản đó;
b) Quy định về đào tạo nghề luật sư, quản lý và tổ chức việc đào tạo nghề luật sư;
c) Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài;
d) Cấp, thu hồi Giấy phép thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài tại Việt Nam; cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức luật sư nước
ngoài hành nghề tại Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam; cho
phép thành lập và Phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư.
e) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư;
g) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; Quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư;
* Nội dung tự quảncủa tổ chứcxã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng đã được quy định cụ thể.
- Đối với Đoàn luật sư có nhiệm vu, quyền hạn:
a) Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề.
b) Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát việc
tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư
là thành viên, luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và chi
nhánh của tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương; xử lý kỷ luật đối
với luật sư.
c) Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt
động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của
tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý.
d) Tổ chức đăng ký và giám sátngười tập sự hành nghề luật sư.
e) Nhận hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.
g) Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư; tổ chức việc chuyển,
tiếp nhận luật sư; đề nghị tổ chức luật sư toàn quốc cấp Thẻ luật sư.
h) Phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư hoặc trực tiếp cử
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng.
i) Hoà giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với
tổ chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật
sư và luật sư.
k) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
l) Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cho luật sư.
m) Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư.
n) Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
p) Báo cáo tổ chức luật sư toàn quốc về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư.
- Đối với Liên đoàn luật sư Việt Nam có các nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư, các Đoàn luật sư trong phạm vi cả nước.
b) Ban hành và giám sát việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
c) Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành Quy chế tập sự hành nghề
luật sư; đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật
sư.
d) Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho luật sư.
e) Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
g) Quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà, mẫu Thẻ luật sư; cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư.
h) Quy định việc miễn, giảm thù lao,trợ giúp pháp lý miễn phí
của luật sư,việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thù lao, chi phí
của luật sư.
i) Quy định phí tập sự hành nghề luật sư, phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên.
k) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
l) Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư.
m) Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
n) Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.
p) Gửi Bộ Tư pháp các nghị quyết, quyết định của tổ chức luật sư toàn quốc theo quy định của pháp luật và khi được yêu cầu.
q) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của tổ chức luật sư toàn quốc.
Quy định nội dung tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp
của luật sư như hiện nay là đầy đủ, vừa đề cao, phát huy được tính tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, vừa tăng cường vai
trò quản lý nhà nước và đặc biệt có sự phối hợp giữa quản lý nhà nước
với vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư. Điều này được thể
hiện ở chỗ để được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề do Nhà
nước cấp và phải được đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư. Đoàn luật sư
chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi hoạt động hành nghề của các luật sư
là thành viên của Đoàn mình và báo cáo định kỳ tới cơ quan nhà nước là
Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân. Nhà nước quản lý luật sư và hành nghề
luật sư thông qua việc kiểm tra, thanh tra và báo cáo của các Đoàn luật
sư. Khi phát hiện luật sư có vi phạm thì Đoàn luật sư là cơ quan đầu
tiên có trách nhiệm xem xét và xử lý. Trong trường hợp xóa tên thì phải
thông báo cho Bộ Tư pháp. Để bảo đảm quyền cho luật sư, cần quy định cho
luật sư có quyền được khiếu nại, tố cáo. Cơ quan đầu tiên có trách
nhiệm giải quyết là Đoàn luật sư. Trong trường hợp không đồng ý với việc
giải quyết đó thì có thể được khiếu nại tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư
pháp hoặc Ủy ban nhân dân v.v.
Ngoài các quy định của pháp luật, luật sư khi hành nghề còn phải tuân
thủ Điều lệ của Đoàn luật sư, Điều lệ Liên đoàn luật sư, đặc biệt là quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.
Có thể khẳng định rằng Luật Luật sư đã thể chế hoá chủ trương của Đảng
“kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp”.
Theo Luật Luật sư, việc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản
của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư đã được thể hiện ngay từ
quy định về điều kiện hành nghề luật sư; theo đó, một người muốn hành
nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn luật sư và phải có chứng chỉ hành
nghề do cơ quan nhà nước cấp. Người muốn được hành nghề luật sư trước
hết phải đăng ký tập sự tại một Đoàn luật sư để tập sự hành nghề và sau
khi đã đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự sẽ được Đoàn luật sư đề nghị
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư và đề nghị Bộ Tư pháp cấp
Chứng chỉ hành nghề luật sư v.v.
+ Để bảo đảm và nâng cao chất lượng công tác quản lý của tổ chức xã hội
- nghề nghiệp của luật sư đối với các luật sư và hành nghề luật sư,
Luật Luật sư đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư. Ngoài việc đại diện, bảo vệ quyền lợi của các
luật sư; Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư có vai trò rất quan
trọng trong quản lý hoạt động nghề nghiệp của các luật sư, giám sát luật
sư, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo
quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; giám sát tập sự hành
nghề luật sư; xem xét và xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm v.v....
Một mảng công việc quan trọng nữa của Đoàn luật sư là tổ chức tổng kết,
trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện các
biện pháp khác nhằm nâmg cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các luật
sư; tổ chức lấy ý kiến và tập hợp ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư
trong việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đoàn luật sư có
thẩm quyền xem xét quyết định hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khen thưởng đối với luật sư. Như vậy việc trực tiếp giám sát, quản
lý luật sư đã được pháp luật giao cho Đoàn luật sư một cách rất cụ thể,
rõ ràng.
+ Nhà nước đã được giao những nhiệm vụ, quyền hạn đúng với
chức năng của quản lý nhà nước, không làm thay công việc của tổ chức
luật sư, không can thiệp trực tiếp vào công việc hành nghề của các luật
sư, tập trung vào việc ban hành thể chế, công nhận một người có đủ điều
kiện để hành nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ pháp luật
và hỗ trợ nghề luật sư.
Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy
định của pháp luật. Để công chúng, các nhà kinh doanh tuân thủ pháp luật
và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những người
hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao
nghề luật sư phải được điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã
hội và giới kinh doanh. Ngoài những quy định của pháp luật còn có những
quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp để điều chỉnh hoạt động của luật
sư. Những quy tắc nghề nghiệp này trong nhiều trường hợp đặt ra những
yêu cầu còn cao hơn yêu cầu pháp luật. Những quy tắc này được đưa ra
nhằm bảo vệ công chúng - những người đặt các vụ việc của họ vào tay luật
sư. Một luật sư có coi quyền lợi của khách hàng là tối cao đi chăng nữa
thì anh ta cũng không được phép làm hoặc chấp nhận làm bất cứ việc gì
không trung thực hoặc vô lương tâm. Những quy tắc này điều chỉnh tất cả
các luật sư cả trong công việc và đời sống riên của họ. Một luật sư
không được phép trở thành một “hooligan” chỉ bởi anh ta đang ở ngoài văn
phòng của mình. Việc vi phạm quy tắc nghề nghiệp của luật sư có thể dẫn
tới việc Hiệp hội luật sư thi hành kỷ luật và mức cao nhất là tước
quyền hành nghề của luật sư.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, để nâng cao hiệu quả tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cần rà soát, quy định bổ sung
thêm trong Dự thảo Luật những nội dung tự quản phù hợp với thực tiễn tổ
chức và hoạt động luật sư ở nước ta và phù hợp với thông lệ chung về
nghề luật sư. Đồng thời, để phát huy được vai trò tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư cần có một Điều lệ chung thống nhất, quy
định cụ thể những nội dung tự quản mà pháp luật cho phép trong Điều lệ
chung của Liên đoàn luật sư.
Thứ hai,khâu quan trọng để phát huy vai trò
tự quản và nâng cao hiệu quả tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư đó là việc tổ chức thực hiện các nội dung tự quản được cụ
thể hóa trong Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam. Thực
tế cho thấy, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong thời gian
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc thực hiện tự quản nhưng
chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm của mình, nhiều nhiệm vụ, quyền hạn của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư chưa thực hiện hoặc thực hiện
chưa tốt như đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư,
giám sát tập sự, giám sát luật sư thành viên trong việc tuân thủ pháp
luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, giám sát hoạt
động hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp cho luật sư v.v. Vì
vậy, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư cần có nguồn lực, chủ
động, nghiêm túc trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nội dung
này.
Thứ ba, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, để tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý cần phân định rõ trách nhiệm quản lý
của các cấp từ Trung ương tới địa phương, xây dựng mối quan hệ trong
quản lý giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư theo hướng nhà nước chỉ làm những gì mà pháp luật cho phép, quản lý
luạt sư và hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật, không can
thiệp vào hoạt động hành nghề của luật sư và quan hệ nội bộ của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
0 comments:
Post a Comment