Luật sư Nguyễn Minh Tâm
Ủy viên Ban Thường vụ,
Phó Tổng Thư ký Liên đoàn luật sư Việt Nam
Ủy viên Ban Thường vụ,
Phó Tổng Thư ký Liên đoàn luật sư Việt Nam
I. Đặt vấn đề
Luật luật sư ra đời từ năm 2006 đến nay đã được 5 năm. Một
nửa thập kỷ trôi qua, chứa đựng trong lòng nó nhiều sự kiện có ý nghĩa
to lớn đánh dấu bước phát triển không ngừng của đội ngũ luật sư Việt
Nam. Có thể nói, 5 năm qua, Luật luật sư đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho hoạt động quản lý luật sư và hành nghề luật sư, là công cụ quan
trọng để các luật sư tuân thủ trong hoạt động nghề nghiệp; đồng thời
đạo luật này đã bước đầu thể chế hóa nguyên tắc “Tự quản kết hợp với
quản lý Nhà nước” của tổ chức luật sư. Một sự kiện quan trọng có ý nghĩa
đánh đấu bước phát triển mới của nghề luật sư là sự ra đời của Liên
đoàn luật sư Việt Nam. Trong hơn hai năm qua, kể từ khi thành lập, hoạt
động của Liên đoàn đã góp phần rất quan trọng vào việc củng cố, xây
dựng đội ngũ luật sư Việt Nam, là chỗ dựa đáng tin cậy của giới luật sư
trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp khi hành nghề.
Theo Báo cáo tổng kết của Đoàn luật sư TP. Hồ chí Minh, chỉ
tính riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, nếu cuối năm 2006 (thời điểm chấm
dứt thi hành Pháp lệnh Luật sư năm 2001), Thành phố có 808 luật sư và
692 luật sư tập sự với 329 tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam; 34 luật
sư nước ngoài và 20 tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, thì đến nay,
số lượng luật sư tại Thành phố là 3.075 luật sư và 1.209 người tập sự
hành nghề luật sư, với 1.041 tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, 19 luật
sư hành nghề với tư cách cá nhân, 178 chi nhánh tổ chức hành nghề luật
sư; 75 luật sư nước ngoài và 45 tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.
Như vậy, sau gần 5 năm triển khai thi hành Luật Luật sư, số lượng luật
sư tại thành phố Hồ Chí Minh đã tăng 380 %, tổ chức hành nghề luật sư
Việt Nam tăng 316 %. Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục là địa phương có số
lượng luật sư và hành nghề luật sư nhiều nhất, chiếm hơn 42 % số lượng
luật sư và 37 % tổ chức hành nghề luật sư trong số 7.260 luật sư và
3.500 người tập sự hành nghề luật sư và 2.850 tổ chức hành nghề luật sư
trong cả nước.
Số lượng vụ việc và doanh thu dịch vụ cũng không ngừng tăng lên. Cũng
theo Báo cáo của Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, theo thống kê của
khoảng 50% tổ chức hành nghề luật sư thì trong thời gian từ tháng
1/2007 đến tháng 6/2011, luật sư thành phố đã tham gia tổng cộng là
11.700 vụ án hình sự và phi hình sự, chiếm khoảng 1/7 số lượng vụ việc
của đội ngũ luật sư cả nước. Trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, luật sư
Thành phố đã thực hiện tổng cộng là 44.863 vụ việc các loại, chiếm
khoảng gần 1/3 số vụ việc của đội ngũ luật sư cả nước. Doanh thu của
khoảng 50 % tổ chức hành nghề luật sư là khoảng 2.003.554.862.000 đồng,
nộp thuế vào ngân sách nhà nước tổng cộng là 298.655.031.000 đồng.
Sự phát triển của nghề luật sư không chỉ đừng lại ở số lượng mà còn thể
hiện ở chất lượng hoạt động cung cấp địch vụ pháp lý bào chữa và bảo vệ
các quyền và lợi ích của khách hàng. Trình độ chuyên môn, kỹ năng hành
nghề của luật sư đã được nâng lên. Một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp đã
hình thành theo hướng chuyên sâu, đủ khả năng tư vấn và giải quyết các
tranh chấp phức tạp trong nhiều lĩnh vực, trong đó có các tranh chấp
mang tính quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức Việt Nam, kể cả lợi ích quốc gia trong một số vụ việc nhất định.
Trầm tĩnh nhìn lại 5 năm qua, bằng hoạt động nghề nghiệp của
mình, giới luật sư đã từng bước góp phần vào việc thực hiện dân chủ hóa
hoạt động tư pháp, đặc biệt là hoạt động tố tụng khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử. Với chức năng bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
khách hàng, hoạt động bào chữa của luật sư là một đối trọng không thể
thiếu trong mối tương quan với chức năng buộc tội của cơ quan công tố;
tiếng nói của luật sư đã có ý nghĩa là những lời phản biện pháp lý trong
tranh tụng tại tòa, góp phần vào việc xét xử của Tòa án được khách quan
công minh; là chỗ dựa tinh thần cho các bị can, bị cáo khi đối diện với
các phán quyết của quyền lực nhà nước về số phận pháp lý của mình.
Với những đóng góp ấy, giới luật sư đã tự nâng mình lên,
khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp, xây
dựng và củng cố niềm tin trong nhân dân, được cộng đồng xã hội thừa
nhận.
Tuy nhiên, vẫn còn những khiếm khuyết, bất cập trong các quy
định về luật sư và hành nghề luật sư trong Luật Luật sư, cần nhận rõ để
có hướng sửa chữa, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nghề luật
sư trong giai đoạn mới.
Với tư cách là những người trực tiếp tham gia tố tụng, qua
từng vụ án cụ thể, tiếp xúc với những thực trạng xảy ra trong quá trình
giải quyết các vụ án, luật sư là người thấy rõ những khiếm khuyết, bất
cập trong Luật luật sư. “Không ai hiểu nghề mình bằng chính mình”. Vì
vậy, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư chắc chắn sẽ đóng góp được
nhiều ý kiến quý báu trong việc sửa đổi Luật luật sư, đáp ứng yêu cầu
của việc điều chỉnh pháp luật hoạt động của luật sư trong tương lai.
II. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư có thể đóng góp sửa đổi những gì trong luật luật sư ?
1. Góp ý về việc bảo đảm các quyền hành nghề của luật sư
- Luật Luật sư đã có những quy định pháp lý về các quyền và nghĩa vụ
của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp. Các bộ luật tố tụng tương ứng
như Bộ luật TTHS, TTDS cũng xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của luật
sư trrong việc tham gia bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của khách hàng trong các quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên, trong các loại quan hệ này, địa vị pháp lý của luật sư cũng chỉ
là “Người tham gia tố tụng” như những người tham gia tố tụng khác, có
một số khác biệt nhỏ không đáng kể. Sự tham gia tố tụng của luật sư
trong các vụ án này bắt nguồn từ yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của
khách hàng và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Trong khi đó,
trên thực tiễn, đặc biệt là các vụ án hình sự mà bị cáo bị truy tố, xét
xử về các tội đặc biệt nghiêm trọng thì luật bắt buộc phải có luật sư
tham gia bào chữa. Việc tham gia tố tụng của luật sư trong các trường
hợp này không phải bắt nguồn từ các giao dịch dân sự thông thường với
khách hàng mà là theo quy định của pháp luật. Nếu luật sư không tham gia
tố tụng thì vụ án không thể được tiến hành. Như vậy, trong các vụ án
loại này, luật sư là một thành tố tất yếu của hoạt động tố tụng chứ
không còn chỉ là một hoạt động mang tính chất bổ trợ tư pháp thuần túy
như các loại vụ việc khác. Vậy trong trường hợp này, địa vị pháp lý của
luật sư phải được xác định cho rõ trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của luật sư trong quan hệ tố tụng.
- Ngay trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý của luật
sư đã được luật xác định rõ, được hướng dẫn bởi hệ thống các văn bản
dưới luật; nhưng trên thực tế, các quyền này vẫn bị các cơ quan và người
tiến hành tố tụng không tôn trọng, thậm chí còn ngang nhiên vi phạm. Ví
dụ như quyền được cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong các vụ án
hình sự; quyền có mặt tham gia trong các buổi hỏi cung bị can…; thời
gian tiếp xúc, làm việc giữa luật sư với bị can, bị cáo trong trại tạm
giam; quyền sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án; các quy định về thủ
tục tham gia tố tụng của luật sư còn đặt ra những loại giấy tờ không cần
thiết, gây khó khăn cho luật sư; quyền kiến nghị khiếu nại đối với các
vi phạm của những người tiến hành tố tụng xâm hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo, thậm chí cả quyền hành nghề của luật sư.
Việc khiếu nại có khi được trả lời, có khi không; việc trả lời (nếu có)
của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chỉ mang tính chất chung chung,
không cụ thể, chỉ như là một việc buộc phải làm không thể thoái thác,
cho xong nghĩa vụ…
Có một thực trạng là, trong giai đoạn điều tra, gia đình bị
cáo nhờ luật sư bào chữa cho thân nhân của mình, nhưng khi làm thủ tục
lại bị chính bị can từ chối. Tất nhiên, đấy là quyền lựa chọn luật sư
của bị can theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng có trường hợp
quyền từ chối này lại không xuất phát từ ý chí của bị can mà do bị tác
động từ phía điều tra viên bằng nhiều phương cách như khuyên bảo, hướng
dẫn… đến đe dọa, làm cho bị can thối chí, sợ mất lòng điều tra viên sẽ
bất lợi cho mình, nên buộc phải chấp nhận từ chối. Quyền được có người
bào chữa từ giai đoạn điều tra của bị can, vì thế đã không được bảo đảm,
gây bất an về tâm lý, khiến có vụ án được điều tra theo hướng bất lợi
cho họ.
Trong các phiên tòa, sự có mặt tham gia của luật sư theo quy
định của pháp luật, nhưng trên thực tế, có tình trạng luật sư không được
tôn trọng khi thực hiện các kỹ năng hành nghề trong các giai đoạn tranh
tụng xét hỏi, tranh luận. Thẩm phán chủ tọa, nhân danh quyền lực nhà
nước có thể tùy tiện ngắt lời luật sư mà không dựa trên một quy định nào
cả; thậm chí, có thẩm phán nổi cơn tự ái còn ra lệnh đuổi luật sư ra
khỏi phiên tòa, gây bất lợi hoàn toàn cho việc hành nghề của luật sư.
Việc tranh luận với công tố viên cũng nằm trong thực trạng tương tự. Bản
chất của tranh luận là cùng nhau đối đáp trên cớ sở các luận điểm, luận
cứ và luận chứng xác thực để cùng đạt đến chân lý khách quan, nhưng
nhiều vụ án luật sư không nhận được sự đối đáp với tinh thần như thế,
thậm chí còn có thể bị chụp mũ, quy kết mang tính chất cá nhân, xúc phạm
đến danh dự, uy tín của luật sư, ảnh hưởng không tốt đến “Văn hóa pháp
đình”, khiến cho phiên tòa rơi vào tình trạng căng thẳng, nặng nề, một
không khí hoàn toàn bất lợi cho các bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác.
Nghị quyết số 08 và nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải
cách tư pháp đã chỉ rõ, bản án của tòa án phải được tuyên trên cơ sở kết
quả tranh luận công khai tại phiên tòa. Các luận cứ của luật sư đưa ra
phải được tòa án phân tích, đánh giá thấu đáo để quyết định chấp nhận
hoặc bác bỏ. Thế nhưng trong thực tế, quy định này ít được tôn trọng và
thực hiện. Có bản án chỉ nhận định một câu rằng : “Xét ý kiến bào chữa
của luật sư là không có căn cứ chấp nhận” mà không nói rõ không chấp
nhận ở điểm nào, vì sao không chấp nhận, khiến luật sư rơi vào cảnh “lực
bất tòng tâm”, chỉ biết lắc đầu và động viên khách hàng bằng những lời
lẽ mang tính chất an ủi, tủi thân. Thực tế đã có luật sư tuyên bố và
thực sự hoàn toàn bỏ nghề luật sư tranh tụng, chỉ làm tư vấn và các dịch
vụ pháp lý khác để tránh cái thực trạng đáng buồn như viện dẫn trên
đây. Trong số những người tiến hành tố tụng còn mang nặng một lối tư duy
cũ, sai lầm rằng “Án tại hồ sơ” nên việc mở phiên tòa công khai chỉ là
hình thức, việc xét hỏi, tranh luận được thực hiện qua loa, thậm chí
khi luật sư phát biểu quan điểm của mình, các thành viên HĐXX không thèm
nghe, làm việc riêng để đến nỗi bản án được tuyên đem lại cảm giác cho
những người tham dự về một thực trạng “án bỏ túi”, ảnh hưởng đến chức
năng cao cả của hoạt động xét xử là giáo dục và phòng ngừa tội phạm
bằng những bản án thấu tình, đạt lý, khiến người bị xử phải “tâm phục,
khẩu phục”.
2. Góp ý về việc luật sư thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
2.1. Trong quan hệ với các cơ quan và người tiến hành tố tụng
Xuât phát từ địa vị pháp lý của mình chỉ là người tham gia tố
tụng, trong loại quan hệ này, nhiều luật sư còn mang tâm lý “nhẫn
nhịn”, có lúc còn rơi vào tình trạng cả nể, sợ làm “mất lòng” người tiến
hành tố tụng dẫn đến những tình huống bất lợi cho khách hàng của mình.
Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của luật sư đã được luật hóa rõ ràng,
nhưng có khi bản thân luật sư cũng không tự mình kiên quyết đấu tranh để
bảo vệ các quyền đó, dẫn đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng
chưa được bảo đảm tốt nhất theo yêu cầu của đạo đức nghề nghiệp.
Trong thực tế, cá biệt còn tồn tại hiện tượng “chạy án” giữa
luật sư với người tiến hành tố tụng, làm ảnh hưởng tới bản chất cao quý
của nghề nghiệp, làm xói mòn danh dự, uy tín của người luật sư chân
chính. Một vài trường hợp đã bị phát hiện và bị xử lý theo pháp luật đã
cho thấy thực trạng này. Tuy nhiên, các trường hợp xử lý chỉ chiếm một
phần nhỏ trong thực trạng nói trên.
Trong phiên tòa, cá biệt có luật sư còn bị xúc cảm cá nhân
chi phối, có những lời lẽ bức xúc, thậm chí mang tính chất kích động,
thiếu văn hóa trong tranh luận với công tố viên, với những người tham
gia tố tụng khác hoặc có những phản ứng mang tính chất tiêu cực với Hội
đồng xét xử như tự ý bỏ phiên tòa, khiến cho quyền lợi của khách hàng
không được bảo đảm, ảnh hưởng tới việc xét xử của Tòa án.
2.2. Trong quan hệ với khách hàng
Luật Luật sư, Điều lệ và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư ( Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành trước đây) đã quy
định rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý và đạo đức trong quan hệ giữa luật
sư với khách hàng. Đa số luật sư đã thực hiện rất tốt các quyền và
nghĩa vụ này trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng với sự
tân tâm, bằng kỹ năng hành nghề và trách nhiệm cao, giữ được uy tín
nghề nghiệp của cá nhân nói rêng và giới luật sư nói chung.
Tuy nhiên, vẫn còn thực trạng các luật sư chưa làm hết bổn
phận, trách nhiệm của mình với khách hàng, lấy thù lao cao hơn nhiều so
với tính chất dịch vụ cung cấp, thiếu tận tâm trong thực hiện vụ việc,
thiếu rèn luyện, học tập để nâng cao kỹ năng hành nghề, nghiên cứu hồ sơ
vụ án không kỹ, việc hệ thống, đánh giá tài liệu, chứng cứ còn sơ sài,
ra tòa nói chung chung, thiếu tính thuyết phục…Thậm chí, có luật sư còn
nói những điều gây bất lợi cho khách hàng của mình, trong đó có trường
hợp hai hay nhiều luật sư cùng bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho khách hàng nhưng lại không bảo đảm tính thống nhất trong quan điểm
bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, dẫn đến sơ hở trong tranh
luận với đại diện Viện kiểm sát, làm cho quyền lợi của khách hàng bị ảnh
hưởng. Trong hoạt động tư vấn pháp luật, cá biệt còn có luật sư cho ý
kiến sai làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của khách hàng…Thậm chí,
có luật sư còn đang tâm lừa dối, phản bội lại quyền lợi của khách hàng,
dẫn đến khách hàng khiếu nại, tố cáo, làm ảnh hưởng tới uy tín nghề
nghiệp chung của cả giới luật sư.
Theo báo cáo của đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, từ khi
Luật Luật sư có hiệu lực thi hành đến đầu tháng 7/2011, Đoàn luật sư
thành phố đã xử lý kỷ luật : Khiển trách : 01 luật sư; Cảnh cáo : 06 (có
04 luật sư và 02 tập sự hành nghề luật sư); Tạm đình chỉ tư cách thành
viên 06 tháng : 01 luật sư; Xóa tên : 06 (có 01 luật sư và 05 tập sự
hành nghề luật sư).
2.3. Trong quan hệ với đồng nghiệp
Trong thực tiễn hành nghề, các luật sư đã cố gắng giữ gìn sự
đoàn kết trong tình đồng nghiệp, chân thành góp ý, giúp đỡ lẫn nhau
trong hành nghề và trong sinh hoạt giao tiếp xã hội. Nhưng cá biệt, vẫn
có những luật sư còn thiếu tôn trọng đồng nghiệp, thực hiện các biện
pháp cạnh tranh không lành mạnh để giành khách hàng về cho mình, vi phạm
các quy định về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Trong quan hệ
giữa luật sư hướng dẫn với người tập sự hành nghề luật sư vẫn còn tình
trạng nhận hướng dẫn nhưng không tận tâm, bỏ mặc người tập sự, hoặc
hướng dẫn qua loa, giao việc cho có hình thức, không kiểm tra, chỉ bảo
tận tình, khiến chất lượng tập sự không đảm bảo, ảnh hưởng tới kỳ thi
hết tập sự, có người phải thi lại nhiều lần mới đạt kết quả.
III. Một số kiến nghị
1. Cần sửa đổi các quy định của Luật Luật sư theo hướng xác
định rõ vị trí vai trò của luật sư trong hệ thống tư pháp xét xử, tạo
điều kiện bảo đảm các quyền hành nghề của luật sư, đặc biệt là từ giai
đoạn điều tra vụ án, để luật sư thực sự là một thành tố quan trọng trong
hoạt động tư pháp, bảo vệ công lý và công bằng xã hội, góp phần xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
2. Có các biện pháp nâng cao nhận thức và giáo dục ý thức tôn
trọng luật sư từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng trong quan hệ với luật sư; giáo dục luật sư thấy rõ được vai
trò quan trọng của mình trong hệ thống tư pháp để phát huy trách nhiệm, ý
thức đấu tranh bảo vệ công lý, lẽ phải; giáo dục về đạo đức nghề nghiệp
luật sư để giữ gìn danh dự, phẩm chất cao quý của người luật sư, nâng
cao uy tín của giới luật sư trong cộng đồng xã hội.
3. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động hành nghề
luật sư của các Đoàn Luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư để kịp thời
giúp đỡ kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề, tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc cho các luật sư trong quá trình hành nghề, thường xuyên tổ chức các
buổi gặp gỡ trao đổi, bồi dưỡng cho các luật sư trẻ tại các diễn đàn
nghề nghiệp theo hình thức, quy mô thiết thực, bổ ích.
4. Thực hiện tốt nguyên tắc “Tự quản kết hợp với quản lý Nhà
nước” ở cấp Liên đoàn và các đoàn Luật sư trong quan hệ với các cơ quan
chức năng như Bộ Tư pháp, các sở tư pháp địa phương, duy trì chế độ báo
cáo theo quy định để phát huy tính tự giác của các tổ chức hành nghề
luật sư.
5. Liên đoàn cần xây dựng một kế hoạch chiến lược trong việc
đào tào, bồi dưỡng nghề nghiệp cho các luật sư về lâu dài, bảo đảm có
một đội ngũ luật sư giỏi, có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng hành
nghề tốt để hòa nhập với luật sư khu vực và trên thế giới.
0 comments:
Post a Comment