THS. NGUYỄN THỊ MINH HẰNG – ĐH Ngoại Thương HN
Công ước Vienne năm 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (CISG) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về
Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống
nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Công ước này đã trở thành công ước được áp dụng rộng
rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá
quốc tế. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có 66 quốc gia là thành viên
Công ước này .
Từ khi công ước có hiệu lực (ngày 01/01/1988), đến thời điểm hiện nay tổng số các bản án, phán quyết đã lên tới hơn 1.600.
CISG cũng góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát
triển của quan hệ thương mại về hàng hoá giữa các quốc gia. Việc cùng
trở thành thành viên của công ước giúp các quốc gia xích lại gần nhau
hơn trong quan hệ mua bán, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được nhanh chóng và thuận lợi
hơn.
Trong số hàng nghìn án lệ về CISG, đã có một án lệ
liên quan đến Việt Nam. Đây là án lệ về tranh chấp giữa Công ty thương
mại Tây Ninh – Tanico (Việt Nam) và DN Ng Nam Bee (Singapore), được xét
xử tại Toà phúc thẩm – TAND Thành phố Hồ Chí Minh, bản án tuyên ngày
4/5/1996. Khi xét xử vụ việc này, Toà án đã tham chiếu điều 29 và điều
53, điều 64 CISG. Đây là một án lệ về CISG đầu tiên đối với Việt Nam. Án
lệ này cho thấy, dù Việt Nam chưa phải là thành viên công ước, nhưng
vẫn có những trường hợp công ước này có thể được áp dụng ở Việt Nam.
Câu hỏi được đặt ra là: một khi VN chưa trở thành một
quốc gia thành viên của công ước thì khi nào và trong trường hợp nào,
CISG có thể được áp dụng tại VN?
Vì vậy, để xem xét các trường hợp có thể áp dụng CISG
ở Việt Nam, chúng ta cần nghiên cứu Điều 1 của CISG. Điều 1.1 của CISG
quy định: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau: a. Khi các quốc
gia này là các quốc gia thành viên của công ước; b. Khi theo các quy
phạm tư pháp quốc tế thì luật áp dụng là luật của một quốc gia thành
viên của công ước.”
Khi Việt Nam chưa là thành viên của CISG thì không
thể áp dụng CISG theo điều 1.1.a nói trên cho các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mà một bên là bên Việt Nam.
Tuy vậy, ở trường hợp thứ hai, CISG sẽ có thể được áp
dụng cho các hợp đồng mua bán quốc tế được ký kết giữa một bên có trụ
sở thương mại tại một quốc gia là thành viên và một bên có trụ sở thương
mại tại một quốc gia chưa phải là thành viên công ước. Lấy ví dụ, một
hợp đồng mua bán sản phẩm viễn thông được ký kết giữa người bán
Singapore (Singapore đã gia nhập CISG vào ngày 16/02/1995 và có hiệu lực
từ ngày 1/3/1996) và người mua Việt Nam (Việt Nam chưa gia nhập hay phê
chuẩn Công ước). Hai bên không lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng.
Khi có tranh chấp xảy ra, toà án (trọng tài) sẽ phải dựa vào các qui
phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp
đồng. Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật nước người bán – tức là
luật Singapore, thì luật áp dụng cho hợp đồng sẽ là luật Singapore.
Nhưng vì Singapere là một quốc gia thành viên của CISG nên đối với các
tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, toà án (trọng tài) sẽ
không áp dụng luật của Singapore mà sẽ áp dụng CISG để giải quyết tranh
chấp. Nếu tranh chấp được giải quyết tại Việt Nam và quy phạm xung đột
của Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một quốc gia thành viên
công ước thì chúng ta cũng có kết quả tương tự: đó là CISG sẽ được áp
dụng cho hợp đồng. Đây là điểm mà các DN Việt Nam cần chú ý nhằm có được
thế chủ động khi CISG được áp dụng vào hợp đồng theo trường hợp thứ hai
nêu trên.
Ngoài trường hợp nói trên, còn có hai trường hợp khác ở đó CISG có thể được áp dụng:
- Khi các bên trong hợp đồng lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng của mình;
- Khi trong hợp đồng, các bên không lựa chọn luật áp
dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp lựa chọn CISG để giải quyết tranh
chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là toà án VN, toà án nước
ngoài, trọng tài VN hay trọng tài nước ngoài.
Khuyến nghị cho các DN VN
Khuyến nghị thứ nhất là DN cần nghiên cứu để nắm được
tinh thần và nội dung của CISG: Theo chúng tôi sẽ còn có nhiều tranh
chấp nữa về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế giữa doanh ngiệp Việt Nam
và các đối tác nước ngoài sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án
Việt Nam, tòa án nước ngoài và đặc biệt là các trọng tài quốc tế. Như
vậy, tuy Việt Nam chưa tham gia CISG nhưng các tranh chấp trong mua bán
hàng hoá quốc tế của các DN nước ta rất có thể sẽ được xét xử theo Công
ước này. Vì vậy, chúng tôi nhấn mạnh trước hết đến việc phổ biến Công
ước này cho các DN xuất nhập khẩu Việt Nam, tạo điều kiện cho các DN
tiếp cận và nắm được tinh thần và nội dung của Công ước này. Bộ Thương
mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI có thể tổ chức các
khoá học cho DN nhằm mục đích này. Các DN cũng có thể tham gia các khoá
học do trường Đại học Ngoại Thương tổ chức (ví dụ các khoá học xuất nhập
khẩu ngắn hạn, các lớp học chuyên đề về xuất nhập khẩu…). Ngoài ra, các
DN có thể chủ động tiếp cận với các nguồn thông tin rất phong phú, đa
dạng trên Internet liên quan đến CISG.
Khuyến nghị thứ hai là DN có thể lựa chọn CISG là
luật áp dụng cho hợp đồng: Lựa chọn luật áp dụng luôn là một vấn đề quan
trọng và khó khăn đối với các nhà đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế của Việt Nam. Họ có sự lựa chọn giữa luật Việt Nam, luật quốc
gia của đối tác, luật quốc gia của nước thứ ba, điều ước quốc tế như
CISG hay tập quán thương mại quốc tế…
Hiện tại Việt Nam chưa gia nhập CISG nhưng các DN
xuất nhập khẩu Việt Nam có thể lựa chọn CISG làm nguồn luật điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế vì ba lý do sau:
- Thứ nhất, tránh được những khó khăn khi phải đàm
phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng cho hợp đồng. Trên thực tế,
việc lựa chọn luật quốc gia thường gặp phải rất nhiều khó khăn.
o o Nếu như các nhà đàm phán nước ngoài thường có xu
hướng lựa chọn luật quốc gia của mình thì điều này lại không hoàn toàn
đúng với các nhà đàm phán Việt Nam. Họ hiểu rằng việc dẫn chiếu đến luật
Việt Nam đôi khi không phải là giải pháp tối ưu, vì pháp luật về hợp
đồng nói chung và về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của
Việt Nam còn hàm chứa nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện quốc tế,
với pháp luật, tập quán thương mại quốc tế và như vậy, chưa thể bảo vệ
một cách hiệu quả lợi ích của các bên trong hợp đồng quốc tế.
o o Việc lựa chọn luật quốc gia của nước ngoài có thể
đem lại những rủi ro pháp lý cho DN Việt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy
đủ về luật đó.
- Thứ hai, đây là nguồn luật phổ biến nhất điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay. CISG đã được phê chuẩn bởi
66 quốc gia, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài
của Việt Nam như Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan,
Australia, Trung Quốc… Các công ty, DN của các nước này đã áp dụng và đã
quen áp dụng CISG cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác
nước ngoài. Vì vậy, nếu DN Việt Nam đề xuất việc áp dụng CISG thì sẽ dễ
dàng được đối tác chấp nhận.
- Thứ ba, có được sự an toàn về mặt pháp lý. Qua việc
tìm hiểu các quy định của CISG cũng như qua việc phân tích các án lệ
liên quan đến CISG trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế, chúng tôi thấy rằng các quy định của CISG là phù
hợp với thực tiễn thương mại quốc tế, thường được các DN và công ty lựa
chọn áp dụng cũng như được các toà án, đặc biệt là các trọng tài quốc tế
dẫn chiếu đến khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với tư cách là một
văn bản luật thực chất nhằm giải quyết các xung đột trong kinh doanh
quốc tế, các quy định trong Công ước được coi là rất hợp lý, đã thống
nhất được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế
giới, tạo được sự bình đẳng giữa người bán và người mua trong quan hệ
hợp đồng, giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình
khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Khi đã thống nhất lựa chọn CISG làm luật áp dụng cho
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, vì Việt Nam chưa gia nhập Công ước
nên khi ký kết hợp đồng, cho dù quốc gia của đối tác chưa tham gia hay
đã là thành viên của CISG, cần phải quy định cụ thể việc áp dụng CISG
trong “Điều khoản Luật áp dụng”- “Applicable Law Clause”. Điều khoản này
cần được quy định cụ thể, rõ ràng, tránh gây ra những xung đột khi
tranh chấp phát sinh. Theo chúng tôi, muốn lựa chọn CISG để áp dụng cho
hợp đồng, có thể quy định “Điều khoản Luật áp dụng” trong hợp đồng như
sau: “Any questions relating to this Contract which are not expressly or
implicitly settled by the provisions contained in the Contract itself
shall be governed by the United Nations Convention on the International
Sale of Goods and to the extent that such questions are not covered by
CISG, by reference to the law of the country where the Seller has his
place of business”. (Bất kỳ vấn đề nào liên quan đến hợp đồng này mà
không được qui định một cách rõ ràng hay ngầm hiểu trong các điều khoản
của hợp đồng thì sẽ được điều chỉnh bởi Công ước Viên của Liên hợp quốc
về mua bán hàng hoá quốc tế, và nếu những vấn đề đó cũng không thuộc
phạm vi điều chỉnh của CISG thì sẽ tham chiếu tới Luật của quốc gia nơi
người bán đặt trụ sở kinh doanh) .
Nhìn vào điều khoản mẫu nói trên, sẽ có câu hỏi đặt
ra là: Tại sao đã chọn CISG rồi lại còn phải chọn luật quốc gia nơi
người bán đóng trụ sở? Mặc dù các nhà phân tích và các nhà kinh doanh
hết lời ca ngợi CISG, nhưng CISG không phải là một công cụ toàn năng,
CISG không điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Một số vấn đề được CISG “bỏ ngỏ” , ví dụ như vấn đề
thẩm quyền ký kết hợp đồng, điều kiện hiệu lực của hợp đồng . Do vậy, để
chặt chẽ và tránh phát sinh tranh chấp khi lựa chọn CISG là luật áp
dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các bên nên lựa chọn một
nguồn luật “phụ trợ” để giải quyết các vấn đề mà CISG không bao trùm
(thường nguồn luật phụ trợ này là luật quốc gia).
Khuyến nghị về việc Việt Nam tham gia Công ước
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh
mẽ như hiện nay, việc gia nhập CISG là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
to lớn đối với các hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động mua bán
hàng hoá (xuất nhập khẩu) nói riêng của Việt Nam. Đây là Công ước về
mua bán hàng hóa quốc tế đã được nhiều nước tham gia, phê chuẩn, đóng
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong
thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Việt Nam
đang trên con đường hội nhập một cách chủ động và tích cực vào nền kinh
tế thế giới, đẩy mạnh các quan hệ hợp tác song phương và đa phương, do
đó, việc các văn bản luật quốc gia chưa phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ
gây cho chúng ta nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh những xung đột
pháp luật với các nước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn.
Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 (và ngay cả Luật Thương mại Việt Nam
năm 2005) liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn bộc lộ
nhiều mặt hạn chế và còn chứa đựng những điều khoản chưa phù hợp với
thực tiễn và đòi hỏi của các nhà kinh doanh quốc tế. Điều này đòi hỏi
chúng ta phải nhanh chóng có các giải pháp tiến tới gia nhập CISG trong
thời gian sớm nhất để thống nhất nguồn luật áp dụng cho mua bán hàng hóa
quốc tế giữa các DN Việt Nam và các đối tác nước ngoài. Khi đó các DN
Việt Nam và nước ngoài sẽ cùng chung “tiếng nói”, cùng chung quan điểm
và nhờ đó, các mối quan hệ hợp tác thương mại quốc tế sẽ ngày càng gắn
chặt hơn, lâu bền hơn và rộng mở hơn.
0 comments:
Post a Comment