LG. NGÔ NGỌC BỬU – TS. TRẦN ĐÌNH PHỤNG
Kinh nghiệm và
những bài học quốc tế ngày nay không còn giấu giếm như trước kia mà được
phổ biến, đánh giá và công bố rộng rãi trên toàn thế giới. Chỉ e rằng
chúng ta không đủ kiên nhẫn và năng lực tiếp nhận để lãnh hội được những
kinh nghiệm quý báu ấy; nhất là trong việc sửa đổi cho đồng bộ thể chế
hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại theo tiêu chuẩn WTO, sao cho
không chồng chéo lên nhau, để tránh những khó khăn khi giải quyết tranh
chấp hợp đồng tại quốc nội cũng như quốc tế.
Định chế hợp đồng bắt nguồn từ luật La Mã
và sau này làm các quốc gia châu Au trong hệ thống luật dân sự đã bổ
sung và nâng cao để làm rạng rỡ thêm cho nền pháp chế châu Au lục địa.
Theo luật La Mã, hợp đồng (Contratus) được coi là căn cứ làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với 2 điều kiện không thể thiếu
là: (1) Phải có sự thỏa thuận (Consensus), tức là có sự thống nhất giữa
các bên kết ước và bình đẳng về pháp lý; (2) Phải có mục đích và căn cứ
pháp lý nhất định (Causa) để các bên cùng hướng tới. Và, hợp đồng là
phương tiện để đạt được các mục đích đó. Mặt khác, hợp đồng sẽ không có
hiệu lực nếu nội dung của nó vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái
với đạo đức xã hội, ví dụ như hợp đồng vận chuyển chất ma túy, mua bán
trẻ em… Pháp là quốc gia đã giúp cho hệ thống dân luật châu Au ngày càng
đâm hoa kết trái bởi Bộ luật dân sự (Code Civil) năm 1804, dưới thời
vua Napoléon, với một số điều khoản mà cho đến nay, 200 năm sau, vẫn còn
có giá trị pháp lý, kế thừa tinh hoa của nhân loại, Bộ luật dân sự Việt
Nam đã thể hiện tương đối đầy đủ khái niệm hợp đồng, là “hợp đồng dân
sự là sự thỏa thuận giữa các bên về sự xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự” (điều 394 BLDS) và một số những nguyên tắc như
giao kết, thể lệ chấm dứt, sửa đổi hợp đồng… đồng thời luật này cũng đưa
ra 13 loại hợp đồng là: hợp đồng mua bán tài sản, trao đổi, tăng, thuê,
vay tài sản… là các điều khoản phù hợp với quan hệ dân sự thuần túy;
nhưng đồng thời Luật dân sự VN cũng xếp hợp đồng vận chuyển hành khách
(đường bộ, đường biển) và hợp đồng bảo hiểm thuộc quan hệ dân sự; trong
khi đó, theo luật mẫu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) về hành vi
thương mại có quy định rằng “cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm và vận chuyển
hàng hóa bằng đường sắt, đường bộ, đường biển và hàng không” là những
hành vi thương mại thuần túy, do thể chế thương mại của mỗi quốc gia và
thể lệ quốc tế về thương mại điều chỉnh, kể cả việc giải quyết tranh
tụng cũng đưa ra xét xử trước tòa án thương mại của mỗi nước hoặc do
trọng tài thương mại quốc tế đưa ra xét xử trước tòa án thương mại của
mỗi nước hoặc do trọng tài thương mại quốc tế phân xử trong khuôn khổ
WTO.
Sự chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu vắng thể chế
Mặc dù định chế hợp đồng dân sự trong Bộ
luật dân sự hiện hành đã có phần nào phản ảnh đúng các mối quan hệ về
tài sản, về quyền sở hữu, các quyền liên quan đến thân nhân con người,
như nghĩa vụ hôn nhân, cho, nhận tài sản… Những quyền này đi theo cái
bóng của thể nhân từ lúc con người mới sinh ra cho đến tuổi già với thể
lệ lập di chúc và phân chia tài sản không di chúc. Nói chung là Bộ luật
dân sự đã đi vào cuộc sống của mỗi công dân VN và cộng đồng các dân tộc
anh em sinh sống trên đất nước này, từ khi luật ra đời năm 1996 cho đến
nay. Nhưng, trước ngưỡng cửa của việc gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới WTO, một số điều khoản trong hệ thống Luật dân sự, pháp chế về kinh
tế và Luật thương mại hiện hành cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với
thông lệ quốc tế và tương ứng với thể lệ của WTO; vậy đâu là những
chồng chéo, mâu thuẫn cần phải chỉnh sửa? Đâu là những bánh xe thương
mại đã đem gắn vào chiếc xe dân sự, nên cần phải thay đổi; không chỉ
trong tầm nhìn luật pháp mà còn phải tác động đến bộ máy quản lý hành
chính và cung cách kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
nhà nước chủ đạo, độc quyền nói riêng, trên tiến trình hội nhập? Tác
giả xin nêu lên một số ví dụ cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề.
1. Về hợp đồng vay tiền
ngân hàng thương mại, trong 13 thể lệ hợp đồng của BLDS không có nói đến
hợp đồng này, cũng không có định danh trong luật thương mại 1998; nên
tòa án nhân dân các cấp hiện nay có 2 cách giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay ngân hàng là: (1) Nếu hai bên ký kết hợp đồng là chủ thể có
đăng ký kinh doanh, thì Tòa kinh tế thụ lý, phân xử; (2) Nếu một bên hợp
đồng vay là cá nhân (không đăng ký kinh doanh), thì dù cho số tiền vay
là nhiều hay ít, tòa án có thẩm quyền xét xử là tòa dân sự. Trong khi
đó, theo thể chế của WTO, thì tất cả hoạt động ngân hàng là hành vi
thương mại nếu có tranh chấp hợp đồng thì phải do tòa án thương mại quốc
gia hoặc trọng tài quốc tế giải quyết. Còn định chế tòa án thương mại
VN cho đến nay vẫn còn trong thời kỳ thai nghén, chưa ra đời. Ở đây,
chúng ta mới bàn đến việc giải quyết tranh chấp trong nước, còn đối với
những tranh chấp về tài sản, về hợp đồng và quan hệ đa phương có tầm vóc
quốc tế với nhiều thủ tục và thể chế áp dụng, chúng ta sẽ còn quá nhiều
công việc phải làm, như trong ví dụ dưới đây.
2. Một quả phụ Ấn Độ là
vợ của một thương nhân người Ấn đã hợp đồng liên doanh với một công ty
vận tải biển VN hơn 10 năm qua. Trong thời gian ở VN, ông này cưới vợ
VN, có 1 căn nhà tọa lạc tại quận 1, TP.HCM để cho vợ và 3 đứa con người
vợ VN sinh ra cùng ở đây. Nay thương nhân người Ấn chết, để lại nhiều
tài sản, tiền bạc tại VN trong đó có 2 chiếc tàu vận tải và hợp đồng
liên doanh chưa được thanh lý. Quả phụ Ấn Độ nộp đơn tại tòa án TP.HCM
(là nơi tọa lạc bất động sản) để xin tòa xét xử cho bà này được hưởng
thừa kế tài sản của chồng, theo luật Hồi giáo (luật công nhận chế độ đa
thê). Trong trường hợp này, tòa án nào tại VN sẽ thụ lý và giải quyết về
tài sản và hợp đồng liên doanh của thương nhân Ấn Độ? Và phân xử theo
luật lệ nào?
Kinh nghiệm nước ngoài
VN ta bên cạnh Trung Quốc và quốc gia này
đã là thành viên chính thức của WTO từ tháng 12.2001. Liệu chúng ta thu
thập được những kinh nghiệm nào của quốc gia có hơn 1,3 tỷ dân này?
“Thật là thú vị khi xem xét làm thế nào để việc Trung Quốc gia nhập WTO
có thể phù hợp với 5 nguyên tắc cơ bản của GATT và WTO là: (1) Không
phân biệt đối xử; (2) Mở cửa thị trường; (3) Pháp luật minh bạch và có
thể dự đoán được; (4) Thương mại không bị bóp méo; (5) Đối xử ưu đãi với
các nước đang phát triển… Đầu tiên, việc gia nhập WTO sẽ buộc Trung
Quốc phải thực hiện những cải cách pháp lý và chính sách quản lý nhà
nước, đảm bảo sự minh bạch hơn và an toàn hơn một cách nhất quán ở cấp
độ quốc tế, Trung Quốc đã cải cách đáng kinh ngạc trong 20 năm qua…”
(trích bài phát biểu của Jefrey L.Gertler, cố vấn cao cấp Ban thư ký
WTO ngày 6.6.2003 tại TP.HCM). Kinh nghiệm và những bài học quốc tế ngày
nay không còn giấu giếm như trước kia mà được phổ biến, đánh giá và
công bố rộng rãi trên toàn thế giới. Chỉ e rằng chúng ta không đủ kiên
nhẫn và năng lực tiếp nhận để lãnh hội được những kinh nghiệm quý báu
ấy; nhất là trong việc sửa đổi cho đồng bộ thể chế hợp đồng dân sự và
hợp đồng thương mại theo tiêu chuẩn WTO, sao cho không chồng chéo lên
nhau, để tránh những khó khăn khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tại
quốc nội cũng như quốc tế.
Giải pháp
Trước đây, Bộ chính trị đã định hướng cho
phái đoàn thương thuyết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là đàm phán trên
cơ sở của WTO, thì nay ta sửa đổi hợp đồng dân sự của Bộ luật dân sự
cũng lấy nền tảng WTO làm phương hướng. Nghĩa là, loại hợp đồng nào đã
được xếp hạng trong hợp đồng thương mại thì không tồn tại trong thể chế
hợp đồng dân sự; hoặc có quan hệ xã hội hiện nay không nằm trong Luật
thương mại, cũng không định danh trong Luật dân sự hay kinh tế, thì phải
cố gắng tìm tòi, nghiên cứu để đưa vào thể chế hợp đồng hiện hành, vì
có hợp đồng ký kết cụ thể, có công chứng hợp đồng, thì cơ quan thuế mới
thu được nhiều loại thuế khác nhau trên quá trình thực hiện hợp đồng đó…
Và, việc sửa đổi, bổ sung thể lệ hợp đồng dân sự kinh tế, thương mại
hiện nay không phải việc làm của một số ít người mà làm được thông qua
một số buổi tọa đàm. Cần huy động được sự đóng góp của nhiều người,
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu, góp ý thì mới đạt
được sự hoàn thiện thể chế lâu dài, ổn định như WTO đã làm và đã khuyến
cáo cho các quốc gia đang phát triển nên làm chặt chẽ như vậy ª
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự VN, NXB Thanh niên, TP.HCM, tháng 4.1996
2. Pháp luật thương mại quốc tế và VN, NXB Thống kê, TP.HCM, tháng 2.1998
3. TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp
đồng: Những quy định chung và một số vấn đề cần hoàn thiện, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, 12.2003
4. Lưu Văn Bình, Tư pháp quốc tế, Đại học luật khoa Sài Gòn ấn hành, 1962.
5. Bộ luật dân sự nước Pháp, NXB Prat Europa Paris, 1993
SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 9/2004
0 comments:
Post a Comment