TS. PHAN CHÍ HIẾU – HỌC VIỆN TƯ PHÁP
Chế định hợp đồng có vai
trò quan trọng trong việc tạo dựng khung pháp lý cho các giao lưu dân
sự, kinh tế. So với Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, Dự thảo BLDS sửa đổi
đã mang nhiều ý tưởng và nội dung mới. Tuy vậy, vẫn còn một số quy định
về chế định hợp đồng chưa thực sự hợp lý, cần được trao đổi thêm .
Phạm vi áp dụng của chế định hợp đồng
Xác định chính xác phạm vi áp dụng của
chế định hợp đồng không chỉ góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mà còn tạo tiền đề cho việc
thiết kế cấu trúc và xây dựng các nội dung cụ thể của chế định này
trong BLDS (sửa đổi). Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hợp
đồng trong thời gian qua nổi lên một số vấn đề.
Thứ nhất, các quy định
liên quan đến hợp đồng tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau,
từ những văn bản quy định chung về hợp đồng như BLDS, Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế (PLHĐKT) đến những văn bản quy định riêng về từng loại hợp đồng
trong mỗi lĩnh vực cụ thể như Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật
Xây dựng; dẫn đến có nhiều quy định về hợp đồng mâu thuẫn, chồng chéo
với nhau.
Thứ hai, các tiêu chí phân định hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự không rõ ràng, vì vậy, thường xuyên xuất hiện những quan hệ “giáp ranh” không biết thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản pháp luật nào, BLDS hay PLHĐKT?
Thứ ba, cách thức áp
dụng phối hợp các văn bản pháp luật để điều chỉnh một quan hệ hợp đồng
cụ thể cũng không rõ ràng. Cho đến thời điểm hiện nay vẫn không rõ có
thể áp dụng các quy định của BLDS để điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế
được hay không; thứ tự ưu tiên áp dụng các quy định trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành so với các quy định trong BLDS, PLHĐKT n hư thế
nào? Vì vậy, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng khá
tuỳ tiện, thiếu thống nhất, phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của những
ngời có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng.
Thực tế trên đặt ra nhu cầu phải thống
nhất sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ hợp đồng. Muốn vậy,
cần mở rộng phạm vi áp dụng của chế định hợp đồng trong BLDS theo
hướng: Mọi quan hệ hợp đồng, bất luận được ký kết giữa những ai, trong
lĩnh vực gì, hướng tới mục đích nào đều chịu sự điều chỉnh chung của các
quy định trong BLDS. Bên cạnh các quy định mang tính nguyên tắc chung
về hợp đồng trong BLDS, nếu thấy cần thiết, Nhà nớc có thể ban hành các
quy định riêng trong các đạo luật chuyên ngành để điều chỉnh hiệu quả
hơn các quan hệ hợp đồng phát sinh trong từng lĩnh vực cụ thể như: sản
xuất, mua bán, vận chuyển, bảo hiểm, tín dụng, xây dựng… Để đơn giản hoá
việc áp dụng pháp luật trong thực tế, Dự thảo cần bổ sung điều khoản
quy định về nguyên tắc áp dụng phối hợp BLDS với các văn bản pháp luật
chuyên ngành khác có liên quan đến hợp đồng.
Ví dụ: “Điều…
1. Các quy định của Bộ luật
này đợc áp dụng cho việc ký kết và thực hiện mọi loại hợp đồng mà không
phân biệt lĩnh vực phát sinh quan hệ.
2. Trường hợp có sự khác nhau giữa quyđịnh của BLDS và luật chuyên ngành thì áp dụng quy định của luật chuyên ngành.
3. Trường hợp luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng quy định của BLDS”.
Dự thảo nên thay thế thuật ngữ hợp đồng dân sự đang sử dụng bằng thuật ngữ hợp
đồng. Đây không phải thuần tuý
là vấn đề học thuật mà là tiền đề để mở rộng phạm vi điều chỉnh cho chế
định hợp đồng trong BLDS. Việc Dự thảo tiếp tục sử dụng thuật ngữ hợp
đồng dân sự, vô hình trung, sẽ tạo ra tư duy phân biệt các loại hợp đồng
kinh tế, hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động.
Các quy định liên quan đến việc giao kết hợp đồng
Thứ nhất: Dự
thảo cần bổ sung quy định để dễ dàng nhận diện đề nghị giao kết hợp
đồng và phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị giao dịch
(invitation to treat). Việc phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với đề
nghị giao dịch có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn, bởi khi bên đợc đề
nghị chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng sẽ dẫn tới hình thành quan hệ hợp đồng, còn khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị giao dịch chỉ dẫn tới việc hình thành đề nghị giao kết hợp đồng. Thực
tế ký kết hợp đồng trong thời gian qua cho thấy, có nhiều trờng hợp
nhầm lẫn giữa đề nghị giao kết hợp đồng và đề nghị giao dịch, ví dụ, các
thông tin quảng cáo, tờ rơi, báo giá, thư mời thầu, trưng bày hàng hoá
có niêm yết giá…
Thứ hai: Liên
quan đến trách nhiệm của bên đề nghị giao kết hợp đồng đối với đề nghị
giao kết hợp đồng, Khoản 3 Điều 372 Dự thảo quy định: “Trong thời
hạn chờ bên được đề nghị trả lời, bên đề nghị giao kết hợp đồng không
được mời người thứ ba giao kết và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị
của mình”. Tại sao pháp luật lại không cho phép người đề nghị giao kết hợp đồng mời người thứ ba giao kết hợp
đồng với mình trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời nếu họ muốn
thiết lập quan hệ với nhiều ngời và hoàn toàn có khả năng thực hiện tất
cả các hợp đồng với những người được đề nghị giao kết hợp đồng? Do đó,
cần quy định lại Khoản 3 Điều 372 Dự thảo nh sau: “Trong thời hạn
hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị giao kết hợp đồng
phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình”.
Thứ ba: Bổ sung các
điều luật quy định mang tính nguyên tắc về giao kết hợp đồng thông qua
các thủ tục đặc biệt nh đấu thầu, đấu giá, mua bán tại các sàn giao
dịch, mua bán những loại tài sản sẽ có trong tương lai, mua sắm của
Chính phủ… Bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp
đồng với sự hỗ trợ của mạng Internet để đặt nền móng cho sự phát triển
của thương mại điện tử. Đành rằng các vấn đề này phải đợc quy định trong
từng văn bản pháp luật riêng, nhng BLDS (sửa đổi) cũng phải quy định
những nguyên tắc chung về các hiện tợng nêu trên để đảm bảo tính thống
nhất khi xây dựng các quy định riêng trong các văn bản pháp luật chuyên
ngành.
Hình thức của hợp đồng
Điều 394 Dự thảo quy định: “Hợp đồng
dân sự có thể đợc giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ
thể hoặc thông điệp dữ liệu, khi pháp luật không quy định đối với loại
hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Như vậy, Điều 394 Dự thảo đã coi thông điệp dữ liệu là một hình thức của hợp đồng dân sự. Còn khoản 1 Điều 115 Dự thảo về hình thức của giao dịch dân sự lại quy định: “Giao
dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Các giao dịch dân sự thông qua các hình thức điện báo, telex,
fax, th điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là
giao dịch bằng văn bản”.
Thực chất, Điều 394 Dự thảo là một bản
sao không hoàn hảo của Điều 115 Dự thảo. Hợp đồng dân sự cũng là một
dạng giao dịch dân sự, do đó quy định tại Điều 115 Dự thảo về hình thức
giao dịch dân sự hoàn toàn có thể áp dụng cho hợp đồng dân sự. Bởi vậy,
để tránh sự trùng lặp và mâu thuẫn giữa hai điều luật cùng quy định về
một vấn đề thì Dự thảo cần loại bỏ Điều 394.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể
xuất hiện những sự kiện dẫn đến việc một bên đơn phơng chấm dứt thực
hiện hợp đồng. Về quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, Điều 407
Dự thảo quy định: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vihạm hợp đồng
là điều kiện chấm dứt mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy
định. Bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại”. Theo điều
luật này thì để bên bị vi phạm thực hiện quyền đơn phơng chấm dứt thực
hiện hợp đồng phải hội đủ hai điều kiện: (1) có sự vi phạm hợp đồng của
bên kia và (2) hành vi vi phạm này đã đợc các bên tiên liệu và thoả
thuận trớc với nhau trong hợp đồng hoặc đợc pháp luật quy định.
Trên thực tế khi ký hợp đồng, các bên
không thể tiên liệu trước được tất cả các tình huống vi phạm hợp đồng
dẫn tới quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Bản thân BLDS hiện hành, Dự
thảo BLDS (sửa đổi) và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác không quy
định cụ thể về các hành vi vi phạm là căn cứ cho bên bị vi phạm thực
hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Bởi vậy, bên bị vi phạm rất khó
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, kể cả khi có sự vi phạm
nghiêm trọng các cam kết trong hợp đồng.
Để bên bị vi phạm có thể chủ động thực
hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, Dự thảo nên quy định: Nếu có vi
phạm nghiêm trọng (vi phạm cơ bản) của một bên thì bên kia được quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng và giải thích thế nào là vi phạm nghiêm trọng. Pháp
luật của nhiều nước trên thế giới quan niệm vi phạm cơ bản là những vi
phạm dẫn đến mục đích mà các bên đặt ra khi ký hợp đồng là không đạt
được. Từ phân tích trên, Điều 407 Dự thảo nên được quy định lại như sau:
“Một bên có quyền đơn phơng chấm dứt thực hiện hợpđồng trong các trường hợp sau:
1. Khi bên kia vi phạm nghiêm trọng hợp đồng làm bên bị vi phạm không đạt được mục đích đề ra khi ký hợp đồng;
2. Các trường hợp khác theo
thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Bên vi phạm
hợp đồng phải bồi thường thiệt hại”.
Thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng
dân sự là thời hạn do pháp luật quy định để bên bị vi phạm hợp đồng thực
hiện quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng; nếu hết thời hạn này mà bên bị vi phạm không khởi kiện
thì sẽ mất quyền khởi kiện. Điều 408 Dự thảo quy định: “Thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợpđồng dân sự là ba
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các
chủ thể khác bị xâm phạm”.
Việc quy định trên dẫn tới sự chồng chéo,
mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Hiện nay, rất nhiều văn bản pháp
luật đã có quy định về thời hiệu khởi kiện và mốc xác định ngày bắt đầu
thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng: Bộ luật Tố tụng dân sự quy định
thời hiệu khởi kiện là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp
các bên bị xâm phạm; Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định thời hiệu
khởi kiện là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp; Luật Thơng mại quy
định thời hiệu khởi kiện là hai năm, kể từ ngày phát sinh quyền khiếu
nại; Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định thời hiệu khởi kiện là ba năm, kể
từ ngày phát sinh tranh chấp.
Để tránh sự phức tạp trong thực tiễn áp
dụng, nên bỏ quy định về thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tại
Điều 408 của Dự thảo. Nếu cần quy định về thời hiệu thì để cho các văn
bản pháp luật chuyên ngành, căn cứ vào tính chất của quan hệ hợp đồng
trong từng lĩnh vực riêng mà quy định thời hiệu khởi kiện cho phù hợp.
Bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng
Để tạo cơ sở cho việc xây dựng các quy
định về một số loại hợp đồng cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên
ngành, Dự thảo cần quy định bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng nh
hợp đồng cung ứng điện năng, nớc, điện thoại, hợp đồng xây dựng… Tuy
nhiên, để tạo tính thống nhất trong pháp luật về hợp đồng, cần tiến hành
rà soát để hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn
bản pháp luật chuyên ngành trên cơ sở các quy định mang tính nguyên tắc
chung của BLDS. Các quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành cần đợc hoàn thiện theo các hướng sau:
Thứ nhất, các quy định liên quan đến hợp đồng trong văn bản pháp luật chuyên ngành
không nhắc lại một cách thuần tuý các quy định vốn đã rõ ràng trong BLDS.
Thứ hai, các văn bản
pháp luật chuyên ngành chỉ quy định những gì mang tính đặc thù của các
quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể, hạn chế việc đa quá nhiều quy
định riêng vào luật chuyên ngành.
Thứ ba, những
quy định trong pháp luật chuyên ngành phải được xây dựng trên cơ sở các
quy định mang tính nguyên tắc chung của BLDS để đảm bảo tính thống nhất
của hệ thống pháp luật về hợp đồng. Nói như vậy không có nghĩa là luật
chuyên ngành không được quy định khác so với BLDS. Khi xây dựng các quy
định về hợp đồng trong văn bản pháp luật chuyên ngành cần lưu ý tới
những sự khác biệt cho phép và sự khác biệt không cho phép (mâu thuẫn).
Thứ tư, bản thân các
văn bản pháp luật chuyên ngành cũng cần quy định rõ nguyên tắc áp dụng
phối hợp các quy định về hợp đồng trong BLDS và trong các văn bản pháp
luật chuyên ngành để thống nhất trong nhận thức và thực tiễn vận dụng
pháp luật.
Có như vậy thì các quy định của BLDS (khi được thông qua) mới thực sự trở thành “bà đỡ mát tay” cho các quan hệ hợp đồng ra đời, góp phần bảo đảm sự thông suốt của các quá trình giao lưu dân sự, kinh tế./.
**********************************
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 4/2005
0 comments:
Post a Comment