Friday, December 27, 2013

Quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam

Nguyễn Văn Bốn
Vụ phó Vụ Bổ trợ Tư pháp – Bộ Tư pháp
1. Vai trò của việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư
Nghề luật sư là một nghề đặc biệt so với các ngành nghề khác. Nó được thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất,hành nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không dựa vào vốn mà mà dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư. Chính vì vậy luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
- Thứ hai,Luật sư với tư cách là một ngừơi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp lý nên luật sư có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng, khách quan của pháp luật. Vì thế các nước trên thế giới đều cho rằng nghề luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý.
- Thứ ba,Nguyên  tắc của nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân đạo và dũng cảm. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư  và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư. Đây là yêu cầu cần thiết để luật sư có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
Xuất phát nghề luật sư là một nghề tự do có những đặc thù riêng của nó nên việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư có vai trò rất quan trọng, đồng thời việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư cũng có điểm khác biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở các nước có sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Vai trò quản lý của tổ chức nghề nghiệp đến đâu, còn nhà nước có quản lý hoạt động này như thế nào là tùy thuộc vào quy định của từng nước.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư thì tổ chức nghề nghiệp của nó cũng được hình thành và phát triển tương ứng. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các luật sư. Ở những nước mà nghề luật sư đã có từ lâu như Anh, Pháp... thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở nước đó rất phát triển. Và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Xuất phát từ quan điểm luật sư là một nghề tự do nên ở những nước này pháp luật quy định cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nhiều chức năng trong việc quản lý đối với hành nghề luật sư.
Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các nước được hình thành ở 2 cấp là cấp Trung ương và địa phương (đó là tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cấp tỉnh hoặc ở các Bang, các địa hạt). Riêng ở Pháp các Đoàn luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, được thành lập bên cạnh các Tòa án trong cùng quản hạt với Tòa thượng thẩm. Cho dù ở những nước nghề luật sư thực sự phát triển hay không thì nhiệm vụ của tổ chức xã hiij - nghề nghiệp sẽ là việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư thông qua các việc như: bảo đảm cho luật sư hành nghề đúng pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của  luật sư; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư; kiểm tra, giám sát việc hành nghề của luật sư trong phạm vi lãnh thổ của mình; kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc hành nghề luật sư; giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến luật sư như cấp chứng chỉ hành nghề hàng năm cho luật sư, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật luật sư....
Nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư hành nghề độc lập theo quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Nhưng nghề luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật, mà chức năng cơ bản là phụng sự công lý và mục đích cao cả của hoạt động tư pháp. Do đó, rất cần đến sự quản lý của nhà nước. Chính vì thế mà việc quản lý nghề luật sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp, mà nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nghề này nhất là được thể hiện qua khâu đầu vào của nghề này. Các nước đều quy định cho một cơ quan nhà nước (Tòa án tối cao hoặc Bộ Tư pháp) chứng nhận tư cách luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý danh sách luật sư. Sở dĩ Nhà nước cần phải nắm việc chứng nhận tư cách luật sư là vì nghề luật sư là nghề đặc thù mà các nước đều thấy cần phải được Nhà nước cho phép thì mới được hành nghề. Ngoài việc cấp phép, ở mỗi nước đều có những quy định cụ thể về việc quản lý đối với hoạt động luật sư. Đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc... thì Bộ Tư pháp quản lý các hoạt động có liên quan đến luật sư và cả Đoàn luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can thiệp của quyền lực nhà nước. Đó là quyền hành pháp hay quyền tư pháp là phụ thuộc vào phương thức tổ chức quyền lực của từng Nhà nước cụ thể. Bên cạnh sự quản lý của nhà nước thì các nước đều rất chú trọng đến vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp luật sư. Nhưng vấn đề tự quản đối với nghề luật sư đến đâu là do quy định của từng nước.
2. Quản lý luật sư và hành nghề luật sư theo Luật Luật sư.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (Khóa VIII) đã chỉ rõ, cần có cơ chế phát huy tính tự chủ, tự quản của các luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của họ, đồng thời tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ luật sư.
Để phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì vai trò quản lý của nhà nước cần được tăng cường một bước. Vấn đề này cần được thể hiện theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các luật sư trong hành nghề và khuyến khích hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ, trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luât sư; đề cao trách nhiệm của tổ chức luật sư đối với thành viên của mình".
Luật Luật sư ra đời đã thể chế hoá quan điểm của Đảng, khẳng định vai trò quản lý của nhà nước, quy định rõ ràng vai trò tự quản của Đoàn luật sư, với tư cách là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
* Theo quy định của Luật Luật sư, quản lý nhà nước đối với luật sư và hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc Nhà nước thực hiện các nội dung quản lý như sau:
a) Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư; Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hành nghề luật sư và hướng dẫn thi hành các văn bản đó;
b) Quy định về đào tạo nghề luật sư, quản lý và tổ chức việc đào tạo nghề luật sư;
c) Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài;
d) Cấp, thu hồi Giấy phép thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam; cho phép thành lập và Phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
e) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư;
g) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; Quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư;
          * Nội dung tự quảncủa tổ chứcxã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng đã được quy định cụ thể.
          - Đối với Đoàn luật sư có nhiệm vu, quyền hạn:
a) Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề.
b) Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư là thành viên, luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương; xử lý kỷ luật đối với luật sư.
c) Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
d) Tổ chức đăng ký và giám sátngười tập sự hành nghề luật sư.
e) Nhận hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.
g) Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư; tổ chức việc chuyển, tiếp nhận luật sư; đề nghị tổ chức luật sư toàn quốc cấp Thẻ luật sư.
h) Phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư hoặc trực tiếp cử luật sư hành nghề với tư cách cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
i) Hoà giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với tổ chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư.
k) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
l) Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư.
m) Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư.
n) Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
p) Báo cáo tổ chức luật sư toàn quốc về tổ chức, hoạt động của Đoàn luật sư.
- Đối với Liên đoàn luật sư Việt Nam có các nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư, các Đoàn luật sư trong phạm vi cả nước.
b) Ban hành và giám sát việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. 
c) Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành Quy chế tập sự hành nghề luật sư; đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.
d) Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho luật sư.
e) Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
g) Quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà, mẫu Thẻ luật sư; cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư.
          h) Quy định việc miễn, giảm thù lao,trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư,việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thù lao, chi phí của luật sư.
i) Quy định phí tập sự hành nghề luật sư, phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên.
k) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
l) Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư.
m) Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
n) Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.
p) Gửi Bộ Tư pháp các nghị quyết, quyết định của tổ chức luật sư toàn quốc theo quy định của pháp luật và khi được yêu cầu.
q) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của tổ chức luật sư toàn quốc.
          Quy định nội dung tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư như hiện nay là đầy đủ, vừa đề cao, phát huy được tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, vừa tăng cường vai trò quản lý nhà nước và đặc biệt có sự phối hợp giữa quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư. Điều này được thể hiện ở chỗ để được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề do Nhà nước cấp và phải được đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư. Đoàn luật sư chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi hoạt động hành nghề của các luật sư là thành viên của Đoàn mình và báo cáo định kỳ tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân. Nhà nước quản lý luật sư và hành nghề luật sư thông qua việc kiểm tra, thanh tra và báo cáo của các Đoàn luật sư. Khi phát hiện luật sư có vi phạm thì Đoàn luật sư là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm xem xét và xử lý. Trong trường hợp xóa tên thì phải thông báo cho Bộ Tư pháp. Để bảo đảm quyền cho luật sư, cần quy định cho luật sư có quyền được khiếu nại, tố cáo. Cơ quan đầu tiên có trách nhiệm giải quyết là Đoàn luật sư. Trong trường hợp không đồng ý với việc giải quyết đó thì có thể được khiếu nại tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban nhân dân v.v.
Ngoài các quy định của pháp luật, luật sư khi hành nghề còn phải tuân thủ Điều lệ của Đoàn luật sư, Điều lệ Liên đoàn luật sư, đặc biệt là quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.
Có thể khẳng định rằng Luật Luật sư đã thể chế hoá chủ trương của Đảng “kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”.
Theo Luật Luật sư, việc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư đã được thể hiện ngay từ quy định về điều kiện hành nghề luật sư; theo đó, một người muốn hành nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn luật sư và phải có chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước cấp. Người muốn được hành nghề luật sư trước hết phải đăng ký tập sự tại một Đoàn luật sư để tập sự hành nghề và sau khi đã đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự sẽ được Đoàn luật sư đề nghị kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư và đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư v.v.
+ Để bảo đảm và nâng cao chất lượng công tác quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đối với các luật sư và hành nghề luật sư, Luật Luật sư đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Ngoài việc đại diện, bảo vệ quyền lợi của các luật sư; Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư có vai trò rất quan trọng trong quản lý hoạt động nghề nghiệp của các luật sư, giám sát luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; giám sát tập sự hành nghề luật sư; xem xét và xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm v.v.... Một mảng công việc quan trọng nữa của Đoàn luật sư là tổ chức tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâmg cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các luật sư; tổ chức lấy ý kiến và tập hợp ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư trong việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đoàn luật sư có thẩm quyền xem xét quyết định hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng đối với luật sư. Như vậy việc trực tiếp giám sát, quản lý luật sư đã được pháp luật giao cho Đoàn luật sư một cách rất cụ thể, rõ ràng.
          + Nhà nước đã được giao những nhiệm vụ, quyền hạn đúng với chức năng của quản lý nhà nước, không làm thay công việc của tổ chức luật sư, không can thiệp trực tiếp vào công việc hành nghề của các luật sư, tập trung vào việc ban hành thể chế, công nhận một người có đủ điều kiện để hành nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ pháp luật và hỗ trợ nghề luật sư.
Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy định của pháp luật. Để công chúng, các nhà kinh doanh tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những người hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề luật sư phải được điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã hội và giới kinh doanh. Ngoài những quy định của pháp luật còn có những quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp để điều chỉnh hoạt động của luật sư. Những quy tắc nghề nghiệp này trong nhiều trường hợp đặt ra những yêu cầu còn cao hơn yêu cầu pháp luật. Những quy tắc này được đưa ra nhằm bảo vệ công chúng - những người đặt các vụ việc của họ vào tay luật sư. Một luật sư có coi quyền lợi của khách hàng là tối cao đi chăng nữa thì anh ta cũng không được phép làm hoặc chấp nhận làm bất cứ việc gì không trung thực hoặc vô lương tâm. Những quy tắc này điều chỉnh tất cả các luật sư cả trong công việc và đời sống riên của họ. Một luật sư không được phép trở thành một “hooligan” chỉ bởi anh ta đang ở ngoài văn phòng của mình. Việc vi phạm quy tắc nghề nghiệp của luật sư có thể dẫn tới việc Hiệp hội luật sư thi hành kỷ luật và mức cao nhất là tước quyền hành nghề của luật sư.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, để nâng cao hiệu quả tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cần rà soát, quy định bổ sung thêm trong Dự thảo Luật những nội dung tự quản phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta và phù hợp với thông lệ chung về nghề luật sư. Đồng thời, để phát huy được vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cần có một Điều lệ chung thống nhất, quy định cụ thể những nội dung tự quản mà pháp luật cho phép trong Điều lệ chung của Liên đoàn luật sư.
Thứ hai,khâu quan trọng để phát huy vai trò tự quản và nâng cao hiệu quả tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đó là việc tổ chức thực hiện các nội dung tự quản được cụ thể hóa trong Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam. Thực tế cho thấy, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc thực hiện tự quản nhưng chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm của mình, nhiều nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt như đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư, giám sát tập sự, giám sát luật sư thành viên trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, giám sát hoạt động hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp cho luật sư v.v. Vì vậy, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư cần có nguồn lực, chủ động, nghiêm túc trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nội dung này.
Thứ ba, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý cần phân định rõ trách nhiệm quản lý của các cấp từ Trung ương tới địa phương, xây dựng mối quan hệ trong quản lý giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo hướng nhà nước chỉ làm những gì mà pháp luật cho phép, quản lý luạt sư và hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật, không can thiệp vào hoạt động hành nghề của luật sư và quan hệ nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
 

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code