LÊ THỊ HIỀN, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
Theo quy định tại điều
85, điều 89 Bộ luật tố tụng dân sự, xem xét, thẩm định tại chỗ là một
trong những biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán tiến
hành khi thấy cần thiết, có thể là theo yêu cầu của đương sự hoặc do
Thẩm phán chủ động tiến hành và phải được thực hiện theo trình tự do
pháp luật quy định. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến hai vướng mắc chính trong
thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xem xét, thẩm định tại chỗ:
thứ nhất là chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ; thứ hai là
cách xử lý khi đương sự không hợp tác với Tòa án trong việc xem xét,
thẩm định tại chỗ.
1. Về vấn đề chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ
Chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ là một
trong những chi phí tố tụng. Tuy nhiên, Mục 2 chương IX Bộ luật tố tụng
dân sự về các chi phí tố tụng khác (ngoài án phí, lệ phí Tòa án) chỉ quy
định về chi phí giám định, định giá tài sản, chi phí cho người làm
chứng, người phiên dịch, luật sư mà không có điều nào quy định về chi
phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ và cũng không có điều luật nào
quy định rằng chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ không phải một
trong những chi phí tố tụng khác và không cho phép Tòa án thu tiền của
đương sự để chi cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vì vậy, việc các
Tòa án hiện nay vẫn xác định chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ
là chi phí tố tụng khác và thực hiện việc thu, chi liên quan đến hoạt
động tố tụng này là không sai. Tuy nhiên, do không có quy định cụ thể về
trình tự thủ tục thu, chi, xác định trách nhiệm của các bên đương sự
liên quan đến loại chi phí này nên mỗi Tòa án thực hiện một cách khác
nhau, trong cùng một Tòa án, mỗi thẩm phán cũng có cách thực hiện khác
nhau, thậm chí cùng một Thẩm phán nhưng cũng có những vụ án thực hiện
không giống nhau; nhưng nhìn chung, các Tòa án đã áp dụng các nguyên tắc
chung của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về các chi phí tố tụng khác
tại Mục 2 chương IX Bộ luật này trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ và
thực tế chi phí được vận dụng một cách linh hoạt tùy thuộc vào từng vụ
án cụ thể trên tinh thần tiết kiệm chi.
Thực tế những khoản chi trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ thường bao gồm những khoản sau:
- Chi phí đo vẽ nhà đất: được tính theo giá của
cơ quan có chức năng đo vẽ nhà, đất (có hợp đồng, biên lai thu tiền của
những cơ quan này nên việc quyết toán khoản này không có gì
vướng mắc). Cán bộ thực hiện đo vẽ không được bồi dưỡng, nhưng đối
với những vụ án mà việc đo vẽ vất vả như: phải lội bùn, ruộng để đo
hoặc phải phạt bờ bụi mới đo được hay phải đi xa, đi lại nhiều
lần mới đo vẽ được do đương sự không hợp tác…, một số Thẩm phán đã chi
bồi dưỡng cho cán bộ đo vẽ tùy từng trường hợp cụ thể, mức chi khoảng
100.000đ/lượt/người; nhưng cũng có Thẩm phán chỉ chi
50.000đ/lượt/người và chỉ chi trong trường hợp đương sự không hợp
tác nên không thực hiện được việc đo vẽ, các trường hợp còn
lại không chi;
- Chi phí cho phương tiện đi lại: nếu địa điểm xem
xét, thẩm định ở xa thì cho phí được tính theo giá vận chuyển có biên
lai; đối với các địa điểm gần, cán bộ Tòa án và thành viên đo vẽ tự túc
phương tiện;
- Chi phí cho đại diện Uỷ ban nhân dân phường, xã
tham gia xem xét thẩm định: mức chi bồi dưỡng được các Tòa án áp
dụng khác nhau. Thường là việc xem xét, thẩm định tại chỗ
được thực hiện trong một ngày, có Tòa án áp đặt mức chi
50.000đ/người (mặc dù không ít Thẩm phán tại chính đơn vị đó
thấy đây là điều bất hợp lý muốn chi thêm nhưng không được vì
cơ quan đã thống nhất định mức như vậy), có Tòa án chi
100.000đ/người, cũng có Thẩm phán chi 200.000đ/người vì cho rằng
Tòa án rất cần sự hỗ trợ, phối hợp của Uỷ ban nhân dân không
chỉ trong hoạt động xem xét, thẩm định tại chỗ, nên cần phải
giữ mối quan hệ tốt với cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp
địa phương. Mặc dù, đối với phần lớn các vụ án, đại diện Uỷ ban
nhân dân có mặt chỉ là thủ tục tố tụng bắt buộc, trên thực
tế họ không phải làm gì, nhưng về nguyên tắc, họ đã phải bỏ
thời gian tham gia và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng
của Tòa án nên cần tính toán việc chi bồi dưỡng cho họ hợp
lý. Ngoài ra, có những vụ phải xem xét, thẩm định hơn 1 buổi, địa điểm ở
xa, Tòa án phải bố trí ăn trưa cho tất cả những người tham gia xem xét,
thẩm định tại chỗ mà không biết lấy kinh phí từ nguồn nào.
Để thống nhất về trình tự, thủ tục thu, chi đối với chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ tạo điều kiện cho Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ và xác định rõ trách nhiệm của các bên đương sự liên quan đến loại chi phí này, tác giả kiến nghị:
- Cần phải đưa quy định về chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ vào Bộ luật tố tụng dân sự, coi đây là một trong những chi phí
tố tụng khác để có căn cứ pháp lý cho việc thực hiện;
- Trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn
bản hướng dẫn quy định cụ thể về loại chi phí này trong đó cần xác định
nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí, nghĩa vụ nộp chi phí, mức chi phí, trình
tự thủ tục thu chi… Cụ thể:
+ Người yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ phải chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Các đương sự phải chịu toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ; việc xem xét, thẩm định tại chỗ cần thiết cho việc
giải quyết cho những yêu cầu hay quyền lợi của đương sự nào thì những
đương sự đó phải chịu chi phí; mức chi phí cụ thể tùy thuộc vào kết quả
giải quyết vụ án trên cơ sở quyết định của Tòa án;
+ Người nào gây cản trở cho việc xem xét, thẩm định
tại chỗ phải chịu chi phí phát sinh do hành vi gây cản trở này; chi phí
cho những người tham gia xem xét, thẩm định tại chỗ ngoài đại diện Uỷ
ban nhân dân cấp xã phải bao gồm cả thư ký, Thẩm phán.
2. Về vấn đề đương sự không hợp tác, cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ
Hiện nay, việc xem xét, thẩm định tại chỗ chủ yếu
được thực hiện đối với các vụ án sơ thẩm và chủ yếu là đo vẽ nhà đất
tranh chấp, một số ít là xem xét thực địa để giải quyết vụ án cho đúng.
Trên thực tế, đã có không ít trường hợp đương sự đang trực tiếp quản lý
tài sản là nhà đất tranh chấp không hợp tác với Tòa án, gây khó khăn,
cản trở hoặc không cho đo vẽ nhà đất bằng việc đóng cổng, đóng cửa, bỏ
đi khỏi nhà đất tranh chấp mỗi khi Tòa án đến xem xét, thẩm định tại
chỗ dẫn tới việc Tòa án không thể giải quyết được vụ án, không ít vụ án
phải tạm đình chỉ không thời hạn. Các khoản 6 và 7 Điều 9 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (hướng dẫn Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP) thi hành một số quy
định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2011 hướng dẫn thực hiện Điều 89 Bộ luật tố tụng dân
sự như sau:
“…6. Nếu có người nào cản trở Toà án tiến hành
việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thì Thẩm phán yêu cầu đại diện của Uỷ
ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp
thời để thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Trong trường hợp cần
thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp
thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp, hỗ
trợ, theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9-2003
của Bộ Công an hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát
bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân.
7. Trường hợp đã thực hiện đầy đủ các biện pháp
được hướng dẫn tại khoản 6 Điều này mà vẫn không tiến hành được, thì
Thẩm phán lập biên bản về việc đương sự cản trở việc xem xét, thẩm định
tại chỗ để lưu vào hồ sơ vụ án. Biên bản về việc đương sự cản trở việc
xem xét, thẩm định tại chỗ, đồng thời, phải được gửi cho cơ quan có thẩm
quyền xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành
công vụ của đương sự ».
So với Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về một số quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ” thì Nghị
quyết số 04/2012/NQ-HĐTP đã bổ sung thêm khoản 7 ở trên khi hướng dẫn
Điều 89 Bộ luật tố tụng dân sự. Quy định này của Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP được áp dụng khi đương sự hoặc những người khác có hành
động chống đối, gây rối khi Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ; nhưng với
trường hợp đương sự đóng cửa, bỏ đi, Tòa án không thể vào xem xét, đo
vẽ nhà đất thì có được coi là hành vi “cản trở” được nêu tại khoản 6
Điều 9 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP và có được áp dụng các biện pháp
nêu tại khoản 7 hay không thì vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo ý
kiến của tác giả vì lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc
lực lượng Công an nhân dân không thể can thiệp, hỗ trợ Tòa án trong
trường hợp đương sự khóa cửa, khóa cổng nhà đất bỏ đi; cơ quan có thẩm
quyền cũng không thể xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống
người thi hành công vụ của đương sự vì không có việc chống người thi
hành công vụ nên không thể áp dụng khoản 7 Điều 9 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP trong trường hợp đương sự khóa cửa, khóa cổng, bỏ đi
khỏi nhà đất là đối tượng cơ quan Tòa án cần xem xét, thẩm định tại chỗ.
Trên thực tế, các Thẩm phán ở địa phương đã phải vận
dụng nhiều cách khác nhau từ việc phối hợp với chính quyền địa phương,
Mặt trận tổ quốc, tổ chức Đảng… để giải thích, thuyết phục đương sự hợp
tác, để Tòa án tiến hành đo vẽ, định giá nhà đất, tài sản tranh chấp.
Trong trường hợp không thể xem xét, thẩm dịnh tại chỗ được, Tòa án phải
thu thập các chứng cứ khác như sử dụng những bản vẽ nhà đất cũ hoặc
những số liệu về diện tích nhà đất có tại những tài liệu khác như sổ mục
kê, sổ kê khai đăng ký ruộng đất…(nếu có) để giải quyết vụ án. Nếu việc
này không đem lại kết quả thì Tòa án buộc phải tạm dừng việc giải quyết
vụ án.
Được biết, để khắc phục tình trạng này, từ nhiều năm
nay, các Tòa án nhân dân cấp quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh đã
vận dụng khoản 12 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự, ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm đương sự thực hiện hành vi cản trở
việc đo vẽ, định giá tài sản. Đây là một biện pháp rất có hiệu quả, nếu
tất cả các Tòa án đều thực hiện theo cách này thì sẽ tháo gỡ được vướng
mắc khi đương sự cản trở Tòa án tiến hành việc xem xét, thẩm định tại
chỗ khi giải quyết vụ án, tránh tình trạng tồn đọng án vì lý do này. Tuy
nhiên, không phải Tòa án địa phương nào cũng mạnh dạn thực hiện như các
Tòa án nhân dân tại thành phố Hồ Chí Minh vì pháp luật không quy định
về vấn đề này và Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể.
Về việc áp dụng khoản 12 Điều 102 Bộ luật tố tụng
dân sự để ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm đương sự
thực hiện hành vi cản trở việc đo vẽ, định giá tài sản như các Tòa án
nhân dân cấp quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, tác giả có
một số ý kiến như sau:
Theo điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự và điều 1 Nghị
quyết 02/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn
cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự thì biện pháp khẩn cấp tạm thời
chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
“a. Để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của
đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Toà án giải quyết và
cần phải được giải quyết ngay, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng
xấu đến đời sống, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của đương sự;
b. Để bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được;
c. Để bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt
hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng
hiện có liên quan đến vụ án đang được Toà án giải quyết;
d. Để bảo đảm việc thi hành án tức là làm cho chắc
chắn các điều kiện để khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành
thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án.”
Như vậy, “để bảo vệ chứng cứ” đã được quy định là một trong những căn cứ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng “để thu thập chứng cứ” thì
không được quy định là một trong những căn cứ để áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, trong khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ hay để thu thập chứng cứ có cùng chung đối tượng đó là chứng cứ
và chung mục đích cuối cùng là có được chứng cứ làm căn cứ cho việc
giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự; bảo vệ và thu thập chứng cứ đều cần
thiết như nhau, có thể là tiền đề và hệ quả của nhau và đều không trái
nguyên tắc chung của Bộ luật tố tụng dân sự. Do pháp luật không quy định
cụ thể nên việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để thu thập chứng cứ
cần thiết phải có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để tạo điều
kiện cho các Tòa án nhân dân địa phương trong việc giải quyết các vụ
việc cần phải xem xét và thẩm định tại chỗ.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 16/2006/DS-GĐT ngày
05/7/2006 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất” của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được đăng trong
tập Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao năm 2006, từ
trang 261 đến trang 269, liên quan đến việc đương sự cản trở các cấp Tòa
án không cho đo vẽ nhà đất tranh chấp, trong phần xét thấy có nhận
định như sau: “Lẽ ra, trong trường hợp phía bị đơn không hợp tác, gây
khó khăn cản trở cho các cấp Tòa án trong việc xác minh, đo vẽ cụ thể
các diện tích nhà, đất, công trình kiến trúc, thì Tòa án cần áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp “Cấm hoặc buộc đương
sự thực hiện một số hành vi nhất định” để Tòa án thực hiện được việc
xác minh, đo vẽ theo số đo cụ thể các diện tích nhà, đất, công trình
kiến trúc…”. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã bị Quyết định giám đốc
thẩm nêu trên hủy để giải quyết lại với lý do là không đo vẽ cụ thể
diện tích nhà đất tranh chấp. Đây có thể coi là “án lệ”, là hướng
dẫn của Tòa án nhân dân tối cao không chỉ đối với vụ án này mà có thể áp
dụng với các trường hợp tương tự khi giải quyết các vụ án khác. Vì vậy,
theo tác giả, cách giải quyết của các Tòa án tại thành phố Hồ Chí Minh
là đúng với đường lối xét xử của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
Tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 99 Bộ luật tố tụng
dân sự, bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để
“thu thập chứng cứ” bên cạnh những căn cứ khác. Trước mắt, cần phối hợp
liên ngành hướng dẫn thực hiện theo cách mà các Tòa án nhân dân cấp
quận, huyện tại thành phố Hồ Chí Minh đang áp dụng.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment